Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tiểu luận: Các nghiên cứu của trường phái sự phụ thuộc mới pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249.67 KB, 39 trang )

Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
Ti u lu nể ậ
tài:Đề “ Lý thuy t phát tri n –ế ể
Tr ng phái s ph thu c m i”ườ ự ụ ộ ớ
Nhóm 7
1
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
MỤC LỤC
I. Sự hồi đáp các nhà phê bình 3
1. Cardoso mở đường cho những nghiên cứu của trường phái sự phụ
thuộc mới3
2. So sánh giữa các nghiên cứu cổ điển và các nghiên cứu mới của
trường phái sự phụ thuộc6
II. Cardoso: Kết hợp giữa sự phát triển với sự phụ thuộc ở Brazil
1. Bối cảnh lịch sử 8
2. Mô hình sự phát triển kết hợp với phụ thuộc 11
3. Động lực chính trị 13
III. O'Donnell: Nhà nước quan liêu-độc tài ở Châu Mỹ La tinh
1. Xác định đặc điểm 16
2. Sự nổi lên của "nhà nước BA" 17
3. Chức năng của "nhà nước BA" 20
4. Sự sụp đổ hoặc sự chuyển đổi của "nhà nước BA" 21
IV. Evans: Liên minh tay ba ở Brazil trong những năm 1980
1. Sự thay đổi nhanh chóng từ tăng trưởng kinh tế thần kì sang thời kì
kinh tế bất ổn trong vòng 2 thập kỉ ở Brazil 22
2. Giải thích nguyên nhân 23
3. Tác động của liên minh tay ba 23
4. Triển vọng trong tương lai 30
V. Gold: Sự phụ thuộc năng động ở Đài Loan
1. Giai đoạn phụ thuộc cổ điển (trước 1950) 32
2. Giai đoạn phát triển phụ thuộc (1950-1970) 33


Nhóm 7
2
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
3. Giai đoạn phụ thuộc năng động (Sau 1970) 34
VI. Sức mạnh của các nghiên cứu trường phái sự phụ thuộc mới
1. Nghiên cứu lịch sử 36
2. Tập trung vào các hoạt động bên trong và có tính chính trị - xã
hội 37
3. Phát triển trong sự phụ thuộc 38
Nhóm 7
3
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
I. SỰ HỒI ĐÁP CÁC NHÀ PHÊ BÌNH
1. Cardoso mở đường cho những nghiên cứu của trường phái sự
phụ thuộc mới
Cardoso thường tự mình đưa ra những con số chìa khoá của các
nghiên cứu của trường phái sự phụ thuộc mới. Công trình đó của ông
đã đặt ra sự phân tích nghiên cứu cho một thế hệ mới của các nhà học
giả căn bản (xem ví dụ, Cardoso 1973, 1977; Cardoso và Faletto 1979).
Chương này để kiểm nghiệm sự lôi cuốn về trường phái sự phụ thuộc
mới Cardoso.
Trước hết, không giống như các phân tích tổng hợp của trường phái
sự phụ thuộc cổ điển, phương pháp nghiên cứu của Cardoso là “lịch
sử-cấu trúc”. Bởi ông muốn đem lịch sử quay trở lại trong đó, ông sử
dụng thuật ngữ “phụ thuộc” không như một lý thuyết cho hình mẫu
phổ biến của sự kém phát triển, mà là một phương pháp để phân tích
những tình huống cụ thể về sự phát triển của Thế giới thứ ba (Palma
1978). Mục tiêu của Cardoso là vạch ra lịch sử cụ thể của những tình
huống mới của sự phụ thuộc trong quá trình nghiên cứu sự khác nhau
và đa dạng của chúng. Tóm lại, những câu hỏi chính mà ông nghiên

cứu như sau: Làm thế nào các nhà nghiên cứu có thể đưa ra yếu tố lịch
sử cụ thể của một tình huống phụ thuộc nhất định? Một tình huống phụ
thuộc cá biệt khác với những tình huống trước đó như thế nào? Cái gì
là nguồn gốc lịch sử của một tình huống phụ thuộc cụ thể, khi nào và
làm thế nào tình huống sẽ thay đổi? Một tình huống phụ thuộc đang
hiện hữu tự mình tạo ra khả năng chuyển đổi như thế nào? Tác động
Nhóm 7
4
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
nào mà một thay đổi trong sự phụ thuộc có thể có trong lịch sử phát
triển của các nước thế giới thứ ba?
Thứ hai, không giống như các nhà nghiên cứu của trường phái sự
phụ thuộc cổ điển, những người chỉ tập trung vào điều kiện của sự phụ
thuộc, Cardoso lại có khuynh hướng nhấn mạnh tới cấu trúc bên trong
của sự phụ thuộc. Và thay vì nhấn mạnh sự phụ thuộc vào kinh tế,
Cardoso lại quan tâm nhiều hơn vào phân tích sự phụ thuộc ở lĩnh vực
chính trị-xã hội, đặc biệt là các tầng lớp đấu tranh, các giai cấp xung
đột,và các hoạt động phong trào chính trị. Theo Cardoso, “vấn đề về
việc phát triển của chúng ta hiện nay có thể không còn bị giới hạn bởi
một cuộc thảo luận về vấn đề thay thế nhập khẩu,thậm chí không bởi
một cuộc tranh luận vềcác chiến lược khác nhau cho sự tăng trưởng,
trong điều khoản của chính sách xuất khẩu hay không xuất khẩu, bên
trong hay bên ngoài thị trường, định hướng của nền kinh tế Vấn đề
chính là hoạt động của con người và ý thức về quyền lợi của chính họ”
(trích dẫn trong Hettne và Wallensteen 1978, trang 32). Do vậy theo
Cardoso (1977, trang 14), “ Cái quan trọng là phong trào, các tầng lớp
đấu tranh, các khái niệm về quyền lợi, các liên minh chính trị mà vẫn
duy trì những cấu trúc ban đầu trong khi đồng thời mở ra khả năng
chuyển đổi của họ”.
Tuy nhiên trong khi Cardoso đóng góp bằng việc xem xét lại vai

