Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Đánh trùng thuế trong đầu tư quốc tế ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.56 KB, 21 trang )

Thảo luận
I. Đánh trùng thuế trong đầu tư quốc tế
1. Khái niệm :
- Đánh trùng thuế trong đầu tư quốc tế là hiện tượng hai hay nhiều quốc
gia (Vùng lãnh thổ) cùng áp dụng các loại thuế tương tự trên cùng một
khoản thu nhập chịu thuế, hay tài sản chịu thuế của cùng một đối tượng nộp
thuế trong cùng một thời kỳ.
Ví dụ 1 :
Ông Nguyễn Văn A là người mang quốc tịch Việt Nam,thành lập công ty
kinh doanh Cà Phê Việt tại Pháp.Lợi nhuận thu được trong một năm là 100
tỷ. Biết:
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam là: 25%
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp ở Pháp là: 30%
Ta nói có hiện tượng đánh trùng thuế xảy ra khi: Doanh nghiệp phải nộp:
Thuế TNDN ở:
Việt Nam : 100*25% = 25 (tỷ)
Pháp : 100*30% = 30 (tỷ)
Tổng số thuế mà doanh nghiệp phải nộp là: 55 (tỷ)
2. Nguyên nhân của hiện tượng đánh trùng thuế :
Nhìn chung, luật thuế của mỗi quốc gia đều được xây dựng trên cơ sở đặc
quyền của quốc gia đó và phần lớn không mang ý nghĩa quốc tế.Nhưng trên
cơ sở các mối quan hệ quốc tế, thì đặc quyền thu thuế của các quốc gia đều
dựa trên các nguyên tắc:
+ Nguyên tắc cư trú
+ Nguyên tắc nguồn
+ Nguyên tắc kết hợp nguồn và cư trú
đều được đại đa số các quốc gia trên thế giới chấp nhận.
Tuy nhiên chính: “ Sự khác nhau về chính sách giữa các nước, đặc biệt là
về pháp luật thuế, cùng với việc các quốc gia đồng thời triển khai đặc quyền
thu thuế trên cơ sở các nguyên tắc trên đã dẫn đến tình trạng thu trùng thuế”
Ví dụ 2 : (Tiếp ví dụ trên)


Ông A mở thêm một công ty con tại Thái Lan, thu nhập hàng năm của
công ty con này là: 50 (Tỷ).Về nguyên tắc, cả Thái Lan và Việt Nam đều có
quyền đánh thuế đối với khoản thu nhập 50 tỷ này khi:
Việt Nam thu thuế theo nguyên tắc cư trú: Vì Ông A là đối tượng cư trú tại
Việt Nam nên sẽ tiến hành thu thuế trên thu nhập toàn cầu của ông.
Thái Lan thu thuế theo nguyên tắc nguồn : sẽ xác định đây là nguồn thu
nhập phát sinh từ quốc gia mình và tìm cách đánh thuế.
Hoặc khi hai nước có sự kết hợp nguyên tắc nguồn và cư trú trong qúa
trình đánh thuế cũng sẽ dẫn đến hiện tượng đánh trùng thuế giữa hai quốc
gia.
Để thấy rõ hơn về hiện tượng đánh trùng thuế giữa các quốc gia, Ta xét các
trường hợp đánh trùng thuế có thể xảy ra như sau:
3. Các trường hợp đánh trùng thuế :
3.1 Trường hợp cư trú trùng :
Trường hợp này phát sinh khi cả hai quốc gia khác nhau cùng coi một đối
tượng nộp thuế là đối tượng cư trú của quốc gia mình.Do đó cùng thu thuế
đối với đối tượng đó trên cùng một thu nhập.Trường hợp này còn được gọi
là nghĩa vụ thuế đồng thời.
Ví dụ 3: ( Tiếp ví dụ trên)
Nếu trong 1năm ông A cư trú 7tháng ở Việt Nam, 5tháng ở Pháp, nhà ở,
gia đình đều ở Pháp.Cả Pháp và Việt Nam đều đánh thuế theo nguyên tắc cư
trú.Nếu:
Phía Việt Nam xác định đối tượng cư trú theo theo tiêu thức số ngày hiện
diện tại quốc gia ( Một cá nhân khi hiện diện tại Việt Nam trên 183 ngày thì
được xác định là đối tượng cư trú).
Còn phía Pháp xác định đối tượng cư trú theo nguyên tắc hiện trạng và
hành động thực tế : tức là nơi tiến hành các hoạt động sinh lời, quan hệ gia
đình, xã hội
Ông A sẽ được xác định là đối tượng cư trú của cả Việt Nam và Pháp nên
sẽ bị đánh thuế trên thu nhập toàn cầu ở cả hai nước.

3.2 Trường hợp trùng nguồn :
Do các quy định tại luật thuế của mỗi quốc gia khác nhau có thể xử lý cùng
một thu nhập như có nguồn tại quốc gia mình.
Ví dụ 4 :
Từ ví dụ 1 và 2. Trường hợp trùng nguồn xảy ra khi cả Pháp và Thái Lan
đều coi khoản lợi nhuận 50 tỷ có nguồn phát sinh từ quốc gia mình và tìm
cách thu thuế trên phần lợi nhuận đó.
3.3 Trường hợp cạnh tranh về nguồn và cư trú :
Trường hợp này phát sinh khi: một đối tượng cư trú của một quốc gia có
được thu nhập có nguồn từ một quốc gia khác và do đó cả hai quốc gia
( Quốc gia nguồn và quốc gia cư trú) đều tìm cách đánh thuế trên phần thu
nhập đó.
Ví dụ 5 :
Việt Nam đánh thuế trên thu nhập toàn cầu của ông A Vì ông là đối tượng
cư trú, Thái Lan đánh thuế trên phần thu nhập 50 tỷ vì khoản thu nhập này
phát sinh tại Thái Lan.
3.4 Trường hợp điều chỉnh lợi nhuận :
Trường hợp này phát sinh khi một quốc gia,theo quy định tại nội luật của
mình đã đơn phương điều chỉnh tăng phần lợi tức chịu thuế đối với phần lợi
tức phát sinh từ nước ngoài, trong khi đó tại nước ngoài lại không thực hiện
bất cứ một điều chỉnh nào có tính chất bù đắp sau đó.
Ví dụ :
Công ty X của quốc gia A,có chi nhánh đặt tại quốc gia B
Tại B, chính sách thuế điều chỉnh mức thuế từ 24% lên 28%
Tại A, phần thuế được khấu trừ vẫn chỉ là 24%
=>DN chịu thiệt.
4. Tác hại của đánh trùng thuế :
Trong điều kiện ngày nay, việc đánh trùng thuế đã có ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu (Ở cả các nước phát triển cũng
như các nước đang phát triển).Cụ thể như sau:

