Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Đề tài " CẠNH TRANH THUẾ TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP, TOÀN CẦU HOÁ " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.79 KB, 25 trang )

THẢO LUẬN THUẾ QUỐC TẾ
Đề tài:
CẠNH TRANH THUẾ TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP, TOÀN
CẦU HOÁ
Nhóm 5:
Tài chính công 47:
1. Lò Hải Trang
2. Đàm Hải Hà
3. Phan Thị Quỳnh Hoa
4. Trần Thị Tình
5. Lê Ngọc Tiến
Tài chính công KV:
1. Nguyễn Thị Dung
2. Lù Thị Lê
3. Nông Thị Liêm
4. Lý A Cháng
5. Nguyễn Thị Nhung
MỤC LỤC
CẠNH TRANH THUẾ
I. Cạnh tranh thuế khi hội nhập toàn cầu hóa nền kinh tế:
Hiện nay, cùng với sự tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt
là công nghệ thông tin là nguyên nhân dẫn đến sự hội nhập sâu sắc chưa từng
thấy không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội,
an ninh, quốc phòng.
Trong lĩnh vực kinh tế, khi nói đến hội nhập, toàn cầu hoá người thường nghĩ
ngay đến sự di chuyển linh hoạt theo xu hướng tự do hoá của các luồng vốn, lao
động, công nghệ, kỹ thuật và hàng hoá.
+ Theo báo cáo của IMF nguồn vốn đầu tư nước ngoài toàn thế giới đang có xu
hướng phát triển, trong đó luồng vốn đổ vào các nước đang phát triển có quy mô
ngày càng tăng. Theo nghiên cứu của IMF: chính sách thuế có tác động tới nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp:


2
. Những nước có mức thuế suất thấp hơn thu hút được nhiều FDI hơn các nước
có mức thuế cao ( VD: Hà Lan, Iraen, Luc xăm bua, …)
+ Trong lĩnh vực lao động: hiện tượng di cư vì lý do kinh tế khá phổ biến: trong
điều kiện chính phủ cũng như các rào cản đối với việc di chuyển lao động ngày
càng tăng thì việc các công dân của một nước nào đó ko bằng lòng với chính sách
thuế của nước mình có thể dễ dàng lựa chọn 1 nơi cư trú và làm việc thuận lợi
hơn là điều dễ hiểu ( VD: vào những năm 2000 người ta chỉ ra rằng mặc dù có
những rào cản về ngôn ngữ và văn hóa đối với những lao động di cư, những dòng
lao động có kỹ năng vẫn liên tục đổ về các thành phố như Luân đôn, nơi có nhiều
cơ hội việc làm và chế độ thuế thấp hơn , đb trong lĩnh vực công nghệ và tài
chính. Theo ước tính, lực lượng lao động của Luân Đôn có tới 23% là người
nước ngoài, trong đó một phần không nhỏ đến từ nước Pháp nơi có mức thuế cao
hơn)
Rõ ràng chính sách thuế của một nước tác động ko nhỏ tới việc phân bổ nguồn
lực tài chính và lực lượng lao động. Hiện tượng này đã đặt các Chính phủ các
nước trên thế giới vào một sức ép mới – đó là sức ép cạnh tranh thuế.
1, Cạnh tranh thuế:
- K/n: Là việc 1 nước ban hành chính sách thuế có lợi thế so sánh nhằm thu hút
nguồn lực, lao động và các yếu tố kinh tế khác từ bên ngoài vào nước mình, hoặc
(đồng thời) để hạn chế sự di chuyển các nguồn lực trong nước ra nước ngoài.
Cạnh tranh thuế có thể được thể hiện dưới hai hình thức cơ bản :
Một là, thiết lập các chính sách nhằm thu hút việc đặt địa điểm thực tế diễn ra các
hoạt động kinh tế của các công ty nước ngoài.
Hai là, thiết lập các chính sách nhằm thu hút địa điểm cư trú của công ty
Cả hai hình thức này đều có thể được thực hiện bằng cách ban hành mức thuế
suất thấp hơn những nước khác nhằm tạo ra những nơi ẩn thuế, hoặc áp dụng
cùng mức thuế suất với nước khác nhưng sử dụng nhiều hình thức ưu đãi như
miễn thuế, giảm thuế, hoặc các biện pháp ưu đãi khác để thu hút các nguồn đầu
tư nước ngoài. Nghiên cứu chính sách thuế của các nước có rất nhiều các hình

thức ưu đãi, miễm giảm thuế khác nhau được áp dụng. Tuy nhiên, các hình thức
này có thể được xếp vào 5 nhóm chủ yếu sau đây:
1. Áp dụng thuế suất ưu đãi thấp đối với thuế thu nhập công ty theo các điều
kiện ưu đãi đầu tư
2. Miễn thuế họăc giảm thuế trong một thời gian nhất định hoặc kết hợp cả
hai
3. Khấu trừ thuế và trợ cấp (tín dụng ) thuế đầu tư ( giảm thuế trên cơ sở vốn
đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng )
4. Khấu hao nhanh ( trì hoãn thuế )
5. Miễn hoặc giảm các thuế gián thu.
a, Cạnh tranh thuế có những mặt lợi:
Thứ nhất, việc cắt giảm thuế suất và cung cấp các biện pháp khuyến khích
thông qua ưu đãi, miễn giảm thuế là tín hiệu tốt của nước chủ nhà đối với các
luồng vôn đầu tư nước ngoài. Nếu các điều kiện khác tương đồng thì chế độ thuế
3
trở thành một nhân tố cạnh tranh tốt thu hút nhiều doanh nghiệp nước ngoài rót
vốn đầu tư. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp và các cá nhân trong nước cũng sẽ
yên tâm bỏ vốn đầu tư trong nước, nhờ đó mà hạn chế được các dòng vốn và
nhân lực có thể chảy ra nước ngoài.
Thứ hai, cạnh tranh thuế làm cho các chính phủ mất thế độc quyền và
phải quan tâm nhiều hơn đến các chính sách thông lệ quốc tế. Trên cơ sở đó thúc
ép các chính phủ phải quan tâm nhiều hơn đến việc cải cách hệ thống thuế, làm
minh bạch hóa các chính sách tài chính và làm lành mạnh nền hành chính thuế,
tiến tới thực thi một bộ máy hoạt động hiệu quả hơn. Mặt khác do nguồn thu từ
thuế bị hạn hẹp do sức ép cắt giảm thuế chính phủ buộc phải thực thi một chính
sách chi tiêu hiêu quả hơn, hạn chế thất thoát lãng phí, xã hội có thêm nguồn lực
để phát triển kinh tế.
Thứ ba, thuế suất thấp sẽ làm giảm gánh nặng phụ trội do thuế gây ra.
Thuế suất được giảm nhẹ sẽ khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân tự
nguyện chấp hành, tuân thủ các quy định của luật thuế mà không cần tìm biện