trò của các cuộc đấu tranh chính trị nội bộ trong những tình huống phụ
thuộc, ông cũng chỉ rõ rằng ông hiểu “ mối quan hệ giữa bên trong và
bên ngoài có tác dụng tạo nên một tổng thể phức tạp mà cấu trúc của
Nhóm 7
5
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
nó có sự kết nối, trùng khớp và ăn sâu về mặt lợi ích giữa những tầng
lớp thống trị trong nước và quốc tế và mặt khác lại được thử thách bởi
những tầng lớp, giai cấp thống trị trong nước” (Cardoso và Faletto
1979, trang xvi) Ví dụ, sự thống trị bên ngoài xuất hiện như là một sự
bắt buộc từ bên trong, thông qua thực tiễn xã hội của các giai cấp, tầng
lớp để mà cố gắng thực thi lợi ích của nước ngoài, bởi vì chúng có thể
trùng hợp với giá trị và lợi ích mà đòi hỏi của những giai cấp này là
của cá nhân họ. Do đó, Cardoso gọi phân tích đó là “ Sự chủ quan về
lợi ích của bên ngoài”
Thứ ba, không giống như các nhà nghiên cứu của trường phái sự
phụ thuộc cổ điển, những người nhấn mạnh tới việc xác định cấu trúc
của sự phụ thuộc, Cardoso quan niệm rằng sự phụ thuộc là một kết
thúc mở của một quá trình. Những cấu trúc tương tự của sự phụ thuộc
được đưa ra, có một loạt các phản ứng có thể phụ thuộc vào nội bộ liên
minh chính trị và các phong trào chính trị. Do đó nếu những cấu trúc
của sự phụ thuộc phân định ranh giới của một loạt sự biến động thì tiếp
đó các tầng lớp đấu tranh chính trị, các giai cấp, và cả nhà nước có thể
làm hồi sinh, biến dạng những cấu trúc đó, thậm chí có thể thay thế
chúng bằng những cấu trúc khác mà không được định trước.
Vì vậy, không giống như trường phái sự phụ thuộc cổ điển, trường
phái mà trong đó dự báo một xu hướng duy nhất của sự kém phát triển
của các nước thế giới thứ ba, Cardoso(1977, trang 20) tranh luận rằng
có thể có sự liên quan giữa sự phụ thuộc và sự phát triển mà ở đó sự
phụ thuộc và sự phát triển có thể cùng tồn tại trong một trạng thái năng

Nhóm 7
6
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
động hơn của sự phụ thuộc so với những mô tả đặc điểm của vùng lệ
thuộc hoặc gần như lệ thuộc vào tình huống.
Khái quát lại, rất nhiều giả định cơ bản của trường phái sự phụ
thuộc cổ điển chẳng hạn như yếu tố bên ngoài, sự phụ thuộc về kinh tế
và khung cấu trúc của sự kém phát triển, đã được thay đổi rất nhiều
trong công trình của Cardoso( Bảng 7.1). Sự thay đổi này đã mở ra
nhiều định hướng mới trong lĩnh vực nghiên cứu sự phụ thuộc. Trong
chương này, chúng ta sẽ xem xét sự phụ thuộc vào sự phát triển diễn ra
như thế nào, các yếu tố bên trong ( chẳng hạn như chế độ quan liêu độc
tài của các quốc gia và liên minh chính trị của nó với tư bản trong nước
và nước ngoài) đã hình thành con đường phát triển ở Mỹ-Latinh như
thế nào, và làm thế nào để phép màu kinh tế ở Đông Á có thể được làm
sáng tỏ dưới ánh sáng của phương pháp “lịch sử-cấu trúc” của
Cardoso.
2. So sánh giữa các nghiên cứu cổ điển và các nghiên cứu mới của
trường phái sự phụ thuộc
Bảng 7.1. So sánh giữa các nghiên cứu cổ điển và các nghiên cứu mới
của trường phái sự phụ thuộc
Các nghiên cứu cổ
điển về sự phụ
thuộc
Các nghiên cứu mới
về sự phụ thuộc
Sự giống nhau
- Tập trung nghiên
cứu
Sự phát triển của thế

giới thứ ba
Tương tự
- Mức độ phân tích Mức độ quốc gia Tương tự
- Khái niệm cốt lõi Trung tâm- ngoại vi, Tương tự
Nhóm 7
7
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
sự phụ thuộc
- Chính sách liên
quan
Sự phụ thuộc có hại
cho sự phát triển
Tương tự
Sự khác nhau
- Phương pháp Trình độ trừu tượng
hoá cao, tập trung
vào mô hình phổ
biến của sự phụ
thuộc
Lịch sử-cấu trúc, tập
trung vào tình huống
cụ thể của sự phụ
thuộc
- Nhân tố chính Nhấn mạnh vào yếu
tố bên ngoài, sự trao
đổi không bình đẳng,
chủ nghĩa thực dân
Nhấn mạnh yếu tố
bên trong, các tầng
lớp xung đột, nhà

nước
-Bản chất của sự phụ
thuộc
Hầu như là một hiện
tượng kinh tế
Hầu hết các hiện
tượng chính trị-xã
hội
- Sự phụ thuộc và sự
phát triển
Chỉ dẫn duy nhất:
chỉ dẫn tới sự kém
phát triển
Có thể tồn tại mối
liên hệ giữa sự phụ
thuộc và sự phát
triển
II. CARDOSO : MỐI LIÊN HỆ GIỮA SỰ PHỤ THUỘC VÀ SỰ
PHÁT TRIỂN Ở BRAZIL
1. Bối cảnh lịch sử
Năm 1964, chế độ dân sự ở Brazil bị lật đổ và được thay thế bởi
chế độ quân sự. Trong hậu quả của sự say mê (sôi nổi) năm 1964,
nhiều cuộc thảo luận về sự phát triển trong văn chương đã suy xét xoay
Nhóm 7
8
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
xung quanh bản chất của chế độ quân đội mới này. Bước chuyển
hướng trong lịch sử của Mỹ-Latinh nên được làm sáng tỏ như thế nào?
Nó chỉ là một hành động phi quân đội hay nó đại diện cho một mệnh
lệnh kinh tế-chính trị mới cho sự phát triển của thế giới thứ ba?