4.1 Đối với các nước phát triển :
* Hạn chế sự đầu tư ra nước ngoài :
Ở các nước phát triển thường có sự tích lũy lớn về vốn, khoa học công
nghệ hiện đại, trong khi đó lại có hạn chế về điều kiện đất đai, nguồn nhân
lực về tài nguyên thiên nhiên.Còn ở các nước đanh phát triển thường có
nguồn lao đông dồi dào, nguồn tài nguyên phong phú nhưng lại thiếu vốn để
đầu tư sản xuất kinh doanh,khoa học kỹ thuật lạc hậu.
Cho nên xu hướng của các nước phát triển là khuyến khích đầu tư sang các
nước đang phát triển để nhằm khai thác tối đa các lợi thế so sánh.Tuy
nhiên,khi có hiện tượng đánh trùng thuế xảy ra trên phần thu nhập mà họ thu
được từ việc đầu tư ra nước ngoài có thể dẫn đến lợi nhuận sau thuế còn thấp
hơn so với đầu tư ở trong nước.Như vậy, rõ ràng họ sẽ không tiếp tục đầu tư.
* Không khuyến khích sự nghiên cứu và phát triển công nghệ mới:
Để có được những sản phẩm công nghệ tiên tiến hiện đại, các nước phát
triển phải bỏ ra một lượng vốn khá lớn để đầu tư vào nghiên cứu, phát
triển.Sau khi ra đời, nếu các sản phẩm này chỉ được sử dụng trong nước có
thể sẽ không bù đắp được chi phí hoặc không có lợi nhuận. Đòi hỏi các nhà
đầu tư phải đưa sản phẩm ra khai thác tại thị trường bên ngoài nhằm nhanh
chóng thu hồi chi phí và thu lợi nhuận.
Trong trường hợp này, nếu nước nhận công nghệ áp dụng một mức thuế
suất quá cao đối với thu nhập từ hoạt động chuyển giao công nghệ, thì phần
thu nhập còn lại sẽ không đủ bù đắp chi phí ban đầu, hoặc sẽ không có lợi
nhuận.
Ví dụ :
Một liên doanh pha chế dầu nhờn tại Việt Nam ký kêt hợp đồng với một
công ty của Hàn Quốc.Trong đó quy định : Công ty này chuyển giao cho
liên doanh Việt Nam công thức pha dầu nhờn của công ty Hàn Quốc trong
vòng 20 năm.Khi liên doanh Việt Nam trả tiền bản quyền cho công ty Hàn
Quốc, theo quy đinh của luật thuế Việt Nam, Liên doanh phải khấu trừ thuế
trên tiền bản quyền ( Số thuế đánh trên phần thu nhập từ chuyển giao bản

quyền do bên Hàn Quốc chịu).Trong tình huống này, nếu phía nhận chuyển
giao là Việt Nam đánh thuế quá cao, có thể khiến cho phía Hàn Quốc không
có lợi nhuận từ hoạt động chuyển giao này khi khoản thu nhập đó tiếp tục bị
đánh thuế ở Hàn Quốc.
Như vậy, hoạt động chuyển giao công nghệ đã bị hạn chế, và từ đó việc
đầu tư cho nghiên cứu, phát minh công nghệ mới cũng sẽ không được các
nhà đầu tư chú trọng.
Ngoài ra đối với các nước phát triển, việc đánh trùng thuế còn ảnh hưởng
tới sự phân công nguồn lao động:
Do các chuyên gia giỏi, các nhà quản lý có chuyên môn của các nước này
sẽ không chấp nhận ra nước ngoài làm việc nếu như phần thu nhập sau thuế
của họ từ việc lao động ở nước ngoài thấp hơn khi làm việc ở trong nước
Ví dụ :
Năm 2008, ông A là đối tượng cư trú của Pháp, làm việc cho chi nhánh
ngân hàng B tại Việt Nam trong vòng 8 tháng.Toàn bộ tiền lương và thu
nhập khác của ông A do chi nhánh ngân hàng B tại việt Nam trả.Trong
trường hợp này ông A có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân đối với khoản
thu nhập nhận được trong thời gian làm việc ở Việt Nam, theo luật thuế thu
nhập cá nhân ở Việt Nam. Tuy nhiên nếu phần thu nhập đó tiếp tục bị đánh
thuế tại Pháp thì Ông sẽ không sang Việt Nam làm việc.
4.2 Đối với các nước đang phát triển :
Các nước đang phát triển đang tìm cách thu hút các nhà đầu tư nứoc ngoài
để có số vốn và công nghệ bằng cách đơn phương đưa ra các ữu đãi miễn,
giảm thuế nói chung và thuế thu nhập nói riêng để giảm nhẹ gánh nặng thuế
cho họ. Các biện pháp mà họ thường sủ dụng:
- miễn hoặc thu thuế với mức thuế suất thấp đối với một số loại thu nhập
nhất định.
- mở rộng và tăng số chi phí kinh doanh được khấu trừ nhằm thúc đẩy xuất
khẩu.
- giảm bớt một số loại thu nhập trong hoạt động xuất khẩu.

- giảm thuế thu nhập cá nhân.
- đẩy nhanh khấu hao tài sản cố định .
Các biện pháp này chỉ có lợi cho nhà đầu tư nước ngoài khi bản thân nước
của nhà đầu tư cho phép miễn thuế đối với thu nhập có nguồn gốc từ nước
ngoài hay chấo nhận khấu trừ vào số thuế sẽ nộp ở nước nhận đầu tư.
Để ngăn chặn tác động tiêu cực của việc đánh trùng thuế quốc tế trong đàu
tư như đã trình bày nêu trên, các qưốc gia tìm cách loại trừ hay giảm bớt
việc đánh thuế trùng. Việc này được thực hiện bằng rất nhiều các phương
thức khác nhau, thông qua các hiệp định song phương hay đa phương và các
biện pháp khác nhau( miễn thuế, khấu trừ thuế, khoán thuế….) Nội dung cụ
thể sẽ nghiên cứu trong nội dung Hiệp định tránh đánh thuế hai lần nêu dưới
đây.
II. Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
1. Khái niệm :
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần là hiệp định thuế, một thỏa thuận song
phương phân chia quyền đánh thuế của từng nước đối với một số khoản thu
nhập của các đối tượng liên quan, nhằm ngăn ngừa việc đánh trùng thuế đối
với các loại thu nhập đó.
2. Bản chất của Hiệp định tránh đánh thuế hai lần :
Trên phương diện pháp lý: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần quy định giới
hạn quyền đánh thuế của từng quốc gia trong khuôn khổ pháp lý của Hiệp
định.
Trên phương diện kinh tế: Hiệp định tránh đánh thuế hai lần là một thỏa
thuận nhằm phân chia nguồn thu cho Ngân sách của nước đầu tư và nước
nhận đầu tư, chuyển giao công nghệ, phân công lao động. Thực chất, Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần không tạo ra một thứ thuế mới mà, nó là sự hạn
chế quyền thu thuế của một trong các quốc gia tham gia Hiệp định. Hiệp
định thuế là công cụ để giảm nhẹ nghĩa vụ thuế.
3. Mục tiêu của Hiệp định tránh đánh thuế hai lần :
Nói một cách chung nhất, mục tiêu cuối cùng của Hiệp định là thúc đẩy