pháp trốn thuế hoặc tránh thuế. Chi phí thu hành chính nhờ đó mà có thể giảm
thiểu, đồng thời nạn tham nhũng cũng sẽ bị hạn chế. Hơn nữa, trong nhiều
trường hợp số thu của ngân sách có thể không bị giảm, mà thậm chí còn có cơ
hội tăng hơn trước do cơ sở đánh thuế được mở rộng hơn nhờ sự gia tăng của
các nguồn đầu tư và hiệu quả hành thu
b, Những thách thức đối với các chính phủ( đặc biệt là các nước
nghèo)
Thứ nhất, cạnh tranh thuế thông qua việc cắt giảm thuế và tăng cường áp
dụng các ưu đãi thuế diễn ra đồng loạt ở các nước là nguy cơ thu hẹp cơ sở đánh
thuế của mỗi nước mà do đó làm hạn hẹp nguồn thu của chính phủ. Hiệu ứng
thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hạn chế sự chảy máu vốn và chất xám ra bên
ngoài chỉ xảy ra đối với những nước có chế độ thuế ưu việt hơn so với mặt bằng
các nước khác. Tuy nhiên nếu việc cắt giảm thuế xảy ra đồng thời ở các nước thì
hiệu ứng này bị trung hòa và có thể ở trạng thái số không. Hệ quả kéo theo của
việc thu hẹp nguồn thu của chính phủ sẽ là không đủ nguồn lực để cung cấp các
dịch vụ công cần thiết cho người dân. Vai trò và sức mạnh của nhà nước có thể bị
thu hẹp và nguy cơ bất ổn trong nền kinh tế có thể dự đoán trước. Đối với các
nước nghèo nguy cơ này càng gia tăng, vay nợ sẽ ngày càng nhiều và môi trường
đầu tư ngày càng sa sút, dẫn đến sự sụt giảm về tính hấp dẫn đối với các nhà đầu
tư, trong khi tạo gánh nặng nợ cho thế hệ sau.
Thứ hai, cạnh tranh thuế là nguy cơ gia tăng bất bình đẳng trong xã
hội. Một ví dụ dễ thấy nhất là do sức ép cạnh tranh thuế các nước buộc phải cắt
giảm mức thuế biên cao nhất (đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân ) và giảm bớt độ
lũy tiến của thuế. Vì vậy khả năng phân phối lại thu nhập của hệ thống thuế bị
thu hẹp. Hơn thế nữa, gánh nặng thuế sẽ dần bị chuyển sang cho các yếu tố sản
xuất khác không hoặc ít có khả năng di chuyển, như tầng lớp lao động có trình độ
thấp, đất đai bất động sản. Gánh nặng thuế đối với thu nhập từ vốn sẽ giảm, thuế
đối với việc di chuyển vốn và thu nhập bị thu hẹp và dần được bãi bỏ. Thông
4
thường người có thu nhập cao thì thu nhập chủ yếu là thu nhập lãi vốn, người có

thu nhập thấp thì thu nhập chủ yếu là từ lao động. Vì vậy, việc chuyển gánh nặng
thuế từ vốn sang lao động, từ lao động có trình độ cao sang lao động có trình độ
thấp cũng đồng nghĩa với việc chuyển gánh nặng thuế từ người có thu nhập cao
sang người có thu nhập thấp. Nguy cơ phân hóa giàu nghèo trong xã hội sẽ ngày
càng sâu sắc và nguy cơ gia tăng bất ổn và bất công trong xã hội là có thực.
Thứ ba, nhìn từ khía cạnh kinh tế học, cạnh tranh thuế có thể làm suy
giảm hiệu quả chung của nền kinh tế thế giới. Do những ưu đãi thái quá, quyết
định đầu tư có thể bị bóp méo. Vốn và nhân lực có thể chảy nhiều vào những
nước có mức thuế thấp, nhưng có thể nơi đó không phải là có năng suất và hiệu
quả sử dụng vốn và nhân lực cao hơn. Hiệu quả phân bổ nguồn lực kinh tế tối ưu
khó mà đạt được. Tương tự như vậy, các ưu đãi, miễn giảm thuế thường gây ra
những méo mó trong quyết định đầu tư. Thêm vào đó cạnh tranh thuế dưới hình
thức cung cấp những ưu đãi, miễn giảm thuế thuế làm tăng cơ hội cho tham
nhũng, tăng gánh nặng cho cơ quan thuế. Đây là những bất lợi dễ hiển hiện nhất
ở các nước kém phát triển.
2. Xu thế cạnh tranh thuế trong một số thập kỉ gần đây
Xu thế cạnh tranh thuế đã bắt đầu xảy ra khá phổ biến từ những năm 80 của
thế kỉ XX. Khởi đầu là sự cắt giảm liên tục mức thuế suất thuế thu nhập công
ty và sau đó là thuế thu nhập cá nhân. Nếu như năm 1986, mức thuế thu nhập
công ty trung bình của 26 nước trong khối OECD là 41%, thì đến năm 2006, mức
thuế trung bình của các nước này chỉ còn ở mức 27%( bảng1). Tương tự như vậy,
năm 1985 mức thuế suất biên cao nhất trung bình thuế thu nhập cá nhân của các
nước trong khối OECD là 63% thì đến năm 2005 mức thuế suất biên cao nhất chỉ
trung bình là 35% ( bảng 2 ).
Có thể nói hầu hết các nền kinh tế chủ chốt của thế giới đang thực hiện một
cuộc chạy đua giảm thuế suất nhằm đạt lấy ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút
vốn đầu tư nước ngoài và hạn chế tình trạng chảy máu chất xám, vốn và nhân lực
ra nước ngoài. Trước đây khi thủ tục hành chính chưa được nới lỏng và môi
trường đầu tư khác biệt với những quy định có tính chất đặc biệt theo vùng miền,
thì thuế suất không phải là nhân tố chính quyết định các luồng đầu tư quốc tế.

Tuy nhiên, trong điều kiện môi trường và thông lệ đầu tư ngày càng thông
thoáng thì thuế suất lại là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư:
+ Thuế suất cao làm giảm nỗ lực của các nhà đầu tư, đồng thời kích thích các
nhà đầu tư áp dụng các thủ pháp kĩ thuật nhằm làm giảm nghĩa vụ thuế phải
nộp( như định giá chuyển giao các yếu tố đầu vào cao, doanh thu đầu ra thấp để
chuyển lợi nhuận ra nước ngoài một cách hợp pháp), bên cạnh đó khuyến khích
các nhà đầu tư thay đổi cấu trúc vốn theo hướng nâng cao tỷ trọng vốn vay để
khấu trù lãi phải trả vào chi phí nhằm làm giảm lợi nhuận chịu thuế.
+ Ngược lại thuế suất thấp hơn sẽ là nhân tố khuyến khích các nhà đầu tư tích
cực bỏ vốn đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng nhằm làm tăng cường năng lực kinh
doanh. Mức thuế suất danh nghĩa thấp là tín hiệu cho thấy chính phủ nước chủ
nhà thực sự có thiện chí trong việc khuyến khích đầu tư và không áp dụng các
5
biện pháp hành chính can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư.
Thuế suất thấp có thể làm giảm nguồn thu của chính phủ trong ngắn hạn, nhưng
về lâu dài có thể nó sẽ được bù đắp ở cơ sở tính thuế rộng hơn nhờ việc tăng
cường thu hút thêm các khoản đầu tư từ nơi khác.
Thuế suất danh nghĩa là một trong những nhân tố nhãn tiền có sức thu hút đối
với các nguồn đầu tư. Tuy nhiên, không chỉ có thế, các hình thức ưu đãi thuế là
một nhân tố khác cũng có sức hấp dẫn không kém ẩn định đằng sau mức thuế
suất danh nghĩa. Đối với nhà đầu tư, mối quan tâm cuối cùng không phải mức
thuế suất danh nghĩa mà là mức thuế suất hiệu quả, đặc biệt là mức thuế suất hiệu
quả sau khi đã khấu trừ đi các ưu đãi, miễn giảm thuế. Đôi khi có những nước
công bố mức thuế suất danh nghĩa và mức thuế suất hiệu quả khá cao, nhưng
mức thúê suất thực lại khá thấp do có nhiều chế độ ưu đãi, miễn hoặc giảm thuế
theo những tiêu chuẩn và điều kiện nhất định. Chẳng hạn mức thuế suất hiệu quả
của thuế thu nhập doanh nghiệp sau khi đã khấu đi miễn, giảm thúê của Thái Lan
chỉ còn là 7%, trong khi thuế suất hiệu quả trước miễn giảm là 46%( bảng 3).

