Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.88 KB, 34 trang )

Lời nói đầu
Mặt hàng giày dép là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nớc ta trong giai
đoạn 2001 - 2010. Ngành đã có đóng góp to lớn trong kim ngạch xuất khẩu,
hiện đứng thứ ba sau dầu thô và dệt may, có triển vọng rất tolớn và sẽ phát triển
rất mạhh tự hoàn thiện thành một ngành công nghiệp sản xuất giày thực thụ.
Vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là làm thế nào Việt Nam có thể tự sản xuất
giày mà không lệ thuộc vào phía nớc ngoài từ nguyên - phụ liệu mẫu mã cho
đến đầu ra của sản phẩm. Vì vậy việc tìm ra giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy xuất
khẩu da giày là rất quan trọng.
Chơng I
Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu
I. Khái niệm và vai trò xuất khẩu trong nền kinh tế
1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là một cơ sở của nhập khẩu và hoạt động kinh doanh để đem lại
lợi nhuận lớn, là phơng tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để
tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà
nớc ta luôn luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hớng theo xuất khẩu,
khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn
việc làm và tăng thu ngoại tệ.
2. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế.
a) Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Công nghiệp hoá đất nớc đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy
móc, thiết bị, kỹ thuật, vật t và công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể đợc hình thành từ các nguồn nh :
- Liên doanh đầu t nớc ngoài với nớc ta.
- Vay nợ, viện trợ, tài trợ.
- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ.
- Xuất khẩu sức lao động
Trong các nguồn vốn nh đầu t nớc ngoài, vay nợ và viện trợ cũng phải
trả bằng cách này hay cách khác. Để nhập khẩu, nguồn vốn quan trọng nhất là
từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.


Thời kỳ 1986- 1990 nguồn thu của nớc ta về xuất khẩu chiếm 3/4 tổng
nguồn thu ngoại tệ, năm 1994 thu xuất khẩu đã đảm bảo đợc 80% nhập khẩu so
với 24,6% năm 1986. Với xu hớng này các năm sau kim ngạch xuất khẩu đều
tăng lên so với các năm trớc đó.
b) Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế h-
ớng ngoại.
Thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng một cách có lợi nhất, đó là thành
quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong qúa trình công nghiệp hoá ở nớc ta là phù hợp với xu hớng phát
triển của kinh tế thế giới.
Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
có thể đợc nhìn nhận theo các hớng sau :
+ Xuất khẩu những sản phẩm của nớc ta cho nớc ngoài.
+ Xuất phát từ nhu cầu của thị trờng thế giới để tổ chức sản xuất và xuất
khẩu những sản phẩm mà các nớc khác cần. Điều đó có tác động tích cực đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển
thuận lợi. Ví dụ, khi phát triển dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển
ngành sản xuất nguyên liệu nh bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của công
nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu, (dầu thực vật, chè ) kéo theo sự phát
triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trờng tiêu thụ, cung cấp đầu vào
cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nớc.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thờng
xuyên năng lực sản xuất trong nớc. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm
vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm
hiện đại hoá nền kinh tế nớc ta.
+ Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trờng thế giới về giá cả, chất lợng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi
phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu với thị trờng.

+ Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện
công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lợng sản phẩm, hạ giá
thành.
c) Xuất khẩu tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân
dân.
Trớc hết, sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động, tạo ra
nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống của
nhân dân.
d) Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối
ngoại của nớc ta.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại và làm cho nền kinh tế nớc
ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Thông thờng hoạt động xuất khẩu
ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại nên có thúc đẩy các quan hệ này
phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy các quan
hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy
quan hệ tín dụng, đầu t, vận tải Quốc tế Đến l ợt nó chính các quan hệ kinh tế
đối ngoại lại tạo tiền đề cho mở rộng xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu đợc coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lợc để
phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc.
