Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tiếp Xúc với Các Dung Môi Hữu Cơ trong Không Khí trên Sức Khỏe - Phần 1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.83 KB, 7 trang )

Tiếp Xúc với Các Dung Môi Hữu Cơ trong
Không Khí trên Sức Khỏe
Phần 1

Không khí trong nhà
Cuộc nghiên cứu Total Exposure Assessment Methodology (TEAM)
năm 1985 của Cơ quan Bảo vệ Môi Sinh Hoa Kỳ (US Environmental
Protection Agency=EPA) đã thay đổi cách đánh giá về phẩm chất của không
khí mà chúng ta hít thở trong nhà. Bản nghiên cứu này cho thấy sự tiếp xúc
quan trọng nhất của mỗi cá nhân với những chất hữu cơ dễ bay hơi (volatile
organic compounds=VOCs) không phải do ở không khí bên ngoài trời như
chúng ta thường nghĩ mà chính là do không khí trong nhà ! EPA đã theo dõi
sự hiện diện của 20 loại VOCs (thường là những dung môi hữu cơ) trong
không khí bên trong nhà, ngoài trời, không khí hít thở và không khí bao
quanh từng cá nhân nơi 780 người. Không khí bao quanh từng cá nhân được
ghi nhận bằng cách đặt những hệ thống thu hút mẫu trên quần áo của người
đó: không khí này cho thấy có sự tiếp xúc rất cao với 11 loại VOCs (Xem
bảng), nồng độ hóa hất trong không khí này cao hơn rất nhiều so với không
khí ngoài trời. (Bản phúc trình số 0589 của EPA, công bố tại Hội nghị của
Air pollution Control Association , San Francisco-1985)
Bảng 1: Các hợp chất hữu cơ bay hơi thường gặp trong mẫu hơi thở:
Chloroform
1,1,1-Trichloroethane
Benzene
Carbon tetrachloride
Trichloroethylene
Tetrachloroethylene
Styrene
m,p-Dichlorobenzene
Ethylbenzene
o-Xylene


m,p-Xylene
Những hợp chất thường gặp nhất là: paradichlorobenzene (chất tẩy
mùi), styrene (nhựa plastic, bọt cao-su=foam rubber, chất độn bảo vệ nhiệt
độ =insulation), tetrachloro ethylene (dùng trong tẩy-giặt khô =dry
cleaning), vinylidene chloride (nhựa plastic), xylene (sơn), benzene và
ethlbenzene trong xăng-dầu. Các nồng độ này cao hơn trong khí hít thở của
những người hút thuốc (so với người không hút), điều này phù hợp với các
nghiên cứu cho rằng hút thuốc gây sự tồn đọng các hóa chất hít vào trong tế
bào phổi. Các ghi nhận khác cho thấy nồng độ benzene, xylene và
tetracholoethylene trong mẫu thử cá nhân, tăng cao hơn, mỗi khi người này
ghé trạm xăng hay đến tiệm giặt dry clean.
Công nhân làm việc tại tiệm giặt, dĩ nhiên có nồng độ hóa chất hít thở
cá nhân, cao hơn là khách hàng, tuy nhiên những công nhân này cũng còn
mang tetrachloroethylene (hay perchloroethylene) về nhà theo quần áo, tóc
và hơi thở trong phổi! Nồng độ tetrachloro ethylene trong nhà của những
công nhân làm nghề dry-clean ở mức cao đáng kể, đưa đến tình trạng có thể
bị nhiễm độc của những người cùng sống chung trong nhà! (Arch Environ
Health No 49-1994).
Các nghiên cứu trước đó, khi đối chiếu với nghiên cứu TEAM, đều
cho thấy những kết quả tương đối ổn-định nơi 800 nhà được đo không khí.
Tất cả đều cho thấy nồng độ các hóa chất trong số 40 loại VOCs nghiên cứu
đều ở mức độ cao hơn bên trong nhà so với không khí bên ngoài, có khi gấp
10 lần. Nguồn gốc của các hóa chất độc hại này có thể là từ vật liệu xây cất,
bàn ghế trong nhà, quần áo dry-clean, thuốc lá, xăng dầu, chất tẩy rửa Ngoài
ra các kết quả còn ghi nhận những người đã từng bị nhiễm độc khi tiếp xúc
với các hóa chất trước đó, nếu sau này tiếp xúc lại thì phản ứng sẽ gia tăng
hơn nhiều!
Các chất biến dưỡng từ dichlorobenzene được tìm thấy trong nước
tiểu của 96 % trẻ em tại Arkansas và trong 98% mẫu thử nơi 1000 nguời
(chọn một cách may rủi) trong toàn Hoa Kỳ (Arch Environ Health No 50-