Từ viễn cảnh của sự phụ thuộc cổ điển, Furtado (1968) mô tả đặc
điểm của chế độ mới ở Brazil như là một nhà nước quân sự, chỉ rõ rằng
giống như bất kỳ nhà nước quân sự khác, chế độ này ở Brazil đặt sự
ổn định xã hội là mục tiêu chủ yếu của nó và sẽ sử dụng mọi phương
tiện để bảo vệ địa vị và quyền lực vĩnh viễn. Mô hình kinh tế tương
ứng với môi trường chính trị này là sự cắt giảm đầu tư cho khu vực
công nghiệp trong lợi ích của nền sản xuất nông nghiệp, nghĩa là thúc
đẩy đời sống nông thôn dựa trên kinh phí của công nghiệp. Chế độ mới
theo đuổi chính sách kinh tế trì trệ bởi vì nền tảng xã hội của nó là tập
đoàn chính trị cầm đầu về ruộng đất. Từ viễn cảnh của sự phụ thuộc cổ
điển, nhà nước quân đội mới tuy bất tài nhưng lại là công cụ của tập
đoàn chính trị cầm đầu về ruộng đất, bất chấp quyền lợi tập thể của
quân đội.
Tuy nhiên Cardoso (1973), rất không hài lòng với cách giải thích
của Furtado về hình thức cai trị mới ở Brazil. Ông ấy thắc mắc : “ Có
bao nhiêu phần của mục tiêu nỗ lực này để phân tích thực tế, những xu
hướng hiện nay? và bao nhiêu chỉ đơn giản là sự yêu thích, mô hình
tiêu chuẩn?(trang 156). Theo Cardoso, phân tích của trường phái sự
phụ thuộc cổ điển đã thất bại khi chú ý nhiều đến những hoạt động mới
diễn ra trong chế độ quân đội, do đó họ đã không thể nhận ra rằng chế
Nhóm 7
9
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
độ này đang theo đuổi một mô hình mới của “ mối liên hệ giữa sự phụ
thuộc và sự phát triển” ở Brazil.
*Những hoạt động mới trong chế độ quân sự ( những đặc điểm
mới của chế độ quân sự)
Cardoso chỉ rõ theo những hoạt động mới trong chế độ quân sự ở
Brazil. Trước tiên, chủ nghĩa tư bản quốc tế trở nên quan tâm nhiều
hơn đến việc đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực sản xuất chẳng hạn như xây

dựng nhà máy và xí nghiệp ở các nước Mỹ-Latinh. Ví dụ ở Brazil, mức
độ đầu tư tư nhân của nước ngoài đã tăng trưởng rất nhiều và được duy
trì bền vững tới mức các doanh nghiệp quốc gia và khu vực trong nước
không còn đóng vài trò chi phối trong khu vục công nghiệp năng động.
Cardoso báo cáo rằng vốn đầu tư nước ngoài chiếm 72.6% số vốn đầu
tư hàng hoá của khu vực, 78.3% số hàng hoá được người tiêu dùng lâu
dài của khu vực và 53.4% số hàng hoá không lâu dài của 10 hãng lớn
nhất trong mỗi khu vực ở Brazil năm 1968. Sức mạnh tăng trưởng của
nền công nghiệp của các hãng sản xuất tư nhân nước ngoài đã giúp bán
được các sản phẩm của họ vào thị trường Brazil và cũng được phản
ánh qua các chương trình quảng cáo kinh doanh.
Năm 1967, 12 nhà quảng cáo lớn ở Brazil bao gồm: Wolswagen,
Gillette, Ford, Nestle, Cocacola và Shell Và nhờ việc trở thành những
hãng thuê quảng cáo lớn nhất, các hãng nước ngoài đã thực hiện suôn
sẻ chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng- báo, tạp chí và
truyền hình.
Nhóm 7
10
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
Thứ hai, những khu vực có người không theo chủ nghĩa dân sự của
quân đội và chế độ kỹ trị, là những ai không có thế lực tương đối trong
chủ nghĩa dân sự, bất ngờ có tác động chống lại to lớn như là một xu
hướng mới. Không chỉ làm cho khu vực quân sự-kỹ thuật thực hiện
chức năng trấn áp trong lĩnh vực chính trị mà nó còn đảm nhiệm nhiệm
vụ hiện đại hoá nền kinh tế và quản lý nhà nước.
Thứ ba, kết quả là những khu vực có người theo chủ nghĩa dân sự
bị mất đi quyền lực của họ. Cardoso quan sát thấy các lãnh đạo các liên
bang(hiệp hội, liên minh) những người làm trung gian để điều hành
giữa công nhân và nhà nước trong thời đại đó, đã hoàn toàn biến mất
khỏi lĩnh vực chính trị vì bị kìm hãm trong chế độ quân đội mới.