II. Quy trình xuất khẩu.
Trớc khi tiến hành xuất khẩu hàng hoá chủ hàng phải chuẩn bị bộ hồ sơ
gồm :
Hợp đồng ngoại thơng (1bản sao), Packing list (3 bản chính), tờ khai hải
quan (3 bản chính), hợp đồng ủy thác, giấy phép (nếu có). Quy trình thông quan
xuất khẩu gồm các bớc sau :
Bớc 1 : Chủ hàng phải tiến hành đăng ký tờ khai hải quan. Công thức 1 sẽ
tiến hành kiểm tra bộ hồ sơ của chủ hàng, kiểm tra khai báo của chủ hàng và
cho đăng ký tờ khai đồng thời tiến hành nhập dữ liệu.
Bớc 2 : Bớc này do lãnh đạo chi cục đảm nhiệm, có quyền quyết định hình
thức và tỉ lệ kiểm tra, giải quyết những vớng mắc phát sinh và xác nhận thông

quan.
Bớc 3 : Đây là bớc kiểm hoá và tính thuế do công chức 2 đảm nhiệm. Họ
sẽ tiến hành kiểm tra thực tế lô hàng, kiểm tra tính thuế của chủ hàng. Trên cơ
sở tính thuế của chủ hàng, ra thông báo thu thuế hoặc biên lai thuế.
Bớc 4 : Sau khi thu thuế và lệ phí hải quan và tiến hành hoạt động kế toán
thuế và phúc tập hồ sơ, chủ hàng sẽ nhận đợc hàng.
Tuy nhiên, đối vói hàng đợc miễn kiểm tra và không thuế thì không phai
qua bớc 3.
Khi nộp thuế, thời điểm nộp đối với hàng xuất khẩu là 15 ngày kể từ ngày
doanh nghiệp nhận đợc thông báo thuế, ở đây là 15 ngày theo lịch.
Nhà nớc cũng quy định rõ những hàng hoá của doanh nghiệp đợc hởng chế
độ miễn kiểm tra thực tế hoặc miễn kiểm tra toàn bộ lô hàng ; kiểm tra với tỷ lệ
hoặc xác suất không quá 10% ; kiểm tra toàn bộ lô hàng (100% lô hàng). Việc
xác định hình thức và tỷ lệ kiểm tra căn cứ vào số lần vi phạm, mức độ xử phạt
hành chính và số nợ thuế.
III. vài nét về đặc điểm và vai trò của ngành da giày trên thị trờng
thế giới và thị trờng Việt Nam.
Ngành công nghiệp giày dép của nhiều nớc, nhất là các nớc đang phát
triển, có vị trí rất quan trọng trong giai đoạn đầu của qúa trình phát triển kinh tế
đất nớc, góp phần tạo ra công ăn việc làm, tham gia vào qúa trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tăng thu ngoại tệ qua đẩy mạnh xuất khẩu. Đối với Việt Nam,
ngành công nghiệp giày dép cũng có tầm quan trọng nh vậy. Phát triển ngành
giầy dép Việt Nam là phù hợp với xu hớng chuyển dịch cơ cấu đầu t và cơ cấu
kinh tế của thế giới. Xu hớng chung là những nớc công nghiệp và nhiều nớc
đang phát triển sẽ tập trung vào việc phát triển các ngành kỹ thuật cao, sử dụng
ít lao động, loại bỏ dần những ngành sử dụng nhiều lao động, hàm lợng khoa
học kỹ thuật thấp nh sản xuất giày dép, may mặc.
Các sản phẩm giày và đồ da luôn chiếm vị trí đợc quan tâm trong đời sống
của mỗi con ngời vì chúng là một bộ phận của cái mặc, là biểu tợng của trình
độ và tình trạng tiêu dùng của xã hội. Ngày nay, thông qua tiêu dùng xã hội

chúng còn tợng trng cho nền kinh tế thịnh vợng hay sa sút của một quốc gia, là
tiếng nói bản sắc của cộng đồng sử dụng.