1995)
Nồng độ cao của các hóa chất độc hại kể trên trong không khí bên
trong nhà có thể do ở hai yếu tố:
- Thứ nhất: Do ở hậu quả của cuộc 'khủng hoảng xăng-dầu' trong
những năm 70, kỹ thuật xây cất nhà cửa tại Hoa Kỳ thay đổi, tập trung vào
việc tìm cách làm nhà thật kín, để tiết kiệm năng lượng. Nhà được xây cất
với mục đích giảm thiểu tối đa sự trao đổi không khí giữa trong nhà và bên
ngoài, để bớt dùng năng lượng cần thiết để giữ nhiệt độ không thay đổi. Hău
quả là những nhà mới xây giữ lại nhiều hóa chất VOCs hơn những nhà cũ,
vốn thông thoáng hơn!
- Thứ hai: Cũng trong thời kỳ này, có sự gia tăng trong việc xử dụng
những hợp chất có chứa VOCs trong vật liệu xây cất, vải bọc, bàn ghế, vật
liệu trong nhà. Việc xử dụng gỗ được thay bằng ván vụn ép có chứa nồng độ
cao formaldehyd và VOC, Sà nhà , trước đây bằng gỗ nguyên nay cũng được
thay bằng gỗ ghép chứa formaldehyd. Sàn nhà được thay từ gỗ cứng bằng
ván phủ thảm cũng giữ lại các VOCs. Thập kỷ 70 cũng cho thấy những thay
đổi trong vật liệu làm bàn ghế trong nhà đem thêm các VOCs vào bên trong
nhà. Các chất bột polyurethane và sợi polyester thay thế các vật liệu cũ trong
nệm ghế ,sofa; sợi nhân tạo thay cho bông gòn. Rayon thay cho lụa để bọc
ghế. Các vải bọc ghế chứa formaldehyde để giúp không bị nhăn khi ngồi lên
trên ghế. Các vật dụng bằng plastic, vốn chứa phthalates nay xuất hiện đầy
trong nhà. Văn phòng lảm việc tại nhà, có máy computer, máy fax, máy sao
chụp copier. Càng làm tăng ozone, hơi plastic và VOCs trong nhà. Ngoài các
loại vật dụng trên, còn có sơn, keo dính, sưởi nóng bằng hơi gaz, bếp gaz các
nhà để xe lại là nơi tồn trữ sơn thừa, nước pha sơn, xăng dầu, thuốc trừ sâu,
diệt cỏ nấm mốc tất cả đã tạo thành một môi trường độc hại ngay bên trong
nhà.
Sự thật, tuy không tốt đẹp, nhưng chúng ta phải chấp nhận là dù sống
trong nhà, ngoài trời tại nơi làm việc.chúng ta luôn luôn phải hít thở các
dung môi và 2 nơi nguy hại nhất lại là nhà chúng ta ở và nơi làm việc mà

chúng ta sẽ tiếp xúc ít nhất là 8 giờ mỗi ngày.
Không khí tại nơi làm việc
Tại các cao ốc, văn phòng, cơ xưởng nơi chúng ta làm việc: chi phí
dành cho số lượng không khí thông thoát được xem trọng là chất lượng
không khí! Kết quả đưa đến việc tái xử dụng (recycling) không khí hơn là
thay đổi hoàn toàn không khí bên trong building bằng không khí ngoài trời.
Trong suốt những thập niên 80 và 90, có rất nhiều trường hợp thiết kế kém
cũng như vận hành không tốt các hệ thống sưởi nóng, thông khí, và điều hoà
không khí (HVAC). Tất cả các hệ thống HVAC hầu như có những bộ phận
ngưng tự (condensers) tạo ra những môi trường thích hợp cho việc phát triển
các tác nhân sinh học gây ô nhiễm không khí.
- Trường hợp tiêu biểu là: sự bộc phát của bệnh Legionnaires nơi 221
người tham dự buổi Họp của Tổ chức American Legion (một tổ chức của
Cựu chiến binh HK) tại Philadelphia năm 1976: 29 người chết vì nhiễm
khuẩn trong không khí (vi trùng này sau đó được đặt tên là Legionella
pneumophila).
- Các tòa nhà cao-ốc mới xây cất hoặc tái tạo có chứa những lượng
hóa chất cao và dễ trở thành những tòa nhà' bệnh hoạn' nơi nhiều công nhân
mắc phải 'Hội chứng bệnh cao ốc' (Sick building syndrome =SBS)(Proc
Indoor Air No 1-1993). Những triệu chứng thường gặp là nhức đầu, choáng
váng, mất định hướng, khó tập trung tư tưởng, mệt mỏi, khó chịu về mắt,
mũi, cổ họng. Khi những công nhân than phiền về các triệu chứng khó chịu
các chủ nhân cao-ốc coi thường các lời kêu ca và khi bị quá nhiều than
phiền, chủ nhân cao ốc thuê các chuyên viên về phẩm chất không khí để thử
nghiệm nhưng thử nghiệm thông thường vẫn chỉ là tìm carbon monoxid! Và
như thường lệ kết quả tìm được về nồng độ của từng hóa chất thường vẫn
nằm trong giới hạn do EPA đề ra: Trên thực tế vấn đề ô nhiễm đã xẩy ra
ngay tại Trụ Sở Trung Ương của EPA tại Washington DC, khánh thành vào
1988! Nhiều nhân viên EPA bắt đầu than phiền về sức khỏe: mẫu không khí
được lấy và đem thử nhưng không tìm thấy gì lạ.Tuy nhiên 71 nhân viên đã

phải đưa ra ngoài trụ sở vì những rối loạn sức khỏe- họ cảm thấy trở lại bình
thường khi không ở trong trụ sở! nên đã đồng tẩy chay! và EPA đã phải chấp
nhận sự việc (Xem The Inside Story, A Guide to Indoor Air Quality -
September 1988, EPA/400/1-88/004).

×