quan hệ thương mại, đầu tư qua biên giới bằng cách loại trừ các rào cản về
thuế đối với các hoạt động này. Mục tiêu chung này được bổ sung bởi các
mục tiêu cụ thể dưới đây:
3.1 Tránh đánh thuế trùng :
Đây là mục tiêu cụ thể quan trọng nhất của Hiệp định. Các quy định cơ bản
của Hiệp định đưa ra nhằn ngăn chặn đánh thuế trùng. Để đạt mục đich này
Hiệp đinh đã đưa ra hai loại nguyên tắc :
Thứ nhất: đối với các loại thuế thu nhập khác nhau, Hiệp địn đưa ra các
nguyên tắc để phân định các quyền đánh thuế giữa các quốc gia nguồn và
quốc gia cư trú. Cụ thể:
- Quốc gia nguồn là quốc gia thu thuế chủ yếu đối với loại thu nhập từ hoạt
động kinh doanh và hoạt động làm công
- Quốc gia cư trú là quốc gia có quyền thu thuế chủ yếu đối với thu nhập từ
đầu tư.
Thực hiện nguyên tắc này: quốc gia nguồn chấp nhận thu thuế với các
mức thuế suất hạn chế đối với thu nhập từ đầu tư của các đối tượng không
cư trú.
Thứ hai: Khi đã có các quy định về quốc gia nguồn có quyền đánh thuế
( một cách đầy đủ hay có giới hạn) đối với thu nhập thì quốc gia cư trú có
nghĩa vụ thực hiện các biện pháp nhằm loại trừ đánh thuế trùng.
3.2 Chống trốn lậu thuế :
Đây là mục tiêu cụ thể thứ hai của Hiệp định. Mục tiêu này được coi là
mục tiêu đối trọng với mục tiêu thứ nhất. Vì một mặt phải ngăn chặn đánh
thuế thuế trùng, mặt khác phải thực hiện các biện pháp ngăn chặn các hành
vi lợi dụng để trốn lậu thuế. Việc trốn lậu thuế không chỉ bao gồm các hành
vi gian lận thuế, không đăng kí nộp thuế mà có cả các hành vi tránh thuế
khác.
3.3 Đảm bảo không phân biệt đối xử giữa những nguời nộp thuế :
Mục tiêu này nhằm tạo ra sự đối xử bình đẳng về thuế giữa đối tượng cư
trú với đối tượng không cư trú và người không mang quốc tịch.

3.4 Tạo ra cơ chế giải quyết tranh chấp :
Thông qua Hiệp định, các quốc gia tham gia Hiệp định đã tạo ra một cơ
chế giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc chấp hành các luật thuế của
mỗi bên liên quan với các giao dich qua biên giới. Cơ chế giải quyết tranh
chấp dựa trên nguyên tắc thỏa thuận song phương.
4. Phạm vi áp dụng :
Phạm vi lãnh thổ : Hiệp định thuế có hiệu lực áp dụng trong phạm vi lãnh
thổ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế thuộc chủ quyền quốc gia của hai bên
tham gia ký kết. Đây sẽ là cơ sở cho việc xác định nguồn thu nhập, địa điểm
có tài sản theo nguyên tắc nguồn thu nhập
Phạm vi đối tượng áp dụng : Đối tượng áp thuộc phạm vi điều chỉnh của
Hiệp định thuế là một cá nhân, một tổ chức pháp nhân và bất cứ một bộ phận
nào khác của đối tượng này. Chúng là đối tượng chịu thuế của các nước ký
kết do có nhà ở, địa điểm cư trú , thời gian cư trú, trụ sở điều hành, trụ sở
đăng ký kinh doanh tại các nước ký kết .
Phạm vi các loại thuế áp dụng :Hiệp định thuế được áp dụng đối với các
loại thuế thu nhập ( tài sản) được đánh bởi các quốc gia tham gia ký kết. Các
loại thuế thu nhập thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định bao gồm : thuế
đánh trên tổng thu nhập hay một bộ phận của thu nhập, thuế đánh trên tổng
tài sản, các loại thuế đánh trên lợi tức từ hoạt động kinh doanh, chuyển
nhượng tài sản, thuế đánh trên thu nhập từ tiền lương, làm công, cung cấp
dịch vụ của những người hoạt động tự do.
Trong một Hiệp định cụ thể sẽ liệt kê các loại thuế thuộc phạm vi điều
chỉnh của Hiệp định và các loại thuế giống hoặc có cùng bản chất tương tự
sẽ được quy định trong tương lai bởi các quốc gia ký kết.
5. Nguyên tắc áp dụng Hiệp định :
Mỗi quốc gia đều có đặc quyền thu thuế thu nhập dựa trên cơ sở mối liên
hệ giữa quốc gia đó với thu nhập. Đó là mối liên hệ giữa quốc gia đó với các
họat động tạo ra thu nhập, hay là mối liên hệ của quốc gia đó với đối tượng (
tổ chức, cá nhân) có thu nhập.; hay kết hợp cả hai sự liên hệ này để thực