Da giày là một trong những ngành đóng góp chủ yếu vào sự tăng trởng
GDP cũng nh tăng thu nhập chung của đất nớc ở thời kỳ trớc 2020. Công nghiệp
da giày phát triển sẽ có nguồn thu ngoại tệ sánh đợc với các mặt hàng coi nh
đầu vị trong xuất khẩu của nông nghiệp và công nghiệp tiêu dùng. Những
năm của thập niên 90, thế kỷ 20 mặt hàng da giày đợc xếp vào hạng thứ ba về
giá trị xuất khẩu sau các mặt hàng gạo, dầu khí nhng đến năm 1999 lại đợc
nâng lên hạng hai chỉ sau mặt hàng gạo và hiện nay đứng ở vị trí thứ ba sau dầu
thô và dệt may. Năm 2001, Bộ thơng mại thông báo tất cả các mặt hàng có thuế
nhập khẩu xấp xỉ 20% sẽ đợc giảm xuống theo Hiệp định chung về thuế quan u
đãi đã đợc ký kết. Nh vậy thuế nhập khẩu sẽ bị cắt giảm 20% hoặc ít hơn khi
Việt Nam tham gia hoàn toàn vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) sau
khi Chính phủ thông qua danh mục các mặt hàng cắt giảm thuế giai đoạn 2001
-2006. Bộ tài chính đã đa ra lộ trình cắt giảm thuế hàng giàydép có đế bằng cao
su theo Hiệp định u đãi thuế quan (CEPT/AFTA) nh sau: Năm 2001 : 50% ;
2002 : 40% ; 2003 : 35% ; 2004 : 30% ; 2005 : 20% ; 2006 : 5%. Với việc ký
kết Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ đợc hởng quy chế tối huệ quốc (MFN) của
Mỹ, trong thời gian tới xuất khẩu hàng giày dép vào thị trờng Mỹ sẽ tăng trởng
rất nhanh.
Tuy nhiên theo nhận xét của các chuyên gia trong ngành, năm 2000 tình
hình sản xuất kinh doanh da giày trên thế giới đang gặp khó khăn. Nền kinh tế
Mỹ, Nhật EU suy giảm, lợng cầu hạ thấp, tiền tệ của thị trờng chính (đồng EU)
mất giá, bệnh bò điên và lở mồm long móng gây khủng hoảng nguyên liệu da
làm giá đầu vào tăng Ngành da giày Việt Nam cũng là nạn nhân của tình
trạng này. Nhng đáng quan tâm nhất là việc Trung Quốc gia nhập WTO. Lợi
thế của ngành da giày Việt Nam là nhân công rẻ, dồi dào, đợc hởng nhiều u đãi
thuế quan từ những thị trờng lớn nhng với Trung Quốc với việc các rào cản th-
ơng mại đợc loại bỏ dần dần, nhân công của họ dồi dào hơn ta và có một bề da
dày lịch sử, công nghệ hiện đại cùng nhiều u đãi của Chính phủ Trung Quốc về

thuế giá điện, giá thuê đất dẫn đến sản phẩm của họ đến tay ng ời tiêudùng
thấp hơn ta nhiều.