Như vậy, cạnh tranh thuế thông qua việc cắt giảm thuế suất và tiếp tục duy trì

hay đẩy mạnh các biện pháp ưu đãi ,miễn giảm thuế là một xu hướng hiện thực
trong nhiều thập kỉ qua ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Cạnh tranh thuế có
cả những mặt hại và mặt lợi xét trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Vấn đề là
mỗi quốc gia cần có mhững đối sách thích hợp nhằm tạo lợi thế cạnh tranh, hoặc
đơn giản chỉ là để khỏi rơi vào tình trạng nguồn thu bị sói mòn từ quá trình này
phục vụ tốt nhất cho đường lối phát triển của mình.
II, Khu vực thương mại tự do Asean ( AFTA) và quá trình gia nhập AFTA
của Việt Nam:
1, AFTA - CEPT:
ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ
nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn 1981-1991
là 5,4%, gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới). Tuy vậy,
trước khi AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế của ASEAN đều không đạt
được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các kế hoạch hợp tác kinh tế như:
- Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA).
- Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP).
- Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất công
nghiệp cùng nhãn mác (BBC).
- Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)
Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong thương
mại nội bộ ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối.
a, Sự ra đời của AFTA:
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong môi
trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN
đứng trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự liên kết
chặt chẽ hơn và những nỗ lực chung của toàn Hiệp hội, những thách thức đó là :
6
- Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc
biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN
ngày càng mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng

như quốc tế.
- Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như EU,
NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá
ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này.
- Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi rộng
rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài nguyên
thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và các
nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi
hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp
tác khu vực.
Để đối phó với những thách thức trên, năm 1992, theo sáng kiến của Thái
Lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN họp tại Xingapo đã quyết định thành lập
một Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ( gọi tắt là AFTA).
Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một tầm mức mới.
Mục tiêu của AFTA:
AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
- Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế quan
trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi quan thuế. Điều này sẽ
khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả
năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua
được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong
ASEAN , dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối.
- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối thị
trường thống nhất, rộng lớn hơn.
- Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi,
đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên
thế giới.
b, Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT-AFTA):
* Các Quy định chung của Hiệp định CEPT:
Để thực hiện thành công Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN, các nước ASEAN

cũng trong năm 1992, đã ký Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(Common Effective Preferential Tariff), gọi tắt là CEPT.
CEPT là một thoả thuận chung giữa các nước thành viên ASEAN về
giảm thuế quan trong nội bộ ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ
tất cả các hạn chế về định lượng và các hàng rào phi quan thuế trong vòng
10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. ( Đây là thời hạn đã
có sự đẩy nhanh hơn so với thời hạn ký Hiệp định ban đầu : từ 15 năm xuống còn
10 năm).
7
Nói đến vấn đề xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN là nói tới việc thực
hiện Hiệp định chung về thuế quan và phải hoàn thành 3 vấn đề chủ yếu, không
tách rời dưới đây :
- Thứ nhất là vấn đề giảm thuế quan : Mục tiêu cuối cùng của AFTA là giảm thuế
quan xuống 0-5%, theo từng thời điểm đối với các nước cũ và các nước mới,
nhưng thời hạn tối đa là trong vòng 10 năm.
- Thứ hai là vấn đề loại bỏ hàng rào phi quan thuế (NTB) : hạn ngạch, cấp giấy
phép, kiểm soát hành chính và hàng rào kỹ thuật : kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ.
- Thứ ba là hài hoà các thủ tục Hải quan .
* Các Nội dung và Quy định cụ thể :
• Vấn đề về thuế quan:
Các bước thực hiện như sau :
Bước 1 :Các nước lập 4 loại Danh mục sản phẩm hàng hoá trong biểu thuế quan
của mình để xác định các sản phẩm hàng hoá thuộc đối tượng thực hiện CEPT:
- Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay ( Tiếng Anh viết tắt là IL).
- Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế ( viết tắt là TEL).
- Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm ( viết tắt là SEL)
- Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn ( viết tắt là GEL)
Trong 4 loại Danh mục nói trên thì :
- Danh mục các sản phẩm loại trừ hoàn toàn (GEL): là những sản phẩm không
phải thực hiện các nghĩa vụ theo Hiệp định CEPT, tức là không phải cắt giảm

thuế, loại bỏ hàng rào phi quan thuế. Các sản phẩm trong danh mục này phải là
những sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, cuộc sống, sức
khoẻ con người, động thực vật, đến việc bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật, di
tích lịch sử, khảo cổ ( theo điều 9B Hiệp định CEPT).
- Danh mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm và nhạy cảm cao
(SEL): là những sản phẩm được thực hiện theo một lịch trình giảm thuế và thời
hạn riêng, các nước ký một Nghị định thư xác định việc thức hiện cắt giảm thuế
cho các sản phẩm này, cụ thể thời hạn bắt đầu cắt giảm là từ 1/1/2001 kết thúc
1/1/2010, mức thuế giảm xuống 0-5%, nghĩa là kéo dài thời hạn hơn các sản
phẩm phải thực hiện nghĩa vụ theo CEPT.
- Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế ngay ( IL) và Danh mục sản phẩm tạm thời
chưa giảm thuế (TEL) : Là 2 Danh mục mà sản phẩm trong những Danh mục này
phải thực hiện các nghĩa vụ CEPT, tức là phải cắt giảm thuế và loại bỏ hàng rào
phi quan thuế. Tuy nhiên tiến độ có khác nhau. Sản phẩm hàng hoá trong 2 Danh
mục này là những sản phẩm công nghiệp chế tạo, nguyên nhiên vật liệu, sản
phẩm nông nghiệp nghĩa là tất cả những sản phẩm hàng hoá được giao dịch
thương mại bình thường trừ những sản phẩm hàng hoá được xác định trong 2
Danh mục SEL và GEL nêu trên.
Bước 2 : Xây dựng lộ trình tổng thể cắt giảm thuế 10 năm ( toàn bộ thời gian
thực hiện Hiệp định):
8
Việc thực hiện Hiệp định chính là các nước thành viên phải xây dựng lộ trình
tổng thể cho việc cắt giảm thuế đối với 2 Danh mục sản phẩm cắt giảm thuế
ngay( IL) và Danh mục tạm thời chưa giảm thuế (TEL):
Các nguyên tắc xây dựng lộ trình giảm thuế tổng thể như sau :
a) Danh mục các sản phẩm giảm thuế ngay (Inclusion List - IL):
Các sản phẩm nằm trong danh mục này được cắt giảm thuế quan ngay tại thời
điểm bắt đầu thực hiện cho đến thời hạn kết thúc, tiến trình cắt giảm như sau :
+ Các sản phẩm có thuế suất trên 20% (> 20%) sẽ được giảm xuống 20% trong
vòng 5 năm đầu và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% trong 5 năm còn lại.

Cụ thể : Các sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% vào
1/1/1998, và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003.
+ Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% (=< 20%) sẽ được giảm
xuống còn 0-5% trong vòng 7 năm đầu .
Cụ thể : Các sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% sẽ được giảm xuống
còn 0-5% vào 1/1/2000.
Các nước có quyền được quyết định mức cắt giảm nhưng tối thiểu mỗi năm 5 %,
không được duy trì cùng thuế suất trong 3 năm liền, trong trường hợp thuế MFN
thay đổi tại một thời điểm nào đó nếu cao hơn thuế suất CEPT tại thời điểm đó
thì không được nâng thuế CEPT bằng mức thuế MFN đó; trường hợp thuế MFN
thấp hơn thuế CEPT thì việc áp dụng phải tự động theo thuế suất MFN đó và
phải điều chỉnh lịch trình. Không được nâng mức thuế CEPT của năm sau lên cao
hơn năm trước.
b) Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL):
Để tạo thuận lợi cho các nước thành viên có một thời gian chuẩn bị và chuyển
hướng đối với một số sản phẩm tương đối trọng yếu, Hiệp định CEPT cho phép
các nước thành viên ASEAN được đưa ra một số sản phẩm tạm thời chưa thực
hiện tiến trình cắt giảm thuế quan ngay theo CEPT.
Tuy nhiên, Danh mục TEL này chỉ mang tính chất tạm thời, các sản phẩm trong
Danh mục loại trừ tạm thời sẽ được chuyển toàn bộ sang Danh mục cắt giảm
thuế(IL) ngay trong vòng 5 năm, kể từ năm thứ 4 thực hiện Hiệp định tức là từ
1/1/1996 đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong Danh mục TEL
vào Danh mục IL.
Lịch trình cắt giảm thuế của các sản phẩm chuyển từ Danh mục TEL sang Danh
mục IL này như sau:
- Đối với những sản phẩm có thuế suất trên 20%, phải giảm dần thuế suất xuống
bằng 20% vào thời điểm năm 1998, trường hợp các sản phẩm được chuyển vào
đúng hoặc sau thời điểm năm 1998 thì thuế suất lập tức phải bằng hoặc thấp hơn
20% , và tiếp tục giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003 như lịch trình đối với sản
phẩm trong Danh mục IL.