hiện đặc quyền thu thuế.
5.1 Nguyên tắc nguồn :
Khi một quốc gia thu thuế căn cứ vào sự liên hệ giữa quốc gia đó với các
hoạt động tạo ra thu nhập, tức là thu thuế đối với thu nhập phát sinh hay có
nguồn phát sinh tại quốc gia đó.
Thu thuế thu nhập theo phương thức này trong quan hệ quốc thuế quốc tế
đựợc gọi là thu thuế theo nguyên tắc nguồn
Tất cả các quốc gia trên thế giới đều áp dụng nguyên tắc này trong việc
thực hiện đặc quyền thu thuế của mình đối với thu nhập. Thực hiện theo
nguyên tắc này tránh cho các quốc gia không gặp khó khăn trong việc quản
lý nguồn thu nhập phát sinh ở nước ngoài của những người cư trú và công
dân của họ.
5.2 Theo nguyên tắc cư trú :
Khi một quốc gia thu thuế căn cứ vào mối liên hệ giữa quốc gia đó với bản
thân đối tượng có thu nhập, tức là thu thuế thu nhập của đối tượng cư trú tại
quốc gia đó.
Thu thuế thu nhập theo phương thức này trong quan hệ thuế quốc tế gọi là
thu thuế theo nguyên tắc cư trú
Thu thuế theo nguyên tắc này đảm bảo các quốc gia thực hiện thu thuế đối
với thu nhập phát sinh trên toàn thế giới của đối tượng cư trú của mình. Điều
này có nghĩa là một đối tượng cư trú của một quốc gia sẽ cớ nghĩa vụ nộp
thuế cho quốc gia mình cư trú ( nước cư trú) đối với thu nhập phát sinh
không chỉ từ bản thân quốc gia đó mà cả thu nhập phát sinh ngoài phạm vi
lãnh thổ quốc gia đó.
Nhìn chung, phần lớn các quốc gia trên thế giới áp dụng nguyên tắc cư trú
khi thực hiện đặc quyền thuế thu nhập đối với đối tượng được coi là đối
tượng cư trú của quốc gia đó.
5.3 Nguyên tắc kết hợp nguồn và cư trú :
Khi một quốc gia thu thuế căn cứ vào hai mối liên hệ nêu trên của quốc gia
đó với thu nhập ( nguồn và cư trú và / hoặc quốc tịch) có nghĩa là thu thuế

do thu nhập đó phát sinh và hoặc có nguồn phát sinh từ quốc gia đó và hoặc
do đối tượng có thu nhập cư trú tại và hoặc mang quốc tịch của quốc gia đó.
Thu thuế thu nhập theo phương thức này trong quan hệ thuế quốc tế đựoc
gọi là thu thế theo nguyên tắc kết hợp nguồn và cư trú
Thu thuế theo nguyên tắc đảm bảo cho một quốc gia có thể thu thuế đối
với mọi thu nhâp phát sinh tại quốc gia đó , đồng thời cũng đảm bảo quốc
gia đó thu thuế đối với thu nhập phát sinh hoặc có nguồn phát sinh từ nước
ngoài nếu thu nhập đó thuộc về đối tượng cư trú hay người mang quốc tịch
của quốc gia đó.
6. Nội dung hiệp định tránh đánh thuế hai lần :
6.1. Các phương thức tránh đánh trùng thuế :
- Phương thức đơn phương : Là phương thức mà mỗi quốc gia tham gia
trong đầu tư tự đưa ra những qui định trong nội luật nhằm giảm bớt sự đánh
thuế trùng.
Ngày nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới đều đơn phương đưa ra các
qui định để thực hiện việc đánh thuế trùng. Đặc biệt là các quốc gia đang
phát triển với mục đích khuyến khích đầu tư nước ngoài đã ban hành nhiều
ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài. (VD: biểu thuế TNCN người
nước ngoài lớn hơn trong nước, các ưu đãi về đất, về thuế TNDN).
- Phương thức đa phương : Là phương thức mà các quốc gia cùng nhau kí
kết các hiệp định chung nhằm hạn chế việc đánh trùng tthuế và phân định
quyền, nghĩa vụ của mỗi bên.
Các hiệp định thuế song phương được đàm phán trên cơ sở của các chính
sách tiền tệ, tài chính và các chính sách kinh tế khác của mỗi quốc gia.
6.2 Các biện pháp tránh đánh trùng thuế :
A. Biện pháp miễn thuế :
Nước cư trú sẽ không đánh thuế đối với thu nhập mà theo qui định của
Hiệp định có thể bị đánh tại nước đặt cơ sở thường trú hay nước nguồn.
- Miễn thuế toàn phần :Nước cư trú sẽ không tính đến thu nhập đã được
miễn thuế ở nước ngoài trong khi xác định mức thuế suất áp dụng đối với

các phần thu nhập phải chịu thuế còn lại.
- Miễn thuế luỹ tiến :Nước cư trú có tính đến khoản thu nhập được miễn ở
nước ngoài trong khi xác định mức thuế suất áp dụng đối với phần thu nhập
còn lại phải nộp thuế.
Như vậy, trong khuôn khổ của Hiệp định, nếu phương pháp miễn thuế
được các bên tham gia kí kết thừa nhận qui định tại Hiệp định thì sẽ đảm bảo
đặc quyền thu thuế đối với một số loại thu nhập nhất định sẽ được dành chỉ
cho 1 quốc gia kí kết.
B. Biện pháp khấu trừ thuế:
Nước cư trú sẽ tính số thuế phải thu trên cơ sở tổng thu nhập của đối tượng
nộp thuế ( kể cả thu nhập ở nước ngoài), sau đó nước cư trú sẽ cho phép đối
tượng nộp thuế được khấu trừ số thuế đã nộp vào số thuế phải nộp tại nước
cư trú đó.
- Khấu trừ toàn bộ :Quốc gia cư trú cho phép khấu trừ toàn bộ số thuế đã
thanh toán tại nước ngoài đối với số thu nhập có thể bị đánh thuế tại nước cư
trú.
- Khấu trừ phổ thông : Số thuế được khấu trừ tại nước cư trú cho số thuế đã
thanh toán tại nước khác được giới hạn trong tổng số thuế mà nước cư trú
( theo nội luật của mình) có thể thu đựoc trên tổng số thu nhập có nguồn
nước ngoài đó.
Như vậy, trong khuôn khổ hiệp định tránh đánh thuế 2 lần, nếu phương pháp
khấu trừ thuế được các bên tham gia kí kết thừa nhận qui định tại hiệp định
thì đảm bảo cho cả 2 nước kí kết được đồng thời tiến hành đánh thuế
Ví dụ :
Giả sử 1 người nộp thuế có thu nhập chịu thuế là 100000đ, trong đó
80000đ từ nước cư trú (nước C) và 20000đ từ nước nguồn (nước N).
Tại nước C áp dụng thuế suất luỹ tiến toàn phần với thuế suất 30% với
tổng thu nhập là 80000đ và 35% đối với tổng thu nhập là 100000đ.
Tại nước N áp dụng thuế suất
TH 1: 20% ( thấp hơn tại nước C)