Hiện nay có gần 75% trong tổng số hơn 11 tỷ đôi giày dép trên thế giới do
các nớc đang phát triển ở Châu á, Nam Mỹ sản xuất. Trong khi đó các n ớc
phát triển và các nớc công nghiệp lại tiêu thụ gần 45% tổng sản lợng giày. Điều
này cho thấy, thế giới thứ 3 ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn trong sản xuất giày
dép. Họ đẩy các nớc công nghiệp xuống đến mức độ đáng lo ngại với hai lý do
chính : Thứ nhất, đối với các nớc đang phát triển sản xuất chủ yếu hàng da nh
ấn Độ, Nam Mỹ quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu tận dụng mọi nguồn tài
nguyên mà không gây thiệt hại cho nớc họ. Thứ hai, mặt bằng chi phí lao động
đem lại cho họ lợi thế đến nỗi những công nghệ tinh vi nhất sẵn có ở các nớc
phát triển và công nghiệp mới (CNM) cũng không thể cứu vãn nổi. Ngoài ra,
các nớc đang phát triển còn có nhiều lợi thế khác bao gồm chính sách trợ giá
cùng các chính sách khuyến khích khác của quốc gia đã dẫn đến một sân chơi
cạnh tranh không thật công bằng. Tuy vậy, tình trạng không đồng đều vẫn xảy
ra nh : Nam Mỹ có nhiều da, da chất lợng cao mà vẫn bị tụt sau ASEAN về sản
xuất giày, trong 10 năm qua, sản lợng giày Nam Mỹ chỉ tăng 15% mà ASEAN
lại tăng gấp đôi. Nhiều chuyên gia nghĩ rằng thế giới sắp trải qua sự suy giảm
lớn về sản lợng giày. Có thể các nhà sản xuất lớn trong liên đoàn giày thế giới ở
ý, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cũng sẽ phải nh ờng vị trí cho các
nhà sản xuất ở các khu vực khác đặc biệt là ở ASEAN. Nền công nghiệp giày
trên thế giới đợc chia làm 5 nhóm nớc. Các nớc có định hớng xuất khẩu, các n-
ớc nhập khẩu có định hớng, các nớc đợc tôn vinh là chuyên gia về thiết kế và
sản xuất thời trang có chất lợng cao, các nớc lấy buôn bán là chính, các nớc
đang cần tổ chức lại. Dự đoán rằng công nghiệp giày ở nớc phát triển và công
nghiệp mới lần lợt sẽ phát triển thành một hoạt động dịch vụ và sẽ đợc tổ chức
với sự phối hợp giữa các hoạt động sản xuất, xuất khẩu và các dịch vụ khác.
Khái quát nh sau : Sản xuất ở nội tại các nớc phát triển và công nghiệp mới sẽ
giảm tới mức tối thiểu (dới 20% khoảng 2/3 sản lợng của họ đợc sản xuất tại
các nhà máy đã chuyển ra ngoài biên giới, khoảng 1/3 sản lợng giày là phải

nhập khẩu hoàn toàn).
Các chuyên gia thuộc Liên đoàn giày Châu Âu cho rằng trong tơng lai khó
mà tìm ra bất cứ một sản phẩm nào đợc sản xuất toàn bộ trong cùng một nớc.
Triển vọng của thị trờng toàn cầu sẽ đợc mở rộng, bởi ngành vận tải đợc cải
thiện và chi phí bảo dỡng của ngành này sẽ giảm thấp. Tuy nhiên dự báo trung
hạn còn gặp nhiều yếu tố thờng hay thayđổi bất ngờ, khó lờng. Do đó, cũng rất
khó mà hình dung đợc trong tơng lai những nớc nào sẽ có chi phí thấp để tiếp
tục duy trì sản xuất và xuất khẩu giày mạnh. Chi phí lao động chắc chắn có ý
nghĩa lớn đối với sản xuất giày nhng cha hẳn đã là đủ điều kiện để trở thành
một giải pháp duy nhất trong sự suy xét để phát triển nghề giày.
Chơng II
Tình hình kinh doanh xuất khẩu da giày của Việt Nam
I. Thực trạng và xuất khẩu da giày Việt Nam trớc 1990 và các
nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu.
1. Thực trạng xuất khẩu da giày Việt Nam
1.1. Thực trạng xuất khẩu da giày Việt Nam trên thị trờng Đông Âu và
Liên Xô cũ.