Cardoso (1973, trang 147) tiếp tục tranh luận rằng sự tích tụ vốn sẽ đặt
ra yêu cầu giữa những thứ khác nhau, “ giữ mức lương xuống thấp và
sau đó dẹp bỏ lực lượng quân đội của liên bang và tổ chức chính trị
thông qua nó, trong thời đại chủ nghĩa dân sự, sự tích luỹ tiền lương có
khả năng chống lại một phần của sự ép buộc tích luỹ”.
Cuối cùng, chế độ cai trị cũ cũng đã mất đi vị thế quyền lực tương
đối của mình. Không chỉ là khu vực ruộng đất truyền thống(điền trang
lớn), mà thậm chí cả quyền lợi về công nghiệp và kinh doanh đã không
được điều chỉnh phù hợp với xu hướng kinh tế mới được tự thiết lập
trong sự bất lợi chính trị dưới chế độ mới. Bằng cách chấp nhận sự can
thiệp quân sự để tiêu diệt sự ảnh hưởng của người lao động, các tầng
lớp trung lưu ở Brazil không chủ tâm sử dụng biện pháp hỗ trợ để huỷ
Nhóm 7
11
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
hoại biểu hiện chính trị trực tiếp của chính họ ( như là các cuộc bầu cử,
các đảng phái chính trị và tự do ngôn luận).
Tổng kết lại, những hoạt động mới từ năm 1964 đã làm tăng sự đầu
tư trực tiếp của nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất, chức năng kinh tế và
chức năng trấn áp của lĩnh vực quân sự, việc đàn áp quyền lực của giai
cấp công nhân, và sự suy thoái trong biểu hiện chính trị của giai cấp tư
sản. Tuy nhiên, trong sự can thiệp của những hoạt động mới này,
Cardoso thận trọng trong việc lại rơi vào sự khẳng định của trường
phái sự phụ thuộc cổ điển rằng người nước ngoài chấp nhận không có
chỗ đứng trong sự phát triển quốc gia. Thay vào đó, các nhà nghiên
cứu nên tập trung vào sự cụ thể của những hoạt động đó và xây dựng
một mô hình mới để nắm bắt được chức năng của chúng. Theo đó
Cardoso giới thiệu mô hình của ông là “ mối liên hệ giữa sự phụ thuộc
và sự phát triển”.
2. Mô hình sự phát triển kết hợp với phụ thuộc

Cardoso đã cố ý sử dụng các cụm từ liên quan đến sự phụ thuộc
vào phát triển” bởi vì nó đã kết hợp hai khái niệm phổ riêng biệt và có
tính trái ngược nhau: phụ thuộc và phát triển. Thuyết cổ điển và hiện
đại hóa tập trung duy nhất vào lý thuyết hiện đại hóa và phát triển.
Trong khi các nước chủ nghĩa đế quốc dựa vào lý thuyết cổ điển và
xem các mối quan hệ cơ bản giữa nhà nước kém phát triển phụ thuộc
vào các nhà nước tư bản chủ nghĩa là một trong những khai thác có thể
sống mãi… Nhưng Cardoso lại khẳng định rằng kết quả của cuộc cố
gắng vươn lên của các tập đoàn đa quốc gia là một giai đoạn mới đã
Nhóm 7
12
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
xuất hiện, công nghiệp phải phụ thuộc nhiều vào vốn ngoại vi và một
bộ phận quốc tế để nền kinh tế phát triển và nguồn lao động của một bộ
phận quốc tế mới. Cardoso(1973,p149) tranh luận rằng “sự đánh giá
ảnh hưởng của hiệp hội các nước ngoài đã trở nên thích hợp với sự
phồn vinh của các nước phụ thuộc. Trong nhận thức này, hiệp hội các
nước ngoài sẽ giúp đỡ các nước phụ thuộc để khuyến khích phát triển”.
Từ khi các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất và bán hàng hóa tiêu
dùng đến các chợ nội địa. Sự quan tâm của họ đã phù hợp với sự phát
triển kinh tế trong những khu vực nhỏ nhất của các quốc gia phụ thuộc.
Từ quan điểm này sự phát triển được xác định là có liên quan đến sự
hình thành với công nghệ, tài chính, tổ chức và thị trường. Về những
khía cạnh còn lại thì hiệp hội đa quốc gia có thể đảm bảo.
Như vậy, sự phát triển không phải là không có tính năng động
trong khu vực công nghiệp mà không giống như trong các lý thuyết cổ
điển. Chi phí cho công nghiệp ở mỗi đất nước là khác nhau và các quốc
gia thứ ba trên thế giới sẽ không xuất khẩu duy nhất một loại nguyên
liệu. Tuy nhiên, Cardoso lại không làm tất cả các cách để hiện đại hóa
trường phái. Ngay lập tức, ông thấy căng thẳng khi nhắc đến các chi

phí liên quan đến sự phụ thuộc để phát triển. Chẳng hạn, ông nói rằng
nền kinh tế Brazil tăng vọt là căn cứ vào mức thu nhập phân phối, nhấn
mạnh sự tiêu dùng xa xỉ lâu dài như sự phản đối nhu cầu thiết yếu của
con người. Vốn nợ nước ngoài phát sinh ngày càng tăng, các khoản
đóng góp ngoài xã hội được sử dụng không đúng mức đã làm phá hoại
nguồn nhân lực. Do vậy mà sự nghèo đói ngày càng gia tăng.
Nhóm 7
13
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
Ngoài ra, Cardoso cũng chỉ ra những hạn chế khách quan của loại
hình phụ thuộc phát triển. Trên thực tế nhược điểm này không thể cải
thiện được vì nó thiếu “công nghệ tự trị” nên dễ bị chịu ảnh hưởng của
việc buộc phải nhập khẩu công nghệ để sử dụng, nguồn lao động công
nghệ. Đó cũng là sự trả giá vì thiếu vốn đầu tư phát triển hàng hóa
trong các khu vực một cách đầy đủ. Các nhà tư bản phụ thuộc vào sự
bổ sung bên ngoài và tự tích lũy, mở rộng và thực hiện vốn đầu tư cho
các địa phương và yêu cầu phụ thuộc vào tính năng động.
Do hạn chế của Cardoso là phụ thuộc trường phái. Trong sự kiện
này, Cardoso đã cố gắng hoàn thành xem xét cả sự phụ thuộc và sự
phát triển để học tập những ưu thế vượt trội của nước ngoài cũng như
trong nước, đặc biệt là sự hợp tác giữa các nhà quản lý để đào tạo ra
một số đội ngũ có tính phát triển năng động. Vì vậy thật là thú vị khi
xem xét sự khác nhau trong mô hình của Cardoso.
3. Động lực chính trị
Có ba loại nhân tố chính trị theo mô hình của Cardoso - quân đội –
hiệp hội các công ty – giai cấp tư sản. Cardoso cho rằng có ba nhóm
trên đã lập thành một liên minh để khuyến khích sự liên kết _ phụ
thuộc phát triển ở Brazil từ năm 1964.
Trước hết là sự ra đời của quân đội. Quân đội đã thiết lập sự kiểm
soát chặt chẽ của việc chấp hành các quy định của thủ tướng, mở rộng