TH 2: 40% ( cao hơn tại nước C).
Nếu tổng thu nhập 100000đ chỉ phát sinh tại nước C thì số thuế phải nộp
tại nước C là 100000* 35%= 35000đ.
* TH nước C và N không có hiệp định tránh đánh thuế 2 lần thì tổng số
thuế người này phải nộp là:
TH 1: 35000 + 20000 * 20% = 39000đ.
TH 2: 35000 + 20000 * 40% = 43000đ.
* TH có hiệp định tránh đánh thuế 2 lần :
a. Biện pháp miễn thuế :
- Miễn thúê toàn phần :
TH 1
( 20%)
TH 2
( 40%)
Thuế tại nước C (80000
* 30%) 24000 24000
Thuế tại nước N 4000 8000
Tổng số thuế 28000 32000
Tổng số thuế nước C bỏ
qua 11000 11000
- Miễn thuế luỹ tiến :
TH 1
( 20%)
TH 2
( 40%)
Thuế tại nước C ( 80000
* 35%) 28000 28000
Thuế tại nước N 4000 8000
Tổng số thuế 32000 36000
Tổng số thuế nước C bỏ

qua 7000 7000
b. Biện pháp khấu trừ :
- Khấu trừ toàn bộ :
TH 1
( 20%)
TH 2
( 40%)
Thuế tại nước C ( 80000 *
35%) 35000 35000
thuế tại nước N ( được
khấu trừ) 4000 8000
Tổng số thuế 31000 27000
Tổng số thuế nước C bỏ
qua 4000 8000
- Khấu trừ thông thường :
TH 1
( 20%)
TH 2
( 40%)
Thuế tại nước C ( 80000 *
35%) 35000 35000
thuế tại nước N 4000 8000
Thuế khấu trừ tối đa tại nước C 4000 7000
Tổng số thuế phải nộp tại nước
C 31000 28000
Tổng số thuế 35000 36000
Tổng số thuế đã khấu trừ tại
nước C 4000 7000
C. Biện pháp trừ chi phí :
Các nước thực hiện thu thuế với thuế suất toàn phần với thu nhập có nguồn

từ nước ngoài của đối tượng cư trú của họ và số thuế đã thanh toán tại nước
nguồn trên khoản thu nhập này của đối từợng cư trú chỉ được coi 1 cách đơn
giản như là khoản chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
Như vậy, phương pháp này chỉ tạo ra 1 sự giảm nhẹ rất ít đối với việc đánh
thuế . Nó thực sự có tác dụng chỉ khi nước cư trú của nhà đầu tư áp dụng 2
hệ thống thuế suất khác biệt đối với thu nhập có nguồn trong nước và thu
nhập có nguồn nước ngoài; trong đó mức thuế suất đối với thu nhập có
nguồn nước ngoài rất thấp so với mức thuế suất có nguồn trong nước.
Ví dụ :
Một công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam lãi 100 tỷ VND
Nộp tại VN: 28 tỷ VND
Thuế tại nước đó sẽ được tính trên 72 tỷ còn lại
28 tỷ đóng tại VN được coi như 1 khoản chi phí- Hiện tượng thuế đánh
trên thu nhập sau thuế.
D. Biện pháp khoán thuế :
Phương pháp này chỉ có thể áp dụng trong điều kiện tồn tại hiệp định tránh
đánh thuế 2 lần mà không thể áp dụng 1 cách đơn phương được.
Theo phương pháp này, nước cư trú cho phép 1 khoản khấu trừ ( nước
ngoài) với mức thuế suất lớn hơn mức thuế suất hiện hành được áp dụng tại
nước nguồn. Điều này có nghĩa là nếu không có hiệp định sẽ phải có 1 số
thuế thu nhập nhất định được thanh toán nếu không có sự miễn thuế. Việc
khấu trừ thuế cũng có thể được thực hiện cả đối với trường hợp thuế được
miễn do chính sách thuế của nước tiếp nhận đầu tư.
6.3 Các mẫu hiệp định:
Có 2 loại mẫu hiệp định là mẫu hiệp định của Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế OECD và mẫu của Liên hợp quốc UN. Ngoài ra trong thực tế, mỗi
quốc gia đều có mẫu hiệp định riêng của mình, dựa trên cơ sở mẫu OECD
hoặc UN.
Mẫu OECD: gồm 7 chương với 31 điều khoản
+ Chương 1( điều 1- 2): Phạm vi của hiệp định gồm các đối tượng và các

loại thuế áp dụng.
+ Chương 2( điều 3- 5): Các định nghĩa về đối tượng cư trú, cơ sở thường
trú…
+ Chương 3( điều 6- 21): Thuế đối với thu nhập từ bất động sản, kinh
doanh, vận tải…
+ Chương 4( điều 22): Thuế đối với tài sản.
+ Chương 5( điều 23): Biện pháp loại trừ đánh thuế 2 lần gồm phương
pháp miễn thuế và khấu trừ thuế.
+ Chương 6( điều 24- 29): Các điều khoản đặc biệt như không phân biệt
đối xử, về thoả thuận song phương, trao đổi thông tin…
+ Chương 7( điều 30- 31): Các điều khoản cuối cùng về Hiệu lực và chấm
dứt hiệp định.
Đặc điểm cơ bản của mẫu OECD là tạo thuận lợi, thực chất là ưu đãi cho
các nước xuất khẩu vốn, công nghệ và lao động hơn là các nước nhập khẩu
các yếu tố này. Điều này được thể hiện qua việc mẫu này thực hiện loại trừ
đánh thuế trùng thông qua đòi hỏi các quốc gia nguồn từ bỏ một phần hoặc
toàn bộ quyền thu thuế đối với một số loại thu nhập nhất định mà đối tượng
cư trú của quốc gia khác thu được từ quốc gia nguồn.
Ví dụ:
Các khoản thu nhập từ đầu tư gồm: lãi từ cổ phần, lãi tiền vay, tiền bản
quyền bị đánh thuế với một giới hạn nhất định tại quốc gia nguồn.
Các thu nhập không bị đánh thuế tại quốc gia nguồn:
Thu nhập từ vận tải quốc tế và chuyển nhượng phương tiện vận tải sử dụng
trong vận tải quốc tế: Việc đánh thuế đối với các hãng vận tải biển, hãng
hàng không quốc tế được thực hiện tại quốc gia cư trú của các hãng đó.
Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản cá nhân
Thu nhập khác: thu nhập từ những lần thắng ở các sòng bạc
Mẫu UN gồm 7 chương với 29 điều khoản:
Về cơ bản, mẫu UN được dựa trên cơ sở của mẫu OECD. Điểm khác biệt
cơ bản ở đây là mẫu UN đưa ra ít hạn chế đối với đặc quyền thu thuế của