- Đối với những sản phẩm có thuế suất bằng hoặc thấp hơn 20% (=< 20%) sẽ
được giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2003
Các quy định khác cũng tương tự như đối với Danh mục IL nói trên.
9
Ngoài các quy định được nêu trên trong quá trình xây dựng và thực hiện, không
được có sự thụt lùi về tiến độ, cũng như không được phép chuyển các mặt hàng
từ Danh mục cắt giảm (IL) sang bất kỳ Danh mục nào, không được chuyển các
mặt hàng từ Danh mục TEL sang Danh mục nhạy cảm (SEL) hay Danh mục Loại
trừ hoàn toàn (GE) mà chỉ có sự chuyển từ Danh mục TEL sang Danh mục IL
nói trên, hoặc chuyển từ Danh mục SEL, GE sang Danh mục TEL hoặc IL. Nếu
vi phạm thì nước thành viên phải đàm phán lại với các nước khác và phải có nhân
nhượng bồi thường.
Bước 3 : Ban hành văn bản pháp lý xác định hiệu lực thực hiện việc cắt giảm
thuế hàng năm :
Trên cơ sở Lịch trình cắt giảm tổng thể thuế nêu trên, hàng năm các nước thành
viên phải ban hành văn bản pháp lý để công bố hiệu lực thi hành thuế suất CEPT
của năm đó. Văn bản này phải được gửi cho Ban Thư ký ASEAN để thông báo
cho các nước thành viên.
• Vấn đề loại bỏ các hạn chế định lượng (QRs) và các rào cản phi thuế
quan khác (NTBs)
Để thiết lập được khu vực mậu dịch tự do, việc cắt giảm thuế quan cần phải được
tiến hành đồng thời với việc loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Các hàng rào phi
thuế quan bao gồm các hạn chế về số lượng (như hạn ngạch, giấy phép, ) và các
hàng rào phi thuế quan khác (như các khoản phụ thu, các quy định về tiêu chuẩn
chất lượng, ) Các hạn chế về số lượng có thể được xác định một cách dễ dàng và
do đó, được quy định loại bỏ ngay đối với các mặt hàng trong Chương trình
CEPT được hưởng nhượng bộ từ các nước thành viên khác.
Tuy nhiên, đối với các rào cản phi thuế quan khác, việc xác định và loại bỏ phức
tạp hơn rất nhiều. Hiệp định CEPT quy định về vấn đề này như sau:
- Các nước thành viên sẽ xoá bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với các sản

phẩm trong CEPT trên cơ sở hưởng ưu đãi áp dụng cho sản phẩm đó; cụ thể:
những mặt hàng đã được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ phải bỏ các
hạn chế về số lượng.
- Các hàng rào phi quan thuế khác sẽ được xoá bỏ dần dần trong vòng 5 năm sau
khi sản phẩm được hưởng ưu đãi;
- Các hạn chế ngoại hối mà các nước đang áp dụng sẽ được ưu tiên đặc biệt đối
với các sản phẩm thuộc CEPT;
- Tiến tới thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, công khai chính sách và thừa
nhận các chứng nhận chất lượng của nhau;
- Trong trường hợp khẩn cấp (số lượng hàng nhập khẩu gia tăng đột ngột gây
phương hại đến sản xuất trong nước hoặc đe doạ cán cân thanh toán), các nước
có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để hạn chế hoặc dừng việc nhập khẩu.
• Vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan:
Thống nhất biểu thuế quan:
10
Để tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu ASEAN tiến
hành việc buôn bán trong nội bộ Khu vực được dễ dàng và thuận lợi, cũng như
các cơ quan Hải quan ASEAN dễ dàng trong việc xác định mức thuế cho các
mặt hàng một cách thống nhất, ngoài ra phục vụ cho các mục đích thống kê, phân
tích, đánh giá việc thực hiện CEPT- AFTA, cũng như tình hình xuất nhập khẩu
nội khối, các nước đã quyết định sẽ thống nhất một biểu thuế quan trong khối
ASEAN ở mức 8 chữ số theo Hệ thống điều hoà của Hội đồng hợp tác hải quan
thế giới(HS). Hiện nay biểu thuế quan chung của ASEAN đã được xây dựng và
hoàn thành trong năm 2000 và được áp dụng từ năm 2000, những nước nào chậm
nhất cũng phải áp dụng từ năm 2002.
Thống nhất hệ thống tính giá hải quan: Vào năm 2000, các nước thành viên
ASEAN đã thực hiện phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT- GTV
(GATT Transactions Value), thực hiện điều khoản VII của Hiệp định chung về
thương mại và thuế quan 1994 ( Hiện nay là Tổ chức thương mại thế giới WTO)
để tính giá hải quan.

Một cách tóm tắt là giá trị hàng hoá để tính thuế xuất nhập khẩu là giá trị giao
dịch thực tế giữa người xuất khẩu và ngưòi nhập khẩu, không phải là do nhà
nước áp đặt.
Xây dựng Hệ thống Luồng xanh hải quan: Hệ thống này được thực hiện từ
1/1/1996 nhằm đơn giản hoá hệ thống thủ tục hải quan dành cho các hàng hoá
thuộc diện được hưởng ưu đãi theo Chương trình CEPT của ASEAN.
Thống nhất thủ tục hải quan: Hai vấn đề đã được các nước thành viên ưu tiên
trong việc thống nhất thủ tục hải quan là :
+ Mẫu tờ khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT: Các nước
ASEAN đã gộp ba loại tờ khai hải quan: Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) Mẫu D,
Tờ khai hải quan xuất khẩu và Tờ khai hải quan nhập khẩu lại thành một mẫu tờ
khai hải quan chung cho hàng hoá thuộc diện CEPT.
+ Thủ tục xuất nhập khẩu chung: bao gồm những vấn đề sau:
· Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá xuất khẩu;
· Các thủ tục trước khi nộp tờ khai hàng hoá nhập khẩu;
· Các vấn đề về giám định hàng hoá;
· Các vấn đề về gửi hàng trong đó giấy chứng nhận xuất xứ được cấp sau và có
hiệu lực hồi tố;
· Các vấn đề liên quan đến hoàn trả
2, Qúa trình tham gia khu vực Mậu dịch Tự do Asean (AFTA) và lịch trình
giảm thuế của Việt Nam theo CEPT/AFTA
Tháng 7/1995 Việt Nam chính thức trở thành hội viên của Asean và tham gia
ngay vào chương trình thực hiện AFTA
a. Những yêu cầu của CEPT -AFTA đối với Việt Nam:
Căn cứ theo quy định của Hiệp định CEPT và thoả thuận giữa Việt nam và các
nước thành viên khác của ASEAN, chương trình giảm thuế nhập khẩu theo CEPT
của Việt Nam bắt đầu được thực hiện từ 1/1/1996 và hoàn thành vào 1/1/2006 để
11
đạt được mức thuế suất cuối cùng là 0-5%, chậm hơn các nước thành viên khác 3
năm.

Các bước cụ thể để thực hiện mục tiêu này bao gồm:
• Xác định danh mục các mặt hàng thực hiện giảm thuế theo CEPT gồm: danh
mục giảm thuế ngay (IL), danh mục loại trừ tạm thời (TEL), danh mục hàng
nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL), danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL).
• Các mặt hàng thuộc danh mục IL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/1996 và kết thúc
với thuế suất 0-5% vào 1/1/2006. Các mặt hàng có thuế suất trên 20% phải giảm
xuống 20% vào 1/1/2001. Các mặt hàng có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ
giảm xuống 0-5% vào 1/1/2003.
• Các mặt hàng thuộc danh mục TEL sẽ được chuyển sang danh mục IL trong
vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003, mỗi năm chuyển 20%, để thực hiện giảm
thuế với thuế suất cuối cùng là 0-5% vào năm 2006. Đồng thời, các bước giảm
sau khi đưa vào IL phải được thực hiện chậm nhất là 2-3 năm một lần và mỗi lần
giảm không ít hơn 5%.
• Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ bắt đầu giảm thuế từ 1/1/2004 và kết thúc
vào 1/1/2013 với thuế suất cuối cùng là 0-5%. Riêng mặt hàng đường vào năm
2010 :0-5%.
• Các mặt hàng đã đưa vào chương trình giảm thuế và được hưởng nhượng bộ thì
phải bỏ ngay các quy định về hạn chế số lượng (QRs) và bỏ dần các biện pháp
hạn chế phi quan thuế khác (NTBs) 5 năm sau đó.
b. Tiến trình thực hiện CEPT của Việt Nam:
* Nguyên tắc xây dựng phương án tham gia của Việt nam :
- Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách
- Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước
- Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho
nền sản xuất trong nước
- Hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở các qui định của Hiệp định CEPT để
tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.
* Lộ trình cắt giảm thuế :
- Năm 1996 Việt nam đã công bố cho ASEAN các loại Danh mục: Danh
mục cắt giảm thuế IL; Danh mục loại trừ tạm thời TEL; Danh mục hàng nông sản