Trớc 1990 ngành da giày Việt Nam chủ yếu thực hiện các hợp đồng hợp
tác gia công mũ giày cho Liên Xô và các nớc XHCN Đông Âu, tiến hành các
hoạt động sản xuất găng tay cao su xuất khẩu cho thị trờng Đông Âu với đồng
vốn ít ỏi. Do yêu cầu của sự hợp tác và phân công lao động giữa các nớc XHCN
cũ, năm 1987, Liên hiệp các xí nghiệp da giày thuộc Bộ công nghiệp nhẹ đợc
thành lập với nhiệm vụ chủ yếu là gia công mũ giày da, giày vải, găng tay bảo
hộ lao động và hàng mềm xuất khẩu theo các hiệp định kinh tế với Liên Xô cũ
và các nớc Đông Âu. Từ đó, ngành da giày Việt Nam đã thực sự trở thành
ngành kinh tế -kỹ thuật độc lập nhng cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn, lạc
hậu. Sản phẩm làm ra với mẫu mã đơn giản, chất lợng không cao. Kim ngạch
xuất khẩu năm 1987 đạt 33,27tr Rup/USD, năm 1990 đạt 125 tr Rup/USD. Toàn
ngành có hơn 50 đơn vị gia công sản xuất da giày đợc hình thành trên toàn
quốc.

Khi Liên Xô và các nớc Đông Âu tan rã đã tác động sâu sắc đến ngành da
giày non trẻ và mới khởi sắc ở Việt Nam. Hầu hết các doanh nghiệp đều không
có việc làm, nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa hoặc giải thể, 2/3 trong số
25000 lao động của ngành phải rời sản xuất và tự lo cuộc sống. Kim ngạch xuất
khẩu đang ở mức 125 tr.Rup/USD tụt xuống 30tr Rup/USD vào năm 1991 và
48tr Rup/USD vào năm 1992 (chủ yếu là giao nốt số hàng tồn đọng từ năm
1990).
1.2. Thực trạng ngành da giày xuất khẩu.
Trong giai đoạn này ngành da giày Việt Nam chủ yếu thực hiện các hợp
đồng hợp tác gia công mũ giày cho Liên Xô và các nớc XHCN Đông Âu. Khi
khối này tan rã ngành da giày phải trải qua một thời kỳ đầy khó khăn do thiếu
đơn hàng (tuy nhiên giai đoạn này kéo dài không lâu). Trớc thực trạng ấy rất
nhiều doanh nghiệp đã bị phá sản hoặc thua lỗ nặng nề. Tuy nhiên vẫn còn một
số doanh nghiệp biết cách tháo gỡ và khắc phục đợc khó khăn để vơn lên trở
thành một trong những gơng mặt sáng của công nghiệp thủ đô.
Ngành da giày Việt Nam chỉ tạo ra đợc trên 25000 chỗ làm việc cho ngời
lao động với trình độ kỹ thuật, tay nghề còn kém, hiệu quả làm việc cha cao.
Đồng thời bị lệ thuộc quá nhiều vào việc cung ứng nguyên vật liệu phụ liệu, hoá
chất, phụ tùng, máy móc từ nớc ngoài và nhất là từ chính đối tác đặt sản xuất
hoặc mua sản phẩm của ta, đây chính là nguyên nhân gây ra rất nhiều hạn chế
về hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ảnh hởng đến thế cạnh
tranh của sản phẩm.
Tình trạng quá yếu kém về tài lực, vốn đầu t đều phải tự vay với lãi suất
cao, nhiều doanh nghiệp cha kịp thích ứng với sự thay đổi về chính sách của
Nhà nớc nên phần lớn các doanh nghiệp là thực hiện gia công cho nớc ngoài.
Ngoài yếu kém về vốn, do ngành mới phát triển nên cha có đủ uy tín và
điều kiện để trực tiếp xuất khẩu sản phẩm mà phải thông qua nhiều tầng nấc
trung gian mới đa đợc hàng tới nơi tiêu thụ ở nớc ngoài. Trình độ quản lý kỹ
thuật công nghệ, thiết kế và phát triển mẫu mốt quản lý và vận hành sản xuất
kinh doanh của cán bộ Việt Nam còn yếu kém do mới hình thành ngành kinh tế

kỹ thuật, cha có trờng lớp đào tạo. Phần lớn cán bộ cha thể tự mình chủ động
độc lập điều hành sản xuất và kỹ thuật một cách khoa học đồng bộ, đúng tiến
độ và có chất lợng.