thêm phạm vi hoạt động của ủy ban an ninh quốc gia, tạo dựng một
dịch vụ thông minh và thiết lập phạm vi an ninh trong tất cả nội các và
các cuộc tuyên bố công khai. Sau khi hoàn thành tất cả các cuộc họp
Nhóm 7
14
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
nội các phải được tuyên bố công khai. Sau khi hoàn tất chính phủ quân
đội đã bắt đầu chấn áp các hình thức phản đối trong xã hội. Dùng học
thuyết của an ninh quốc gia, quân đội đã tách rời ra khỏi tổ chức của
công nhân và hoàn thành tốt việc giữ gìn trật tự quốc gia. Sau đó cơ
quan an ninh đã cố gắng đẩy mạnh phát triển nền kinh tế trông qua sự
phối hợp công đồng và cá nhân như một sự khuyến khích cho sự thành
lập ngành công nghệ hóa chất PETROBRAS. Nó khuyến khích thay
đổi quan niện xã hội, với mục đích “giữ một nền chính trị xã hội mở”.
Thứ hai tinh thần dân tộc của các nhà tư sản không cao đã được cải
thiện bởi quân đội và thay thế tinh thần tiếp thu của giai cấp tư sản. Sau
đó giai cấp tư sản đã từ bỏ các công cụ kiểm soát chính trị (Bầu cử, báo
chí …) một sự thỏa thuận đã được đưa ra giữa quân đội và giai cấp tư
sản. Có một sự giống nhau là ở sự quan tâm chung đối với quốc gia.
Họ đã xác định rõ một số vùng ở Brazil được ưu tiên khuyến khích
hoạt động. Với sự giúp đỡ của chính phủ, rất nhiều cơ hội đang hứa
hẹn được mở ra dành cho các nhà tư bản mới ở Brazil kiếm lời và sự
sản xuất bắt buộc chủ nghĩa tư bản hiện đại đã bị kiểm soát.
Thứ 3, theo Cardoso, kinh tế Brazil đã đổi mới nếp gấp trong việc
hòa nhập với khuôn mẫu mới của tổ chức kinh tế Quốc tế. Những nhà
tư bản Brazil thường xuyên kết hợp với hiệp hội các Quốc gia phụ
thuộc nên theo khuôn mẫu mới của sản xuất thì vướng mắc chính là sự
xuất hiện sự độc quyền của tư bản Quốc tế. Cardoso biện minh rằng
hiệp hội các Quốc gia có ưu thế vượt trội so cới các nhà tư bản Brazil
bởi tài chính chặt chẽ và công nghệ tiên tiến.

Nhóm 7
15
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
Dựa trên nền tảng của sự phân tích, Cardoso (1973,p163) kết luận
rằng đó là lý do nhận thấy năm 1964 sự kiện chính trị xẩy ra ở Brazil
giống như một cuộc cách mạng.
Một nền kinh tế tư bản đã sụp đổ. Nó đã thay thế hoàn toàn, để đánh
giá rằng nó đã vượt qua các nhà tư bản địa phương để điều chỉnh và
giúp cho nền kinh tế đất nước phát triển đi lên. Nhờ vậy đã thiết lập
được một nền kinh tế với những ưu thế riêng.
Nghiên cứu của Cardoso đã tạo ra điều kiện học tập theo lối thực
nghiệm lệ thuộc vào trường phái và bắt đầu một loạt các nghiên cứu
hướng vào những nhà quan chức độc đoán, hống hách trong khối liên
minh kể cả chính phủ, hiệp hội các quốc gia và các nhà tư bản địa
phương vào sự phụ thuộc phát triển trong thế giới thứ ba.
Nghiên cứu của Cardoso còn được nhìn nhận trong những cuộc thảo
luận về sau của những nhà khoa học.
III. O’DONNELL: NHÀ NƯỚC QUAN LIÊU-ĐỘC TÀI Ở CHÂU
MỸ-LATINH ( Nhà nước BA)
O’Donnell(1978,P.4) lưu ý rằng các khái niệm về “sự phụ thuộc
đã được giải thích nhiều và đầy đủ, nó sẽ trở thành vô tri với câu hỏi
làm thế nào để liên kết được với các yếu tố có tính năng động”. Không
hài lòng với các lý thuyết về sự phụ thuộc cổ điển, O’Donnell tranh
luận rằng nên nghiên cứu áp dụng Cardoso dựa trên “lịch sử-cấu trúc”,
đó chính là phương pháp tiếp cận để điều tra thông qua các mối tương
Nhóm 7
16
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
quan thời gian giữa chủ nghĩa tư bản và các mô hình thể chế chính trị.
O’Donnell đã có sự đóng góp trong việc mô tả nội dung, xác định các