quốc gia nguồn hơn.
7. Các hiệp định tránh đánh thuế 2 lần tại Việt Nam
Trong quá trình mở cửa nền kinh tế, để thu hút đầu tư, phát triển thương
mại, Việt Nam đã đàm phán ký kết nhiều hiệp định tránh đánh thuế hai lần
với các nước. Hiệp định tránh đánh thuế hai lần đầu tiên của Việt Nam được
kí kết giữa Việt Nam và Úc vào ngày 13/10/1992. Đến nay, chúng ta đã ký
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới. Gần đây nhất là bản HĐ được kí kết với Áo vào ngày 2/6/2008.
Để thi hành tốt các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam với
các nước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam, ngày 31 tháng 12 năm 2004 Bộ
Tài chính ban hành Thông tư 133/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện nội
dung cơ bản của các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa trốn lậu
đối với các loại thuế đánh vào thu nhập và tài sản giữa Việt Nam với các
nước có hiệu lực thi hành tại Việt Nam.
Một số nguyên tắc cơ bản của Hiệp định tránh đánh thuế hai lần :
Trường hợp có sự khác nhau giữa các quy định tại Hiệp định và các quy
định tại luật thuế trong nước thì sẽ áp dụng theo các quy định của Hiệp định.
Hiệp định không tạo ra các nghĩa vụ thuế mới, khác hoặc nặng hơn so với
luật thuế trong nước.
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần có tính chất bắt buộc chung đối với cả
hai bên kí kết.
HĐ là một thỏa thuận giữa hai nước về việc phân chia nguồn thu.
Nội dung của Thông tư 133
Giải thích nội dung một số điều của HĐ
Thông tư hướng dẫn chi tiết về thuế đối với các loại thu nhập
Biện pháp tránh đánh thuế hai lần tại Việt Nam
Các quy định về thủ tục thực hiện Hiệp định; trách nhiệm và quyền hạn
của nhà chức trách có thẩm quyền. Bao gồm :
- Thủ tục khấu trừ số thuế đã nộp ở nước ngoài vào số thuế phải nộp tại
Việt Nam đối với các tổ chức, cá nhân là đối tượng cư trú của Việt Nam;

- Thủ tục miễn, giảm thuế phải nộp tại Việt Nam cho tổ chức, cá nhân
nước ngoài;
- Thủ tục xác nhận số thuế đã nộp ở Việt Nam cho tổ chức, cá nhân là đối
tượng cư trú của nước ngoài;
- Thủ tục xác nhận đối tượng cư trú của Việt Nam.
Ngoài ra, TT còn ban hành danh mục các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
giữa Việt Nam với các nước và vùng lãnh thổ; Mẫu đơn đề nghị áp dụng
hiệp định giữa Việt Nam và nước ký kết áp dụng cho tổ chức, cá nhân là đối
tượng cư trú của Việt Nam và mẫu đơn áp dụng cho các tổ chức, cá nhân là
đối tượng cư trú nước ngoài; mẫu giấy xác nhận đã nộp thuế thu nhập; mẫu
giấy chứng nhận cư trú và mẫu bảng kê thu nhập vận tải áp dụng cho trường
hợp doanh nghiệp trực tiếp điều hành phương tiện vận tải và trường hợp
hoán đổi/chia chỗ.
Một số vấn dề dặt ra với Việt Nam trong quá trình thực hiện hiệp định
Trong điều kiện của Việt Nam, các tổ chức, cá nhân nước ngoài là đối
tượng cư trú của các nước ký kết Hiệp định với Việt Nam thuộc đối tượng
được miễn, giảm thuế theo quy định của Hiệp định, cũng như các tổ
chức/công ty có vốn đầu tư nước ngoài cần xác định số thuế đã nộp ở Việt
Nam để được khấu trừ vào số thuế phải nộp ở nước ngoài rất nhiều.
Mặc dù không quy định rõ ràng, nhưng theo hướng dẫn của các thông tư
trên và thực tế áp dụng ở các cơ quan thuế địa phương, các đối tượng thuộc
diện được miễn, giảm thuế theo quy định của Hiệp định hầu như phải thực
hiện nộp thuế trước vào ngân sách nhà nước, sau đó mới thực hiện thủ tục
xin miễn, giảm, hoàn thuế hoặc khấu trừ số thuế nộp thừa vào số thuế phải
nộp tiếp theo. Thời hạn xem xét việc miễn, giảm hoặc hoàn thuế, theo quy
định là 30 ngày. Nhưng trên thực tế, thủ tục này mất rất nhiều thời gian, đặc
biệt là đối với những trường hợp hoàn thuế khi hồ sơ phải được Bộ Tài
chính xem xét.
Như vậy, không như các nước, mặc dù được quy định trong Hiệp định,
nhưng để được áp dụng các điều khoản tránh đánh thuế hai lần, các đối

tượng có liên quan phải thực hiện thủ tục "đề nghị áp dụng Hiệp định " và
chờ đợi việc xem xét và chấp thuận từ cơ quan thuế trong một thời gian rất
lâu. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho các đối tượng nộp thuế. Một số tổ
chức, cá nhân trong nhiều trường hợp do nản lòng nên đã chấp nhận nộp
thuế mà không thực hiện việc xin miễn, giảm thuế theo Hiệp định.
III. Thiên đường thuế
1. Khái niệm:
Thiên đường thuế là nơi được xác định bởi các tiêu thức sau :
- Áp thuế quá thấp ( chỉ có thuế trên danh nghĩa) hoặc không áp thuế
- Thiếu sự minh bạch trong việc áp dụng luật thuế, thiếu sự trao đổi thông
tin với các cơ quan, tổ chức có chức năng khác
- Các thông tin tài chính cá nhân được bảo mật.
Các thiên đường thuế thường chỉ là những quốc gia có diện tích rất nhỏ,
dân số ít, nhưng tập trung 1 số lượng rất lớn các công ty trên toàn thế giới
đăng ký hoạt động. Các công ty này phần lớn không có hoặc cực ít nhân
viên làm việc mà chỉ hoạt động dưới hình thức 1 địa chỉ bưu điện.
VD : Liechtenstein - một thiên đường thuế, là một quốc gia nhỏ ở Tây Âu
với diện tích 160 km2, nằm giữa Thụy Sĩ và Áo, có dân số chỉ 35.000 người
(năm 2006). Công quốc này rất yên bình. Thủ đô Vaduz thậm chí không có
đường ray xe lửa và cả nước chẳng có một sân bay nào. Người đứng đầu
Công quốc, Thái tử Alois, nếu muốn ra nước ngoài bằng máy bay phải lái xe
hơi đến sân bay ở nước láng giềng Áo. Tuy nhiên, Liechtenstein lại nổi tiếng
thịnh vượng và giàu có bậc nhất thế giới. Đây là một trung tâm tài chính
toàn cầu với gần 74.000 doanh nghiệp đến từ khắp nơi trên thế giới đăng ký
hoạt động.
Năm 2000, Tổ chức Hợp tác kinh tế và Phát triển công khai bản danh sách
đen bất hợp tác về thuế, trong đó có 33 quốc gia để xảy ra vấn nạn rửa tiền
bị cảnh báo. Hiện nay, danh sách đen chỉ còn lại 3 quốc gia, đó là Monaco,
Liechtenstein và Andorra.
2. Đặc điểm :