chưa chế biến nhậy cảm SL và Danh mục loại trừ hoàn toàn GEL;
Cụ thể:
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL):
Danh mục này được xây dựng phù hợp với Điều 9 của Hiệp định CEPT và bao
gồm những nhóm mặt hàng có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, cuộc sống và sức
khoẻ của con người, động thực vật, đến các giá trị lịch sử, nghệ thuật, khảo cổ
như các loại động vật sống, thuốc phiện, thuốc nổ, vũ khí,
Danh mục này chiếm 6,6% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu, và
là các mặt hàng cụ thể như sau:
• Thuốc phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện, xì gà, thuốc lá và rượu bia thành
phẩm;
12
• Các loại xỉ và tro;
• Các loại xăng dầu (trừ dầu thô);
• Các loại thuốc nổ, thuốc phóng, các loại pháo;
• Các loại lốp bơm hơi cũ;
• Các loại thiết bị điện thoại, điện báo hữu tuyến, vô tuyến, các loại thiết bị ra đa,
các loại máy thu sóng dùng cho điện thoại, điện báo ;
• Các loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi, các loại ô tô và phương tiện tự hành có tay lái
nghịch;
• Các loại vũ khí, khí tài quân sự;
• Các loại văn hoá phẩm đồi truỵ, phản động, đồ chơi cho trẻ em có ảnh hưởng
xấu đến giáo dục và trật tự an toàn xã hội;
• Các loại hoá chất, dược phẩm độc hại, các chất phế thải, đồ tiêu dùng đã qua sử
dụng;
Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL):
Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm của Việt nam bao gồm
26 nhóm mặt hàng, chiếm 0,8% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu
và là những mặt hàng cụ thể như: thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc, gạo
lứt, , được xây dựng căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản xuất trong nước đối

với một số mặt hàng nông sản chưa chế biến và theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn đồng thời trên cơ sở tham khảo Danh mục này của các
nước ASEAN khác. Các mặt hàng này đang được áp dụng các biện pháp phi thuế
quan như quản lý theo hạn ngạch hàng tiêu dùng, quản lý của Bộ chuyên ngành.
Danh mục cắt giảm thuế ngay (IL):
Danh mục này chủ yếu bao gồm những mặt hàng trong Biểu thuế hiện đang có
thuế suất dưới 20% - là những mặt hàng thuộc diện có thể áp dụng ưu đãi theo
CEPT ngay và một số mặt hàng tuy có thuế suất cao nhưng Việt nam lại đang có
thế mạnh về xuất khẩu. Tổng số nhóm mặt hàng trong Danh mục cắt giảm thuế
quan là 1661, chiếm 51,6% tổng nhóm mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu của
Việt Nam. Tỷ lệ này thấp hơn so với các nước thành viên ASEAN khác khi họ
bắt đầu thực hiện chương trình CEPT, nhưng đây là biện pháp an toàn nhất đối
với Việt Nam.
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL):
Danh mục này chiếm khoảng 40,9% tổng số các dòng thuế trong Biểu thuế
nhập khẩu và chủ yếu là những mặt hàng sau:
• Các loại ô tô (trừ các loại ô tô dưới 16 chỗ ngồi);
• Xe đạp, các loại đồ chơi trẻ em;
• Các loại máy gia dụng (như máy giặt, máy điều hoà, quạt điện, );
• Các loại mỹ phẩm và đồ dùng không thiết yếu;
• Các loại vải sợi và một số đồ may mặc;
• Các loại sắt, thép;
• Các sản phẩm cơ khí thông dụng;
Đây chủ yếu là các mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng tuy có
thuế suất thấp hơn 20% nhưng trước mắt cần thiết phải bảo hộ bằng thuế nhập
13
khẩu, hoặc các mặt hàng đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như các
biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu, hàng phải có giấy phép của Bộ quản lý
chuyên ngành, hàng phải qua kiểm tra nhà nước về chất lượng, hàng phải qua
kiểm tra về vệ sinh dịch tễ và hàng phải qua kiểm tra về an toàn lao động.

Ngoài ra theo quy định của CEPT, những mặt hàng nào của nước thành viên
ASEAN công bố cắt giảm thuế quan và hưởng thuế suất ưu đãi từ các nước thành
viên khác thì đồng thời cũng phải loại bỏ ngay các hạn chế về định lượng và
trong thời hạn 5 năm sau đó, thực hiện loại bỏ các biện pháp hạn chế nhập khẩu
thông qua các hàng rào phi thuế quan khác. Việc Việt nam chưa đưa các mặt
hàng này vào Danh mục cắt giảm thuế quan sẽ cho phép chúng ta có thêm 5 năm
(kể từ năm mặt hàng được chuyển sang Danh mục cắt giảm cho tới khi phải loại
bỏ các biện pháp hạn chế phi thuế quan) để hỗ trợ các ngành sản xuất và các
doanh nghiệp trong nước làm quen dần với môi trường cạnh tranh. Đây là
khoảng thời gian cần thiết để hỗ trợ cho các ngành sản xuất trong nước và tạo
điều kiện để các doanh nghiệp trong nước làm quen dần với môi trường cạnh
tranh, thúc đẩy đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động để nền kinh tế phát
triển có hiệu quả hơn.
- Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện
AFTA vào năm 2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng
(chiếm khoảng 86% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được vào
chương trình cắt giảm. Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có
lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 2002-2006. Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-
5%.
- Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp dụng
chính thức tại Việt Nam từ ngày 1/1/2003. Tuy nhiên, ngày 10/1/2003, Bộ Tài
chính đã thông báo việc cắt giảm đó sẽ được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào ngày
1/7.Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được chuyển sang IL, 755 mặt
hàng cắt giảm ngay trong năm 2003. Việc thực hiện cắt giảm thuế CEPT/AFTA
của VN được thể hiện trong Lộ trình cắt giảm thuế CEPT/AFTA năm 2003-2006,
bắt đầu từ ngày 1/7/2003. Với Lộ trình này, 73,6% số dòng thuế sẽ có mức thuế
suất 0-5% vào năm 2003, 84,3% số dòng thuế có thuế suất 0-5% vào năm 2005,
100% số dòng thuế có thuế suất 0-5% và 53,6% số dòng thuế có thuế suất 0%
vào năm 2006.
- Hiện nay, Việt Nam đã thực hiện xong các cam kết của AFTA.

3. Những thách thức và những cơ hội của Việt Nam tham gia vào AFTA:
3.1.Thuận lợi :
* Tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước trong
khu vực và trên thế giới:
Asean với thị trường gồm 11 nước thành viên có hơn 550 triệu dân đây là thị
lớn trên thế giới. Khi Việt Nam tham gia vào Chương trình cắt giảm thuế CEPT,
thì các doanh nghiệp Việt Nam khi XK sang các nước Asean cũng được hưởng
thuận lợi vì hàng rào bảo hộ mậu dịch ở các nước cũng cắt giảm tương ứng, giúp
hàng hoá của VN rẻ hơn, sức cạnh tranh tăng lên. Ngoài ra, là thành viên của
14
AFTA, VN có thêm điều kiện để tăng cường buôn bán với các nước trên thế giới.
Tóm lại, thị trường Xk mở rộng kích thích các nhà doanh nghiệp VN tăng cường
đầu tư phục vụ cho sản xuất hàng XK.
* Đẩy mạnh quá trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới:
Sau bao nhiêu năm VN thực hiện chính sách hướng nội “ đóng cửa kinh tế”
đeo đuổi nền kinh tế phi thị trường , quản lý nền kinh tế dựa trên nền tảng: kế
hoạch hoá, tập trung, bao cấp. Việc gia nhập Asean, tham gia xây dựng AFTA
giúp VN tăng tốc độ chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường, thực hiện chính
sách: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về XK”. Thật vậy, mới gia nhập
Asean trên 13 năm mà nền kinh tế VN có sự chuyển hướng mạnh sang nền kinh
tế thị trường, biểu hiện: xây dựng hệ thống pháp lý tương đối hoàn chỉnh và đồng
bộ: Luật đầu tư, Luật thương mại, Luật bảo hiểm…tạo hành lang pháp lý cho
kinh tế thị trường phát triển. Cơ chế quản lý kinh tế có sự hoàn thiện đổi mới phù
hợp với các chuẩn mực khu vực và quốc têa: quy chế về hải quan, biểu thuế
XNK, thuế VAT, cơ chế quản lý đầu tư nước ngoài, về chế độ hạch toán kế toán.
Bộ máy quản lý nhà nước đựoc hoàn thiện theo hướng gọn nhẹ, năng động, cải
cách hành chính đã tạo thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế
Khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm phán thương mại song
phương và đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như các tổ chức thương mại
quốc tế lớn như Mỹ, Nhật, EU…

* Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có nhiều lĩnh
vực mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN như VN có thế mạnh
trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta cũng có nhu cầu nhập
nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN với giá thấp hơn từ các khu vực khác trên
thế giới.
* Kích thích mạnh mẽ Việt Nam thay đổi cơ cấu kinh tế: Đẩy mạnh công cuộc
công nghiệp hoá phục vụ cho XK:
Quy chế của CEPT trước hết cắt giảm thuế mạnh ở các mặt hàng công nghiệp
chế biến. Trong khi đó, tổng kim ngạch XK của VN trong năm 1996(năm VN bắt
đầu thực hiện CEPT) tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến mới đạt 18%, nông sản,
thuỷ sản ít qua chế biến 48%, nhiên liệu 34%. Nếu tiếp tục duy trì cơ cấu XK như
hiẹn nay, VN sẽ hưởng lợi rất ít khi XK sang các nước thành viên Asean. Cho
nên, tham gia thực hiện Chương trình CEPT tạo điều kiện kích thích VN thay đổi
cơ cấu nền kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến hàng
XK.
* Góp phần tăng khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp:
Tham gia vào AFTA, với thời gian những hàng rào mậu dịch được rỡ bỏ dần
dần, nền kinh tế sẽ phải đối đầu với cạnh tranh. Hơn nữa sự cạnh tranh này là sự
cạnh tranh khốc liệt, vì đa số các nước Asean có lợi thế so sánh tương tự như
VN, cho nên cơ cấu sản phẩm XK của họ gần tương tự như VN. Cho nên muốn
trụ được và thắng thế trong cạnh tranh trong môi trường kinh doanh chung AFTA
buộc các doanh nghiệp VN phải hoàn thiện sản phẩm, đầu tư đổi mới trang thiết
bị và công nghệ để tạo sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, để các sản
15
phẩm VN chẳng những chiếm lĩnh được thị trường nội địa mà còn XK thuận lợi
sang thị trường các nước Asean và các nước khác trên thế giới.
* Người tiêu dùng được hưởng lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng hoá
phong phú hơn.
* Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử dụng vốn và kỹ
thuật cao trong khu vực:

Theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia kinh tế có uy tín, dưới tác động của
AFTA trong thời gian tới sẽ có sự chuyển dịch vốn đầu tư vào các ngành sử dụng
nhiều công nhân như ngành dệt, may mặc, sản xuất giày dép, chế biến gỗ, lắp ráp
hàng điện - điện tử từ những nước nguồn nhân lực còn thiếu va đắt trong khối
như Malaysia, Thái Lan, Philippiné…sang VN
3.2. Khó khăn :
- Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất nhập khẩu
giảm.
- Đa số các doanh nghiệp VN vừa và nhỏ, sức cạnh tranh yếu. Việc tham gia dẫn
tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế, nghĩa là xoá bỏ sự bảo hộ
của chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tham gia
thật sự vào cuộc chơi cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu vực : cạnh tranh
thúc đẩy sản cuất phát triển, nhưng đồng thời có thể làm điêu đứng và phá sản
hàng loạt các doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Dẫn tới việc thay đổi cơ
cấu kinh tế. Đây là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
- Nền kinh tế trong nước dễ bị tác động xấu bởi sự biến động không thuận lợi của
các nứoc trong khu vực( khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước Asean 1997
– 1998 đã tác động rất mạnh mẽ đến sản xuất và XK của VN).
- Các nước Asean có những lợi thế tương đồng giống VN do vậy việc hợp tác
thông qua sự phân công lao động trở nên khó khăn phức tạp và mang tính cạnh
tranh gay gắt hơn. Vì thế trong cạnh tranh của VN thấp hơn so với nhiều nước
Asean khác vì vốn và công nghệ cao hơn ta, thêm vào đó các nước lại mở cửa
kinh tế trước VN cho nên kinh nghiệm đối phó với cạnh tranh và thâm nhập thị
trường quốc tế nhiều hơn so với các doanh nghiệp VN.
- Cơ cấu hàng XK VN hiện nay chủ yếu là nông sản chưa qua chế biến. Đây là
những mặt hàng giảm thuế chậm, trong khi đó những mặt hàng công nghiệp, xuất
nguyên liệu là những mặt hàng giảm thuế nhanh lại là sản phẩm XK của các
nước AFTA khác và là sản phẩm NK của VN.
- Cạnh tranh gay gắt trong thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện
hiện nay, khi mà nhiều nước trong khu vực đã vực dậy sau cơn khủng hoảng.

Tóm lại gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho nền kinh tế và các doanh
nghiệp VN để chuẩn bị cho sự gia nhập thị trường thế giới rộng lớn và đầy sự
cạnh tranh hơn.
4. Giải pháp:
Sự hội nhập buộc Chính phủ VN phải làm nhiều nỗ lực trong việc cải
cách chính sách, đặc biệt là chính sách thuế. Bởi lẽ, chính sách này liên quan đến
nhiều mặt kinh tế xã hội, không những đến sự củng cố nguồn lực tài chính công,
16
kích thích tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh
và hội nhập của nền kinh tế.
a. Những khó khăn và thử thách:
Theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế, việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống
chính sách thuế phải nhằm thiết lập một hệ thống thuế công bằng và hiệu quả, có
khả năng tài trợ nhu cầu chi cần thiết của tiêu công. Đặc biệt trong bối cảnh nền
kinh tế hội nhập vào kinh tế thế giới, thì chính sách thuế đóng vai trò nhạy cảm
đặc biệt. Như vậy, hệ thống thuế cần:
(1) gia tăng đầy đủ nguồn thu để tài trợ nhu cầu chi tiêu cần thiết mà không phải
viện đến sự vay mượn quá mức của khu vực công;
(2) gia tăng nguồn thu trong cách thức đảm bảo công bằng và giảm thiểu những
ảnh hưởng tiêu cực đến các hoạt động kinh tế;
(3) gia tăng nguồn thu trong cách thức không làm chệnh hướng đáng kể những
thông lệ và tiêu chuẩn quốc tế.
Với một nền đang chuyển đổi như VN, việc thiết lập một hệ thống thuế có hiệu
quả và hiệu lực gặp phải không ít những khó khăn nhất định:
- Một là, cơ cấu kinh tế không đồng bộ làm cho việc thu thuế và đánh thuế có
những khó khăn nhất định. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng
lớn trong GDP; đối với khu vực tư nhân mặc dù sự đóng vào GDP ngày càng
tăng, song phần lớn là những cơ sở kinh doanh nhỏ và ẩn nấp nhiều hoạt động
phi chính thức, không ổn định; tỷ lệ tiền lương còn chiếm trong tổng thu nhập
quốc gia nhỏ. Tất cả những đặc điểm này làm giảm đi khả năng xây dựng một hệ