đặc tính, các điểm nổi bật,sự phát triển và sự sụp đổ của một loại hình
thể chế chính trị mà ông gọi là “quan liêu-độc tài”(nhà nước BA).
1. Xác định đặc điểm:
Các nước thuộc châu Mỹ-Latinh xuất hiện nhà nước BA vào
những năm 1960, lần đầu tiên ở Brazil và Argentina, và sau đó tại
Uruguay và Chile. O’Donnell điểm ra rằng: không giống như thể chế
chính trị độc tài-phát xít, nhà nước BA có những đặc tính sau đây:
(1)Thể chế của bộ máy quan liêu: vị trí cao nhất của chính phủ
thuộc về tay những người có sự nghiệp thành công trong các tổ chức
như là: Lực lượng vũ trang, công chúng quan liêu, và các doanh nghiệp
tư nhân lớn.
(2)Hình thức loại trừ chính trị: nhà nước BA là mối kênh truy cập
vào các tổ chức chính trị của khu vực thông qua sự đàn áp hoặc đánh
thuế cao cực điểm(người theo chủ nghĩa nghiệp đoàn)các tổ chức đoàn
thể như hiệp hội người lao động.
(3)Hình thức loại trừ kinh tế: nhà nước BA làm giảm hoặc trì
hoãn dài mong muốn được tham gia vào các nền kinh tế lớn trong khu
vực.
(4)Hình thức loại trừ xã hội: các vấn đề xã hội đều không được
giải quyết triệt để mà dựa trên bộ máy quan liêu, bao cấp.
Nhóm 7
17
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
(5)Sự phụ thuộc quá nhiều vào chủ nghĩa tư bản: Sự ra đời của
nhà nước BA gắn liền với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản trong các
nước thế giới thứ ba.
2. Sự nổi lên của "nhà nước BA"
Tại sao nhà nước BA lại xuất hiện chỉ trong những năm 1960
nhưng không sớm hơn? Theo O’Donnell, sở dĩ có điều này vì để chống
chọi với cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản ở các nước Mỹ-Latinh

sau chiến tranh thế giới thứ 2. Vào những năm 1950, nhiều nước thuộc
châu Mỹ-Latinh đã thay đổi chính sách nhập khẩu. Thay vì nhập khẩu
hàng tiêu dùng nước ngoài các nước Mỹ-Latinh đã quyết định sản xuất
hàng tiêu dùng cho thị trường trong nước bằng cách nhập khẩu các
nguồn nguyên liệu tiếp đó là mở rộng sản xuất ở hầu hết các địa
phương. Nhưng việc làm này đã sớm dẫn đến sự xuất hiện của nhiều
triệu chứng của cuộc khủng hoảng kinh tế như: đè nặng áp lực thanh
toán, lạm phát, từ chối GNP….
Những vấn đề về kinh tế, chính trị dẫn tới sự kích hoạt phổ biến
của các ngành, các hoạt động: mức lương cao hơn, lạm phát thấp hơn,
tiền tệ có sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ, có mức thuế riêng đối
với người giàu. Theo O’Donnell, việc kiểm soát các tầng lớp và các
lĩnh vực kích hoạt dịch vụ là một mối đe dọa đến lợi ích của họ.
O’Donnell tranh luận rằng các mức độ lớn hơn mối đe dọa thì lớn hơn
những sự phân cực và tầm nhìn của các tầng lớp và bối cảnh của các
cuộc xung đột. Qua đó xu hướng để sản xuất mạnh mẽ hơn giữa các
lực liên kết chi phối các tầng lớp, khối lượng cho vay nhiều hơn so với
Nhóm 7
18
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
các nhóm không khoan nhượng trong quân đội và ở trong tình trạng
quan liêu, để thúc đẩy hơn sự lệ thuộc của khu vực, và để kích động
mạnh mẽ sự thất bại nổi tiếng của khu vực.
Nhà nước BA là một sản phẩm của các di tích lịch sử kinh tế và
chính trị. Nhận ra rằng bằng mở rộng hàng tiêu dùng công nghiệp đã
đạt đến giới hạn của nó. Quân đội – quan liêu thử một chiến lược kinh
tế mới mà O’Donnell gọi là sự thâm nhập công nghiệp. Mục đích của
nhà nước là đi sâu vào sản xuất và ngay lập tức đầu tư vốn vào hàng
hóa như là sản phẩm hóa dầu, xe ô tô, công nghiệp đầu vào, thiết bị,
máy móc và công nghệ đã phức tạp hơn và mức độ tiêu thụ ngày càng

nhiều. Cuối cùng phong trào cơ bản hướng về sản xuất công nghiệp,
nếu thành công sẽ tạo ra nhiều hơn giá trị của ngành sản xuất công
nghiệp ở các nước châu Mỹ La tinh tạo điều kiện để mở cửa xuất khẩu
trong tương lai và giảm số dư trên các khoản thanh toán.
Để thực hiện đi sâu vào các chính sách này, quân đội – quan liêu
đều nhận ra rằng họ phải xây dựng một nhà nước chủ nghĩa để tạo ra
sự bình yên cho xã hội. Đối chiếu để đầu tư vào hàng tiêu dùng, muốn
đầu tư vốn vào hàng hóa đòi hỏi một sự chín muồi về thời gian, công
nghệ, nội dung lớn hơn, sự tổ chức quản lý nhiều hơn, rủi ro nhiều hơn
và phải chắc chắn trong tương lai đầu tư phải có lãi.
Do vậy, để giải quyết các cuộc khủng hoảng kinh tế điều đầu tiên
mà quân đội – quan liêu phải giải quyết là cuộc khủng hoảng chính trị
do xây dựng một nhà nước mới. Vì vậy để bảo vệ được bản chất của
nhà nước ngoài trừ các nhà lãnh đạo nổi tiếng của các ngành, các công
Nhóm 7
19
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
nhân lao động của các nhà máy tại các tổ chức phải biết liên kết với
nhà nước, cấm đình công, vv…Theo O’Donnell ngoại trừ các chính trị
gia nổi tiếng của khu vực đã dẫn đến trật tự tạo ra những điều kiện cần
thiết để ổn định mối quan hệ thống trị, đảm bảo khả năng đầu tư có lợi
nhuận. Ngược lại, nếu nhà nước không có các biện pháp gia tăng năng
lực kiểm soát đối với xã hội thông qua các trấn áp chính trị, kiểm soát
các quy trình thì sẽ để lại hậu quả.
Động lực của nhà nước quan liêu-độc tài
Nếu nhà nước quan liêu-độc tài phát triển theo quá trình
Công nghiệp hóa ở Mỹ Latinh thì nó phụ thuộc vào những động thái
nào?
Từ tầm nhìn xa của O’Donnell’s thì vốn đầu tư quốc tế là một điều
kiện cho quá trình phát triển sâu hơn, bởi vì chỉ có các tập đoàn nước