2. Các nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong xuất khẩu.
Vào đầu những năm 90 các doanh nghiệp da giày Việt Nam đều rơi vào
tình trạng khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Thứ nhất, sự lạc hậu về nhà xởng, trang thiết bị, đặc biệt là việc bố trí mặt
bằng, trang bị kỹ thuật, máy móc bất hợp lý và lãng phí, vệ sinh công nghiệp
kém, môi trờng công nghiệp lạc hậu là đặc điểm phổ biến của các doanh nghiệp
ở các nớc đã từng hoạt động theo mô hình quản lý kế hoạch hoá quan liêu bao
cấp mà Việt Nam là một trong những điển hình. Đây thực sự là một trở lực cho
việc đa cái mới vào hoạt động quản lý.
Thứ hai là hoạt động trong điều kiện thiếu thông tin và do vậy không
nhanh nhạy với thị trờng. Phần lớn các doanh nghiệp đều lúng túng trong việc
tổ chức hoạt động thông tin điều đó một phần quan trọng bắt nguônf từ mô hình
và cơ cấu tiêu dùng tổ chức doanh nghiệp cha có sự đổi mới cần thiết, phần
khác do sự hỗ trợ bên ngoài nh các cơ quan Nhà nớc cán bộ, sở quản lý ngành
chuyên ngành còn yếu.
Thứ ba là do phần lớn các doanh nghiệp có cán bộ dôi d lớn không mạnh
dạn đổi mới cơ cấu doanh nghiệp, còn theo mô hình tổ chức phòng ban cũ, do
vậy không tạo ra sự chuyển biến đồng bộ và tác phong mới trong hoạt động sản
xuất kinh doanh và sự đồng bộ trong việc giải quyết vấn đề chất lợng.
Ngoài ra nhận thức về quản lý chất lợng sản phẩm còn nhiều điều cha rõ,
nhận thức về tác động của cơ chế thị trờng còn phiến diện nặng về tác động tiêu
cực, từ đó tìm cách đối phó bằng các biện pháp không cơ bản, nh móc nối mua
bán không trung thực, không thấy đợc yếu tố cơ bản của sự cạnh tranh là uy tín,
chất lợng sản phẩm, chất lợng dịch vụ.
Vấn đề sở hữu và quan hệ sở hữu trong khu vực Nhà nớc cha đợc giải
quyết triệt để cũng làm hạn chế sự vơn lên, sáng tạo, dám nghĩ dàm làm của đội
ngũ cán bộ quản lý. Bên cạnh đó cơ chế quản lý ở tầm vĩ mô còn những hạn

chế, gò bó cha đảm bảo quyền tự chủ sản xuất kinh doanh và sự chịu trách
nhiệm của các doanh nghiệp. Tổ chức các doanh nghiệp của ta nằm trong các
quan hệ ràng buộc phức tạp và nhìn chung là cồng kềnh cán bộ công nhân đông
mà không mạnh, trình độ kiến thức tay nghề hiểu biết về cơ chế thị trờng còn
hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ
năng lực tài chính yếu, khả năng đổi mới công nghệ hạn chế. Đại bộ phận
doanh nghiệp phụ trách một hoặc vài sản phẩm theo chu trình khép kín từ khâu
đầu đến sản phẩm cuối cùng.
Bên cạnh những nguyên nhân gây ra tình trạng khó khăn trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu nói chung, doanh nghiệp da
giày Việt Nam rơi vào tình trạng khó khăn do một số nguyên nhân khác. Chủ
yếu là do việc các nhà quản lý cha thích ứng kịp với những đòi hỏi khắc nghiệt
của cơ chế thị trờng mới đợc vận hành trong nền kinh tế đất nớc. Mặt khác, một
số thị trờng truyền thống thuộc các nớc xã hội chủ nghĩa cũ không còn đợc duy
trì do biến động chính trị về phía doanh nghiệp là sự thiếu vốn trầm trọng, đội
ngũ công nhân tay nghề kém
3. Đánh giá thực trạng của ngành da giày và hoạt động xuất khẩu.