thống thuế dựa vào những loại thuế hiện đại như thuế thu nhập và ở chừng mực
nhất định là thuế VAT.
- Hai là, hạn chế về khả năng quản lý thuế. Một phần là do cơ cấu kinh tế, một
phần là do nguồn lực cán bộ quản lý thuế yếu kém, tiền lương thấp đã tạo ra rất
nhiều khó khăn để tiến đến thiết lập một hệ thống quản lý thuế tốt.
- Ba là, hệ thống thông tin yếu kém, nghèo nàn về cơ sở dữ liệu làm hạn chế hiệu
quả công tác quản lý thuế. Sự trỗi dậy của khu vực tư nhân trong phát triển kinh
tế là đáng ghi nhận, nhưng do quy mô hoạt động của khu vực này còn nhỏ và
phân tán cho nên những yêu cầu về báo cáo thống kê không được thiết lập một
cách có hệ thống. Hơn nữa do những hạn chế về tài chính, các cơ quan thuế và
thống kê có gặp phải nhiều khó khăn trong việc tổng hợp và đưa ra những số liệu
thống kê một cách chi tiết và đáng tin cậy. Thiếu số liệu tin cậy và cung cấp
không kịp thời làm cho những người ra quyết định chính sách gặp phải nhiều khó
khăn trong việc đánh giá sự ảnh hưởng tiềm năng của những thay đổi cơ bản đến
hệ thống thuế hiện hành .
Những thử thách của việc cải cách chính sách thuế:
- Thử thách về nguồn thu: Sự hội nhập vào kinh tế thế giới yêu cầu phải gia tăng
nguồn thu thuế để Nhà nước đảm nhận vai trò như chính phủ của các nền công
nghiệp phát triển. Nhưng làm thế nào gia tăng được nguồn thu, đặc biệt là gia
tăng nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân và không làm giảm đi những động lực
kinh tế trong khi nền kinh tế sẽ phải giảm đi nhiều sự dựa vào nguồn thu thuế từ
17
các hoạt động thương mại quốc tế. Để vượt qua những thử thách này, đòi hỏi
những người ra quyết định chính sách phải đưa ra các ưu tiên chính sách đúng
đắn và phải có cam kết chính trị để thực hiện cải cách cần thiết.
- Thử thách về quản lý thuế: Với sự hội nhập vào kinh tế toàn cầu, hàng rào
thương mại bị tháo dỡ và sự di chuyển vốn quốc tế gia tăng trong khi năng lực
quản lý thuế còn hạn chế và nguồn thu của nền kinh tế chủ yếu phụ thuộc nhiều
vào thuế thương mại quốc tế. Sự thay thế thuế thương mại quốc tế bằng hệ thống
thuế nội địa và đi kèm theo đó là những chuyển hướng lợi nhuận thông qua các

hoạt động chuyển giá của các nhà đầu tư nước ngoài đó là những thử thách rất
lớn trong quá cải cách thuế của VN. Hiện tại những điều khoản chống lạm dụng
thuế trong các đạo luật thuế cũng như sự đào tạo kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ
kiểm toán thuế ở VN nói chung là chưa đủ để ngăn chặn và phát hiện những thực
tế như vậy.
- Về hiệu quả kinh tế và cạnh tranh thuế: Sự cạnh tranh thuế trong quá trình thu
hút vốn là một thử thách không nhỏ trong bối cảnh vốn tự do chu chuyển. Nhận
thức được sức ép này VN cũng sẽ tăng cường mở rộng phạm vi khuyến khích
thuế để cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính điều này sẽ làm cho
chính sách thuế trở nên phức tạp, không trung lập do có nhiều trường hợp miễn
giảm. Một hệ thống thuế với nhiều điều khoản khuyến khích sẽ tạo ra nhiều kẽ
hở và đó là mảnh đất màu mỡ cho những hoạt động trốn thuế. Hơn nữa, những
khuyến khích của thuế mà thiếu đi những nền tảng hỗ trợ cần thiết khác thì hiệu
lực của nó không cao. Điều quan trọng ở đây, cần phải giới hạn mục tiêu của thuế
và giới hạn sự khuyến khích của thuế, đồng thời phải kết hợp với nhiều công cụ
kinh tế để cạnh tranh và thu hút vốn .
b. Định hướng cải cách chính sách thuế của VN trong thời gian tới
* Mục tiêu:
Là một công cụ của chính sách quản lý kinh tế, chính sách thuế phải hướng
vào thực hiện các mục tiêu tổng thể của chính sách kinh tế mà Đại hội Đảng lần
thứ IX của VN đề ra: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại .
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực
kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao”.
Tuy nhiên, với tư cách là một công cụ trọng tâm của chính sách tài chính quốc
gia, liên quan đến việc huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính của xã hội,
nên vấn đề xuyên suốt của chính sách thuế là phải thực hiện các mục tiêu có tính

đặc thù, đó là:
° Giữ kỷ luật tài chính tổng thể để lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, ổn định
kinh tế vĩ mô. Nguồn thu từ thuế phải có khả năng tài trợ các nhu cầu chi tiêu cần
thiết ngày càng tăng của Chính phủ mà không phải viện đến sự vay mượn quá
mức của khu vực công. Theo tính toán của Bộ tài chính được xác định trong
18
chiến lược phát triển tài chính đến năm 2010, thì tỷ lệ thu NSNN phải ở mức
bình quân năm vào khoảng 20-21% GDP, trong đó thuế, phí và lệ phí đạt 18-19%
GDP. Trên cơ sở đó, đảm bảo quy mô chi ngân sách nhà nước vào khoảng 24-
25% GDP, khống chế bội chi ngân sách nhà nước 4-5%GDP; bù đắp bội chi ngân
sách bằng nguồn vốn trong nước khoảng 3-5% GDP và vay nước ngoài 1-1,5%
GDP.
° Nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư của nền kinh tế trong bối
cảnh hội nhập và cam kết quốc tế nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng bền
vững và thực hiện thành công chiến lược giảm nghèo.
° Thuế phải là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước có hiệu quả và hiệu
lực. Thuế đi vào trong đời sống kinh tế - xã hội trên cơ sở thực thi một chính sách
thuế minh bạch, công bằng, có tính luật pháp cao.
* Các quan điểm cải cách chính sách thuế:
- Cải cách chính sách thuế cần quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về
đổi mới chính sách thuế “…Tiếp tục cải cách hệ thống thuế phù hợp với tình
hình đất nước và cam kết quốc tế. Bổ sung, hoàn thiện, đơn giản hóa các sắc
thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, doanh nghiệp VN và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài. Ap dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi
cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát
triển. Hiện đại hóa công tác thu thuế và tăng cường quản lý của Nhà nước.” (Văn
kiện Đại hội Đảng lần IX – Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010).
- Chính sách động viên của thuế cần tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể.
Nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn, do vậy mức huy động của thuế

cũng phải có sự giới hạn. Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu
chi tiêu của ngân sách rất lớn và áp lực cân đối ngân sách là không nhỏ, nhưng
không phải thế là tận thu để bao chi. Làm như vậy sẽ phá vỡ tính kỷ luật tài chính
tổng thể, gây kìm hãm, không kích thích đầu tư, tiết kiệm của khu vực doanh
nghiệp và dân cư. Thuế không vì mục tiêu cân đối ngân sách trước mắt, mà quan
trọng phải hướng vào mục tiêu cao hơn và xa hơn đó là thúc đẩy đầu tư, vực dậy
nền kinh tế, thoát khỏi tình trạng yếu kém và đuổi kịp các nước trong khu vực.
Dự báo giai đoạn 2001 -2010 tỷ suất thu thuế chỉ vào khoảng 17 -18% GDP
(giai đoạn 1991-2000: 16,2% GDP). Trong giai đoạn này do phải cắt giảm thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo cam kết của các hiệp định thương mại cho phù
hợp với xu hướng hội nhập vào khu vực và thế giới; đồng thời thực hiện chính
sách khuyến khích thu hút vốn đầu tư, nên phải có sự điều chỉnh, cắt giảm thuế
thu vào nội địa. Với mức thu thuế thấp trong giai đoạn tạo đà cho công nghiệp
hóa, nhưng lại kích thích sự phát triển của khu vực doanh nghiệp và dân cư, góp
phần thúc đẩy nền kinh tế cất cánh, làm tăng thêm nguồn thu thuế cho ngân sách
trong giai đoạn tiếp theo.
- Chính sách phải hình thành một cơ cấu thuế hợp lý nhằm tăng cường nguồn
thu và vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước. Cải cách thuế cần tập trung vào việc
thu hẹp những bóp méo của thuế, đi đôi với việc mở rộng cơ sở thuế và hạ thấp
19
thuế suất. Đồng thời, chính sách thuế phải bao quát hết tất cả nguồn thu, cần đưa
vào áp dụng các loại thuế mới để quản lý nguồn thu và năng cao vai trò điều tiết:
như thuế tài sản, thuế môi trường.
Cơ cấu của hệ thống thuế phải có những thay đổi thích hợp cho phù với sự phát
triển kinh tế. Trong xu hướng hội nhập, thuế đánh vào thương mại quốc quốc tế
sẽ giảm dần, thay vào đó chính sách thuế cần nỗ lực gia tăng thuế thu nhập cá
nhân để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Đồng thời thuế GTGT
cần được tăng cường và kết hợp với thuế TTĐB để điều tiết sản xuất - tiêu dùng
và đảm trách tốt vai trò bảo hộ sản xuất trong nước.
- Chính sách thuế phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường

đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa trong điều kiện VN
hội nhập vào khu vực và thế giới. Thực hiện cải cách thuế, từng bước áp dụng hệ
thống thuế thống nhất, minh bạch, trung lập, không phân biệt các thành phần kinh
tế; đồng thời tháo dỡ dần chính sách bảo hộ bằng việc xóa bỏ hàng rào phi thuế
quan, cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ là những bước đi quan trọng nhằm gây sức ép,
buộc các doanh nghiệp VN tăng cường đổi mới công nghệ, nâng cao khả năng
cạnh tranh. Hiện nay các doanh nghiệp VN đang phải đối mặt với sự cạnh tranh
ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước lẫn quốc tế. Nhu cầu tích tụ vốn để
phát triển và đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp là rất lớn và cấp bách. Vì
vậy, chính sách thuế cần được điều chỉnh cho hợp lý hơn nhằm khuyến khích các
doanh nghiệp tăng cường tích tụ vốn và đầu tư thay đổi công nghệ, hiện đại hóa
sản xuất, hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường
tiêu thụ, bồi dưỡng nguồn thu, tăng thu nội địa cho NSNN .
- Hệ thống thuế phải đơn giản, ổn định, mang tính luật pháp cao và có sự
tương đồng với khu vực và thông lệ quốc tế. Thuế phải được phân nhiệm rõ
ràng theo hướng chuyên môn hóa chức năng và thống nhất hóa mục tiêu nhằm
khắc phục tình trạng đa mục tiêu trong một sắc thuế. Theo đó, cần đi sâu hoàn
thiện các kỹ thuật thu thuế một cách thích hợp và đồng bộ nhằm đảm bảo hiệu
quả tối ưu của mỗi loại thuế cũng như cả hệ thống thuế. Các quy định của luật
thuế cần đơn giản, rõ ràng phù hợp với trình độ của bộ máy quản lý thuế cũng
như người nộp thuế, đảm bảo tính dễ hiểu, dễ chấp hành và dễ kiểm tra. Đồng
thời, trong bối cảnh hội nhập, hệ thống thuế VN phải có sự tương đồng với quốc
tế về một số loại thuế có liên quan đến thương mại và đầu tư quốc tế.
- Không ngừng hoàn thiện cơ chế hành thu, tạo ra sự chuyển biến về chất trong
chính sách thuế và tương đồng với khu vực về trình độ quản lý. Từng bước hiện
đại hóa công nghệ quản lý thuế, qua đó xác lập hệ thống dữ liệu về thuế liên tục,
chính xác, kịp thời. Tiêu chuẩn hóa cán bộ thuế gắn liền với chế thưởng phạt
nghiêm minh. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế cho phù với yêu cầu đổi mới chính
sách thuế, trong đó xác lập cơ chế phối hợp đồng bộ giữa cơ quan thuế và các cơ
quan công quyền để nâng cao hiệu quả công tác hành thu. Tăng cường sự giáo

dục tuyên truyền; nâng cao ý thức của công chúng về ý thức chấp hành chính
sách thuế; từng bước đưa thuế trở thành chuẩn mực đạo đức trong cuộc sống xã
hội. Trên cơ sở đó, tiến tới thay đổi cơ chế hành thu thuế theo hướng nâng cao
20
tính tự chịu trách nhiệm của người nộp thuế trong việc kê khai và nộp thuế cho
Nhà nước, đi đôi là kiên quyết thực hiện các biện pháp xử lý về vi phạm nộp thuế
để giảm bớt những xói mòn của thuế. Cơ quan hành thu có đầy đủ quyền lực để
tăng cường thực thi luật thuế.
Bảng 1 : Mức thuế thu nhập công ty cao nhất ở các nước OECD
Năm
Nước 1986 1991 1996 2001 2006
Thay
đổi từ
1986-
2006
Australia 49 39 36 30 30 -19
Austria 30 30 34 34 25 -5
Belgium 45 39 40 40 34 -11
Canada 36 29 29 28 22 -14
Denmark 50 38 34 30 28 -22
Finland 33 23 25 29 26 -7
France 45 42 33 36 34 -11
Germany 56 50 45 38 38 -18
Greece 49 46 40 37 29 -20
Iceland 51 45 33 30 18 -33
Ireland 50 43 40 20 12 -38
21
Italy 36 36 36 36 33 -3
Japan 43 38 38 27 27 -16
Korea 30 34 32 28 25 -5

Luxembourg 40 33 33 28 22 -18
Mexico 34 34 34 35 29 -5
Netherlands 42 35 35 35 29 -13
New
zealand
45 33 33 33 33 -12
Norway 28 27 19 28 28 0
Portugal 47 36 36 32 25 -22
Spain 35 35 35 35 35 0
Sweden 52 30 28 28 28 -24
Switzerland 10 10 10 8 8 -2
Turkey 46 49 25 33 30 -16
United
kingdom
35 34 33 30 30 -5
United
states
46 34 35 32 32 -14
Trung bình 41 35 33 31 27 -14
Nguồn: OECD database 2006
Bảng 2: Mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân ở các nước OECD
Năm
Nước 1985 1990 1995 2000 2005
Thay đổi
từ 1985-
2005
Australia 60 49 47 47 47 -13
Austria 62 50 50 50 50 -12
Belgium 76 55 58 58 50 -26
Canada 5-0 44 44 29 29 -21

Denmark 73 68 64 28 26 -47
Finland 64 63 55 37 33 -31
France 65 53 51 53 48 -17
Germany 65 65 66 51 42 -23
Greece 63 50 45 45 40 -23
Iceland 56 40 47 33 26 -30
Ireland 65 58 48 44 42 -23
Italy 81 66 67 45 43 -38
22
Japan 70 65 65 37 37 -40
Korea 65 60 48 40 35 -30
Luxembourg 57 56 50 46 38 -19
Mexico 55 40 35 40 30 -25
Nertherland 72 72 60 60 52 -20
New
zealand
66 33 33 39 39 -27
Norway 64 54 42 29 27 -37
Portugal 69 40 40 40 40 -29
Spain 66 56 56 39 29 -37
Sweden 80 72 58 25 25 -55
Switzerland 33 33 35 12 12 -21
Turkey 63 50 55 40 35 -28
United
kingdom
60 40 40 40 40 -20
United
states
50 33 42 39 35 -15
Trung bình 63 53 50 40 35 -28

Nguồn: chris Edwards, 2002 và OECD database 2006
Bảng 3: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp trước và sau ưu đãi
Philippine Malaysia Thailand
Thuế suất hiểu quả trước ưu đãi 47 30 46
Giảm thuế suất hiệu quả do:
- miễn thuế kỳ hạn 19 0 28
- nhượng bộ thuế gián thu 7 8 11
Thuế suất hiệu quả sau ưu đãi 21 22 7

Nguồn: world development report 2005
23
THẢO LUẬN THUẾ QUỐC TẾ
Đề tài:
CẠNH TRANH THUẾ TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP, TOÀN
CẦU HOÁ
Nhóm 5:
24
Tài chính công 47:
6. Lò Hải Trang
7. Đàm Hải Hà
8. Phan Thị Quỳnh Hoa
9. Trần Thị Tình
10.Lê Ngọc Tiến
Tài chính công KV:
6. Nguyễn Thị Dung
7. Lù Thị Lê
8. Nông Thị Liêm
9. Lý A Cháng
10.Nguyễn Thị Nhung
25

×