2.1 Về thuế suất áp dụng :
- Mức thuế suất áp dụng rất thấp
VD: Tại Liechtenstein- một quốc gia nhỏ ở Tây Âu,nằm giữa Thụy Sĩ và
Áo, thuế áp đặt cho các công ty rất ưu đãi. Mức thuế tối đa là 18%, so với
mức trung bình của châu Âu có thể lên tới 30%
- Nếu có, chỉ áp thuế trên danh nghĩa
VD : trước đây, khi còn bị coi là 1 thiên đường trốn thuế, Gibraltar - nằm
giữa Tây Ban Nha và Anh, các công ty ở đây hàng năm chỉ phải nộp có mỗi
một khoản thuế lợi tức là 400 EUR, thấp đến mức gần như không đáng kể.
Sau khi bị dư luận phê phán và bị coi là không phù hợp với luật thuế của
EU, chính sách thuế đã được thay đổi lại là: không áp thuế theo doanh thu
hay lợi nhuận mà theo số nhân công làm việc cho công ty đó với mức 4.500
EUR/đầu người. Nhưng vì đại đa số - nếu như không nói là gần hết - các
công ty ở đây không hầu như không có nhân viên làm việc và thường chỉ do
một văn phòng luật sư ở Gibraltar quản lý nên quy định mới về thuế này chỉ
là danh nghĩa.
- Không áp nhiều loại thuế
VD : Andorra- quốc gia nằm giữa biên giới Pháp và Tây Ban Nha, không
thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập hay thuế tài sản
2.2 Về khai báo tài chính quốc tế :
- Thiếu minh bạch thông tin, đề cao bảo mật thông tin tài chính cá nhân.
Các khách hàng được phép mở tài khoản mà có thể ẩn danh => tạo điều kiện
cho việc rửa tiền
- Bất hợp tác trong khai báo tài chính quốc tế
- Hạn chế các nhà điều tra nước ngoài tiếp cận thông tin
- Không cho phép các thanh tra thuế nước ngoài điều tra hoạt động trốn
thuế trong lãnh thổ
VD: Thụy Sỹ - quốc gia cũng được biết đến với cái tên “thiên đường thuế”
Tại Thụy Sĩ áp dụng Luật bảo mật ngân hàng, theo đó các thông tin về các
tài khoản của khách hàng được bảo mật hoàn toàn, ngay cả các tổ chức hay

thanh tra có thẩm quyền trên quốc tế cũng không được cung cấp thông tin.
Theo ước tính, lượng tài sản trốn thuế đang được cất giữ tại các ngân hàng
ở Thụy Sỹ vào khoảng 4.700 tỷ USD. Từ thế chiến thứ hai, Đức quốc xã và
cả những người Do Thái đều đánh giá cao dịch vụ bí mật của Thụy Sỹ. Sau
chiến tranh, nhiều tên trùm ma túy của Columbia, giới độc tài châu Phi và cả
những kẻ trốn thuế từ nhiều nước đều “gửi gắm” hàng tỷ USD tại các ngân
hàng Thụy Sỹ.
3. Tác hại của thiên đường thuế :
3.1 Tạo điều kiện cho hoạt động Chuyển giá :
Các công ty đa quốc gia thực hịên chuyển giá đến các công ty con có trụ sở
đặt tại các thiên đường thuế để hưởng mức thuế suất cực thấp tại đây.
Cụ thể :
Công ty A tại Việt Nam sản xuất 1 sản phẩm với chi phí 10$ => để có lợi
nhuận, công ty phải bán với giá >10$.
Khi có hiện tượng chuyển giá đến thiên đường thuế :
Công ty A bán sản phẩm cho công ty B đặt tại thiên đường thuế với giá chỉ
7$ => A bị lỗ, không có lợi nhuận => không bị đánh thuế thu nhập doanh
nghiệp. Như vậy Việt Nam mất 1 khoản thu từ thuế
Tuy nhiên, công ty B lại là 1 công ty con của công ty A. Tại thiên đường
thuế, công ty B bán sản phẩm trên với giá >10$ là đã có lãi. Thu nhập thu
được từ việc bán sản phẩm trên chỉ bị đánh thuế với mức thuế TNDN cực
thấp, nhỏ hơn rất nhiều so với việc nếu bán sản phẩm đó từ Việt Nam.
VD : năm 2001, khi Tập đoàn Enron của Mỹ bị điều tra, người ta phát hiện
công ty này có đến 881 chi nhánh "bình phong" và 692 trong số đó đăng ký
hoạt động chỉ riêng ở quần đảo Caimans
3.2 Che giấu thu nhập bất chính :
Nếu o có thiên đường thuế, khi có nguồn thu nhập này, các tổ chức, cá
nhân bắt buộc phải khai báo nguồn gốc của thu nhập. Đồng thời, nếu thu
nhập này lớn thì khoản tiền thuế thu nhập phải đóng là rất cao.
Khi có thiên đường thuế : Tại thiên đường thuế, họ mở 1 tài khoản mới.