Công nghiệp da giầy là ngành sản xuất gắn liền với nhu cầu mặc và thời
trang: Ngành công nghiệp da giày Việt Nam có vị trí quan trọng đối với nền
kinh tế, là ngành thu hút nhiều lao động, cung cấp nhiều sản phẩm tiêu dùng
trong nớc và xuất khẩu. Đây cũng là ngành có khả năng khai thác nguồn
nguyên liệu trong nớc, có lợi thế và tiềm năng xuất khẩu lớn thu nhiều ngoại tệ
cho đất nớc. Công nghiệp da giày là ngành có công nghệ đơn giản so với các
ngành công nghiệp khác, cần có vốn đầu t nhng có hiệu quả kinh tế cao, phù
hợp với điều kiện thực tế của nớc ta.
Cùng với sự phát triển của cơ chế thị trờng, chính sách mở cửa của Nhà n-
ớc những năm qua, trong nền kinh tế nói chung và trong ngành da giầy nói
riêng đang tồn tại và phát triển nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều hình thức sở
hữu khác nhau cùng hoạt động đan xen, vừa cạnh tranh vừa hợp tác.
Từ một ngành kinh tế kỹ thuật khiêm tốn, non trẻ trong nền kinh tế quốc

dân mới trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật độc lập từ năm 1987 ngành da
giầy ngày nay đã trở thành một ngành có sức phát triển mạnh kim ngạch xuất
khẩu lớn cùng ngành dệt may đóng góp đáng kể vào sự tăng trởng kinh tế chung
của đất nớc. Tuy nhiên ngành sản xuất da giầy còn lệ thuộc nhiều vào các đối
tác nớc ngoài do chủ yếu làm gia công, hiệu quả kinh tế còn thấp (chỉ trừ mặt
hàng giày vải là tơng đối chủ động trong sản xuất.
Trong thời gian tới để trở thành một quốc gia mạnh về sản xuất da và
xuất khẩu giày dép chúng ta phải cần xúc tiến mở rộng thị trờng hơn nữa, có
biện pháp xâm nhập thị trờng khó tính hoà nhập vào mạng lới tiêu thụ của các
tập đoàn lớn trên thế giới. Đồng thời cần quan tâm nâng cao giá trị xuất khẩu
không chỉ ở số lợng mà cả hiệu quả kinh tế bằng cách phát triển sản phẩm độc
lập, tiến tới tự chủ trong cung cấp nguyên vật liệu, tự chủ cả về thị trờng, khoa
học, công nghệ, mẫu, mốt thời trang, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng.
Trớc tình hình đó, hởng ứng đổi mới, hoà nhập và mở cửa nền kinh tế của Đảng
và Chính phủ, các doanh nghiệp da giầy Việt Nam đã năng động nắm bắt những
thời cơ và vận hội mới, phát huy mọi tiềm lực với những nỗ lực cao nhất để tiếp
nhận sự chuyển dịch ngành da giầy thế gioứi thông qua việc hợp tác, gia công,
liên doanh liên kết đầu t 100% vốn nớc ngoài với các đối tác nớc ngoài mà chủ
yếu là Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan.
II. hoạt động xuất khẩu da giầy Việt Nam sau 1990
1. Thực trạng xuất khẩu
Sau khi Liên Xô cũ và Đông Âu tan rã toàn bộ chơng trình hợp tác gia
công mũ giày với các nớc này chấm dứt ngành da giầy Việt Nam bớc vào thời
kỳ phát triển mới, thời kỳ tiếp nhận sự chuyển dịch sản xuất các sản phẩm dày
dép để xuất khẩu từ các nớc nhập khẩu trong khu vực nh Đài Loan, Hàn Quốc,
Hồng Kông nhằm khai thác lợi thế mà Việt Nam có đợc trong sản xuất và xuất
khẩu giày dép. Đó là : Việt Nam có lực lợng lao động dồi dà, trẻ khoẻ, tiếp thu
nhanh, tiền công lao động còn thấp Việt Nam cha bị các nớc nhập khẩu giày
dép khống chế bằng hạn ngạch và đợc chế độ u đãi thuế quan (GSP) nếu đáp
ứng đủ tiêu chuẩn, xuất xứ C/O.