ngoài mới có đủ vốn, công nghệ tiên tiến và các trang thiết bị hiện đại
để tham gia vào một quá trình như vậy. Hơn nữa, ngoại tệ TNCs còn
phục vụ để giải quyết sự chi trả tức thời những vấn đề liên quan và cho
thấy sự liên kết trong sự hỗ trợ bên ngoài mà nhà nước BA được hưởng
thụ.
3. Chức năng của "nhà nước BA"
Như vậy, trong giai đoạn đầu tiên của nhà nước BA, các vấn đề
đầu tiên là để loại trừ các mối đe dọa từ sự thoái hóa phổ biến của các
ngành, để cung cấp một môi trường đầu tư hấp dẫn của nhà nước BA,
tuy nhiên O’Donnell cho rằng: việc này mất thời gian và chỉ có tính
chất tạm thời. Nó đã dành thời gian để giảm bớt sự căng thẳng kháng
Nhóm 7
20
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
nghị đại chúng và để mang lại cho những nhà tư bản nước ngoài sự
nghiêm túc và khả năng thực hiện của nhà nước quan liêu-độc tài.
Ngoài ra nhà nước quan liêu-độc tài không những đấu tranh chống lại
sự liên kết của khu vực đại chúng mà còn làm cho sự liên kết cũ của nó
trỏ nên suy thoái. Trừ khi nhà nước quan liêu-độc tài nhận được sự hỗ
trợ của Ngân hàng thế giới và quỹ tiền tệ quốc tế để đầu tư hàng hóa
vào các ngành công nghiệp.
Cần phân biệt các yếu tố của giai đoạn đầu nhà nước quan liêu-độc
tài, sau đó tách biệt chúng ra khỏi khu vực đại chúng, phải có sự liên
kết nó với giai cấp tư sản dân tộc và phụ thuộc trên vốn đầu tư nước
ngoài. O’Donnell tranh luận rằng sự khởi đầu của nhà nước quan liêu-
độc tài là thời gian mà nó mở cửa để thu hầu hết vốn đầu tư quốc tế,
chỉ khi vốn đầu tư quốc tế bắt đầu di nhập ổn định cho việc củng cố
nhà nước quan liêu-độc tài và di chuyển nó ra khỏi phạm vi của việc
củng cố ban đầu. Trong giai đọan này nó có sự hồi phục về tốc độ tăng
trưởng GNP và những kết quả từ các TNCs. Nhà nước quan liêu-độc

tài có nhiều lợi thế hơn và nhiều hoạt động hơn trước. O’Donnell tranh
luận rằng sự thành công có thể chấp nhận một chính sách có chọn lọc
tới giai cấp tư sản dân tộc. Từ đó sẽ thành lập một bộ ba gồm: nhà
nước quan liêu-độc tài, tư bản trong nước và tư bản nước ngoài. Rõ
ràng sự hình thành một bộ ba làm phát sinh nhiều hoàn cảnh phức tạp
hơn trước đây, một mặt nhà nước quan liêu-độc tài tích cực hưởng ứng
sự tham gia của các giai cấp tư sản trong nước, mặt khác nhà nước
Nhóm 7
21
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
quan liêu-độc tài vẫn còn yêu cầu sự ổn định của các quốc gia vì những
phát sinh công nghiệp bên trong và vốn đầu tư trong thời gian ban đầu.
4. Sự sụp đổ hoặc sự chuyển đổi của "nhà nước BA"
Cuối cùng,O’Donnell đưa ra hai con đường khác nhau hoặc sụp đổ
hoặc chuyển đổi của nhà nước BA.
Ở con đường thứ nhất, rất nhiều nhà nước quan liêu-độc tài không thể
vượt qua những khó khăn trong giai đoạn ban đầu, chẳng hạn như nhà
nước quan liêu-độc tài của Argentina.Năm 1968, tức hai năm sau khi
thực hiện thì vốn đầu tư quốc tế đã bắt đầu đổ vào Acgentina. Cũng
vào thời gian đó, giai cấp tư sản dân tộc ở Acgentina đã bắt đầu trở lại
như một bộ phận phổ biến.
Ở con đường thứ hai, sau những thành công của nhà nước quan liêu-
độc tài thì đã có sự củng cố quyền lực, quốc hữu hóa lại chính nó và
ủng hộ sự có mặt của giai cấp tư sản dân tộc. Trong quan điểm này,
O’Donnell đã tiến hành lấy ý kiến giữa nhà nước BA và nền dân chủ.
Từ sự thành công của nhà nước BA, đã thiết lập một bộ ba với nhiều
ưu thế.
IV. EVANS: LIÊN MINH TAY BA Ở BRAZIL TRONG NHỮNG
NĂM 1980
(Giữa ba bên:Nhà nước,các công ty đa quốc gia,các doanh nghiệp tư