Các thiên đường thuế thường cho phép khách hàng ẩn danh khi mở tài
khoản, đồng thời đảm bảo việc bảo mật thông tin ( do không chấp nhận việc
khai báo tài chính với các cơ quan thanh tra quốc tế), vì vậy các tài khoản
này được lập ra mà không ai biết nguồn gốc hay chủ nhân thực sự của nó.
Việc không minh bạch về thông tin này thường được các đối tượng xấu,
các cá nhân muốn trốn thuế lợi dụng triệt để => Nạn rửa tiền (là hoạt động
nhằm xóa mọi gốc tích bất thường hoặc gian lận của đồng tiền để đưa nó vào
hệ thống lưu thông thông thường )
3.3 Các quốc gia giảm khả năng điều tiết của ngân sách :
Khi xảy ra hiện tượng chuyển giá, hệ thống thuế của quốc gia bị mất 1
khoản thu lớn => ngân sách bị thiếu hụt.
Hơn nữa khi các cá nhân, tổ chức lựa chọn thiên đường thuế để gửi gắm
thu nhập, số tiền gửi đáng nhẽ nằm trong hệ thống ngân hàng trong nước thì
nay lại nằm tại các ngân hàng tại thiên đường thuế. Như vậy, ngân hàng
cũng giảm khả năng hỗ trợ nhà nước trong việc cấp ngân sách. Thậm chí các
nước nghèo còn không có tiền cho việc đầu tư cho y tế và giáo dục.
3.4 Các thiên đường thuế góp phần vào làm lung lay hệ thống tài chính
quốc tế :
Số lượng tiền tại các thiên đường thuế là rất lớn. Tuy nhiên, thực tế lượng
tiền này chỉ nằm trong tay một số cá nhân và tổ chức. Việc tập trung 1 lượng
tiền quá lớn trong tay một số ít người dễ gây tiêu cực trong đầu tư.
Một minh chứng cụ thể là cuộc khủng hoảng tài chính cuối những năm 90
tại Thái Lan và Indonexia. Một số nhà đầu tư nước ngoài tiên đoán việc
chính phủ nước sở tại sắp hết dự trữ ngoại tê, họ liền bán tài sản họ đã đầu
tư, đổi lấy ngoại tệ đem ra nước ngoài. Do lượng vốn đầu tư của họ là rất
lớn, nên khi họ rút vốn, các nhà đầu tư khác cũng đua nhau rút vốn đổi lấy
ngoại tệ. Điều này làm áp lực về ngoại tệ càng lớn => tỷ giá hối đoái tăng
vọt => khủng hoảng tài chính.
4. Lợi ích mà các thiên đường thuế thu được :
Các thiên đường thuế từ bỏ quyền đánh thuế của mình . Vậy bù lại họ có

được lợi ích gì ?
Lợi ích họ thu được chính là từ những khoản tiền gửi.Số tiền hiện đang
nằm trong các thiên đường thuế ước tính lên đến hàng ngàn tỷ $. Lượng tiền
này được gửi vào các ngân hàng tại thiên đường thuế, các ngân hàng này tất
nhiên không để khoản tiền này " chết" tại quỹ mà sẽ đem đi đầu tư khắp thế
giới, từ đó thu về những khoản lợi nhuận tài chính khổng lồ.
Ngoài ra phí dịch vụ họ nhận được từ các dịch vụ tài chính cũng không
phải là nhỏ.
VD : Ngân hàng và các dịch vụ tài chính bí mật chiếm tỷ trọng lớn trong
nền kinh tế của Liechtenstein. Lĩnh vực này giải quyết việc làm cho 14,3%
lực lượng lao động và đóng góp 30% vào GDP trị giá 2,7 tỉ euro. Công quốc
này có cả thảy 15 ngân hàng và hơn 300 người được ủy thác (thường là luật
sư) điều hành hàng ngàn quỹ đầu tư.
IV. Sự đối nghịch giữa Thiên đường thuế
và Hiệp đinh tránh đánh thuế hai lần
Như đã trình bày ở phía trên, Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần được lập ra
nhằm 4 mục đích chính : tránh trùng thuế, chống trốn lậu thuế, đảm bảo sự
công bằng giữa các đối tượng nộp thuế ( trong và ngoài nước ), tạo cơ chế
giải quýêt tranh chấp giữa các nước. Hiệp định này sẽ giúp các quốc gia
tránh thất thu về thuế, đồng thời tránh việc các cá nhân lách luật để trốn
thuế.
Tuy nhiên, với sự tồn tại của thiên đường thuế, Hiệp định này gần như bị
phủ định. Do các thiên đường thuế là những quốc gia có chủ quyền độc lập.
Khi họ không tham gia các hiệp định về thuế, các nước khác trên thế giới
cũng không có quyền can thiệp và sửa đổi luật pháp về thuế ở các quốc gia
này. Các tổ chức và cá nhân trên thế giới không vi phạm luật pháp khi lợi
dụng các cách đã đề cập phía trên, vì ở thiên đường thuế điều đó là hợp
pháp.
Việc hạn chế các thiên đường thuế vẫn gặp khá nhiều khó khăn. Các tổ
chức quốc tế hoặc các nước lớn thường dùng biện pháp cấm vận, gây sức

ép,trừng phạt kinh tế với các thiên đường thuế. Tuy nhiên, những biện pháp
này vẫn gây nhiều tranh cãi do nó động chạm đến vấn đề nhạy cảm về chủ
quyền quốc gia. Mặt khác một số ý kiến lại cho rằng những ưu đãi về thuế ở
các quốc gia bị coi là thiên đường thuế có thể chỉ đơn giản là để tạo ra một
môi trường đầu tư hấp dẫn hơn.
Hiện nay, nhờ nỗ lực của các bên liên quan, một số thiên đường thuế đã ký
kết những hiệp định song phương, đồng ý trao đổi thông tin với các quốc gia
khác về các cá nhân bị nghi ngờ trốn thuế. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc
điều tra gian lận thuế. Số thiên đường thuế bị đưa vào danh sách đen của
OECD do sự bất hợp tác trong trao đổi thông tin đã giảm từ 35 xuống còn 3.
Nhưng luật pháp về thuế, các chế độ ưu đãi thuế ở các thiên đường thuế vẫn
hầu như được duy trì, do bản thân các quốc gia coi đó là 1 cách cực kỳ hiệu
quả để thu hút đầu tư.
Qua đây có thể thấy, cho dù các Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần vẫn được
ký kết giữa các quốc gia, nhưng nếu các thiên đường thuế vẫn tồn tại thì các
đối tượng nộp thuế vẫn có thể tránh né nộp thuế mà không bị coi là phạm
pháp. Việc giải quyết vấn đề này trên thế giới hiện vẫn còn là một vấn đề
cực kỳ nan giải.

×