Để khai thác tiềm năng, lợi thế đó chủ trong khoảng thời gian từ năm 1993
đến nay, ngành da giày Việt Nam (của tất cả các thành phần kinh tế) đã tập
trung khai thác mọi nguồn vốn đầu t và bằng nhiều hình thức đầu t các cơ sở
sản xuất các loại giày dép chỉ xuất khẩu. Hiện nay năng lực sản xuất của toàn
ngành đạt gần 300 triệu đôi giày dép các loại, thu hút lực lợng lao động khoảng
300.000 ngời, đạt tốc độ tăng trởng kim ngạch xuất khẩu hàng năm 40 - 50%.
Riêng năm1998 do tác động bởi cuộc khủng hoảng trong khu vực nên ngành chỉ
đạt tốc độ tăng trởng gần 3,8% so với năm 1997, kim ngacạh xuất khẩu đạt 1 tỷ
USD, 1999 kim ngạch xuất khẩu vào khoảng 1300 triệu USD, tăng 30% so với
1998.
Tuy có nhiều tiềm năng và lợi thế song ngành giày dép Việt Nam hiện nay
(nhất là các doanh nghiệp trong nớc) vãan còn nhiều khó khăn và hạn chế về
khả năng tài chính, về cung ứng vật t nguyên phụ liệu, về sang tác và phát triển
mẫu mode, về công nghiệp và kỹ thuật, về quản lý để xâm nhập trực tiếp vào thị
trờng nhập khẩu. Do đó phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng phơng
thức hợp tác gia công xuất khẩu với các đơn vị đối tác trong khu vực. Mặc dù
phơng thức này có những hạn chế cho phía các doanh nghiệp Việt Nam song lại
là phơng thức phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình hình thành và phát triển
ngành công nghiệp giày dép của nhiều nớc đang phát triển nói chung và của
Việt Nam hiện nay nói riêng.
Tại cuộc họp báo ngày 10/2/1999, Tổng Công ty Da giày Việt Nam đã
tổng kết việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế năm 1998 và thông qua nhiệm vụ, kế
hoạch năm 1999, đồng thời đa ra các biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện kế
hoạch đã đề ra.
Năm 1998 Tổng Công ty Da giầy Việt Nam phải đơng đầu với những khó
khăn của một ngành kinh tế - kỹ thuật non trẻ, các đơn vị lại luôn trong tình
trạng thiếu vốn, phơng thức sản xuất chủ yếu là gia công cho khách hàng nớc
ngoài. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính ở nhiều khu vực trên thế giới đã làm
nhu cầu tiêu dùng giảm, các đơn đặt hàng bị cắt giảm và ép giá (từ 5 - 7%)
nhất là thị trờng Hàn Quốc (từ 20-30%). Đối tác của Công ty da Sài Gòn đã

chấm dứt hợp đồng sản xuất nên sản lợng chỉ đạt 80% kế hoạch đợc giao. Trong
khi đó, các đơn vị sản xuất da thuộc vẫn đang gặp nhiều khó khăn. Nguồn
nguyên liệu không ổn định, chất lợng thấp, thiết bị lạc hậu nên sản phẩm da
thuộc chất lợng thấp, giá thành cao, cha lọt vào kênh tiêu thụ. Vì rất nhiều yếu
tố, cả chủ quan và khách quan tác động nên các chỉ tiêu kinh tế đề ra cha thực
hiện đợc nh mong muốn. Tuy giá trị sản xuất công nghiệp đạt hơn 671 tỷ đồng
(bằng 92% kế hoạch 1998 và bằng kế hoạch 1997) ; tổng doanh thu đạt hơn
1.128 tỷ đồng (bằng 102,5% kế hoạch1998) ; giá trị xuất khẩu toàn Tổng Công
ty thực hiện đờc 188 triệu USD đạt 97,1% kế hoạch năm và bằng 97,7% so với

×