nhân trong nước(tư bản nội địa))
1. Sự thay đổi nhanh chóng từ tăng trưởng kinh tế thần kì sang
thời kì kinh tế bất ổn trong vòng 2 thập kỉ ở Brazil
Nhóm 7
22
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
Cuối năm 1960 và đầu năm 1970,Brazil trải qua một nền kinh tế kì
diệu. Một loạt sản phẩm trong nước đã tăng trưởng vào khoảng
10%/năm, trong khoảng thời gian này, vốn đầu tư sản xuất hàng hóa
được người tiêu dùng sử dụng lâu dài đã tăng trưởng ở tỷ lệ 20%/năm,
sản xuất xuất khẩu đã tăng thêm 30%/năm, công nghiệp hóa được chú
trọng, giá trị tăng thêm trong hàng công nghiệp ở Brazil năm 1970
vượt qua những nước đang phát triển khác.
Tuy nhiên gần năm 1981 Brazil đã có khoảng thời gian kinh tế
không ổn định.Ví dụ,Volkswagen ở Brazil ghi lại những tổn thất đầu
năm 1980 và đã sa thải trên 3000 công nhân. Vấn đề kinh tế nhanh
chóng chuyển sang tình trạng náo động, nổi loạn của chính trị, tăng
60% giá xe buýt, người dân của Salvador nổi giận và phá hủy 750 xe
buýt để phản ứng, sa thải 5000 công nhân, 500 công nhân trong nhà
máy xâm lược của Merceres-benz, của các nhà sản xuất số lượng lớn
xe buýt và xe tải của Brazil.
2. Giải thích nguyên nhân
Giải thích ra sao về việc chuyển đổi kinh tế không ổn định chỉ trong
hai thập kỷ? Theo Evans (1983), nó là kết quả của việc thay đổi bản
chất của môi trường bên ngoài và nội bộ mâu thuẫn vào cuối năm
1970. Cụ thể Evans trình bày mô hình “Liên minh tay ba” của tiểu
bang đa quốc gia và vốn đầu tư của địa phương, và làm như vậy cho
Nhóm 7
23
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới

thấy các giao dịch từ bên ngoài và nội bộ mâu thuẫn xấu hơn, sự phát
triển của Brazil bị phụ thuộc, làm cho sự lãnh đạo của liên minh ngày
càng nhiều vấn đề.
3. Tác động của liên minh tay ba
Sự phát triển phụ thuộc và liên minh tay ba
Đối với Evans (1983, p.141), phụ thuộc vào sự phát triển là là một
khái niệm có tính chất mâu thuẫn:
Ý nghĩa của sự phát triển tích lũy vốn trong bối cảnh phân chia lao
động, trong nội bộ, sự mở rộng của nhiều loại hàng hóa có thể được
cung cấp ở địa phương, hơn nữa tính linh hoạt cho hàng hóa có thể
được cung cấp trên thị trường quốc tế và và do đó ít tổn thương đến hệ
thống thế giới.
Định nghĩa theo cách này thì sự phát triển đối lập với sự phụ thuộc.
Tuy nhiên Evans chỉ ra rằng: trong Brazil, sự phát triển đã được liên
kết để tiếp tục phụ thuộc vào vốn đầu tư nước ngoài. Theo Evans đó là
sự hình thành một liên minh giữa ba vấn đề: phạm vi quốc gia, vốn đầu
tư của địa phương và các doanh nghiệp nhỏ của nhà nước tư bản.

a) Liên minh tay ba: Cả ba cùng có lợi khi liên minh với nhau:
Trong một phạm vi ổn định, ba đối tác trong một liên minh đã nhận
thấy nó cũng có lợi khi tham gia các cụm. Các quốc gia đã thu hút
được các tập đoàn lớn của thị trường Brazil và điều kiện thuận lợi cho
việc đầu tư xây dựng của nhà nước, chẳng hạn như kiểm soát nghiêm
ngặt về lao động, tài trợ khác cho các nhà đầu tư,và sự bảo vệ của
Nhóm 7
24
Lý thuyết phát triển - Trường phái sự phụ thuộc mới
những người sẵn sàng để sản xuất ở nơi khác. Trở lại với hoạt động ưa
chuộng các loại trái cây, nó cũng là một thị trường có lợi nhuận. Evans
chỉ ra rằng “TNCs có mức độ vừa đủ để cung cấp cho toàn cầu, tích

lũy, tích lũy ưu tiên hơn ở địa phương”. Họ đã chia thành các cổ phần
và quản lý với các đối tác địa phương.
Tất nhiên hưởng lợi từ đầu tư trên cùng một điều kiện Brazil đã đem lại
lợi nhuận cho các TNCs. Ngoài vốn đầu tư của địa phương được hưởng
trên các quyền như: có quyền vay thêm tiền với lãi suất thấp và nắm
độc quyền lãi suất cho vay trên một số vị trí có lợi trên thị
trường(chẳng hạn như bảo hiểm và ngân hàng thương mại). Tuy nhiên
mức độ mà vốn đầu tư có thể được bảo vệ hạn chế bị TNCs cạnh tranh.
Evans nhận xét rằng “sự tư hữu hóa của một số ngành công nghiệp và
các địa phương tiêu hủy một số vốn đầu tư của các nhóm thì mức giá
mà vốn đầu tư chấm dứt được coi như rất có lợi nhuận”
Đối với những “nhà nước tư bản” các doanh nghiệp định hướng
nhà nước trong ba liên minh là một lý tưởng, có nghĩa là vốn tích lũy
các đối tác với vốn đầu tư của địa phương, tăng tính hợp pháp của nhà
nước tư bản trong mắt của người dân địa phương. Phối hợp với các
TNCs mang về công nghệ nước ngoài đang hiện hành và tiếp thị
chuyên môn. Mặc dù nhà nước sau đó đã đóng một vai trò tích cực đối
với việc thúc đẩy tích lũy vốn đầu tư. Các doanh nghiệp nhà nước đã
phải chú ý đến việc không lạm quyền khi khoảng cách có thể làm đầy
vốn đầu tư của tư nhân.
b)Liên minh tay ba vẫn không tránh khỏi sự xung đột nội bộ
Nhóm 7
25

×