Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Những diễn biến của hiện tượng chuyển giá ở Việt Nam trong thời kì hội nhập.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1014.79 KB, 63 trang )

1


TÓM TẮT ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề
Năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở ra nhiều
cơ hội phát triển cho nền kinh tế Việt Nam. Việc thu hút nguồn vốn FDI của Việt
Nam đã có nhiều bước tiến đáng kể , mà theo các chuyên gia nhận định đây là những
trứng vàng của nền kinh tế.
Từ 2006 đến thàng 8 năm 2008, nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam không
ngừng tăng lên và liên tiếp lập những mốc kỷ lục mới về tổng mức vốn đầu tư . Năm
2009, trong giai đoạn kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng nặng nề, nguồn
vốn FDI vẫn duy trì ở mức cao tuy thấp hơn so với đỉnh vào năm 2008, và dự báo
trong năm 2010 sẽ tiếp tục tăng trở lại.Nguồn vốn FDI đổ vào nước ta không chỉ là
tăng về số lượng các dự án mà tăng về cả qui mô và chất lượng của các dự án. Cũng
như ngày càng có nhiều quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới tìm hiểu cơ hội đầu tư
vào thị trường Việt Nam. Việc tiếp nhận vốn FDI sõ tạo ra cơ hội tiếp cận với trình độ
khoa học kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý kinh tế tầm cao của thế giới và giải quyết
công ăn việc làm cho lao động trong nước. FDI trở thành một trong những nguồn
cung cấp vốn quan trọng cho nên kinh tế, là động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát
triển, tạo nên tính năng động và cạnh tranh cho thị trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực của vốn FDI, thì nguồn vốn này
vẫn tiềm ẩn những rui ro nếu chúng ta không có các biện pháp quản lý hợp lý và đồng
bộ. Đặt biệt trong những năm gần đây tình hình các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ kéo
dài nhiều năm làm cho chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế ảnh hưởng trực tiếp đến
ngân sách, bên cạnh đó tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp
trong nước, tác động không tốt đến cơ chế quản lý tài chính của chính phủ trong lĩnh
vực FDI, và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cũng như tác động xấu
đến mục tiêu thu hút và quản lý vĩ mô vốn FDI của chính phủ. Vấn đề dược đặt ra là
đã có hình vi “chuyển giá “tại các doanh nghiệp FDI hiện nay. Đứng trước tình hình
này Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 66/2010/TT-BTC vào ngày 22 tháng 4 năm


2

2010 hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh
giữa các bên có quan hệ liên kết. Thông tư này thay thế Thông tư 117/2005/TT-BTC
ngày 19 tháng 12 năm 2005. Tình hình chuyển giá đã và đang là một thực trạng đáng
báo động ở Việt Nam hiện nay, trong khi các quốc gia phát triển đã có nhiều kinh
nghiệm trong việc chống chuyển giá ở các công ty đa quốc gia, thì Việt Nam vẫn còn
thiếu kinh nghiệm trong vấn đề này. Chính vì lý do này tôi quyết định chọn đề tài
“Những diễn biến của hiện tượng chuyển giá ở Việt Nam trong thời kì hội nhập” làm
đề tài nghiên cứu.

2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng
chuyển giá ở Việt Nam trong thơi gian qua, khi nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam
ngày càng tăng, và hoạt động của các công ty đa quốc gia ngày càng sôi động. Từ đó,
đề ra một số biện pháp chống chuyển nhằm giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt
hơn các doanh nghiệp FDI trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp FDI đang hoạt động
trên địa bàn TP HCM nói riêng và cả nước nói chung và hiện tượng chuyển giá của
các doanh nghiệp này tại Việt Nam trong những năm gần đây.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng trong đề tài là và phương pháp thống kê, liệt kê, phân
tích các nguồn số liệu từ đó đưa ra nhận xét để làm rõ vấn đề. Bên cạnh đó dê tài còn
sử dụng phương pháp phương so sánh trong quá trình phân tích.
4. Cấu trúc dự kiến
Chương 1: Công ty đa quốc gia và hoạt động chuyển giá
Chương 2: Thực trạng chuyển giá quốc tế ở Việt Nam trong thởi kì hội nhập kinh tế
thế giới
Chương 3: Những giải pháp chống chuyển giá ở Việt Nam
5. Đóng góp của đề tài

Đóng góp một số giải pháp chống chuyển giá cho các cơ quan quản lý của
nhà nước quản lý tốt hơn đối với các doanh nghiệp FDI, góp phần làm tăng nguồn thu
3

ngân sách Nhà nước từ việc thu thuế TNDN đối với các công ty này.Mặt khác, giúp
các doanh nghiệp Việt Nam, đặt biệt các doanh nghiệp có tham gia trong liên doanh
có cái nhìn rõ hơn về chuyển giá quốc tế cũng như những biện pháp tự bảo vệ mình
trong khi hợp tác với các đối tác nước ngoài.


























4

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CÔNG TY ĐA QUỐC GIA VÀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN
GIÁ.

1.1 Công ty đa quốc gia
1.1.1 Khái niệm.
Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational corporation) hoặc
MNE (Multinational enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung
cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả
ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các
mối quan hệ quốc tế và các nền kinh tế của các quốc gia. Các công ty đa quốc gia
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa. Một số người cho rằng một
dạng mới của MNC đang hình thành tương ứng với toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp
liên hợp toàn cầu.
Công ty đa quốc gia là Công ty hoạt động và có trụ sở ở nhiều nước khác nhau.
(khác với Công ty quốc tế: chỉ là tên gọi chung chung của 1 công ty nước ngoài tại 1
quốc gia nào đó.)
1.1.2 Đặc điểm hoạt động các công ty đa quốc gia
Quyền sở hữu tập trung: các chi nhánh, công ty con, đại lý trên khắp thế giới
đều thuộc quyền sở hữu tập trung của công ty mẹ, mặc dù chúng có những hoạt động
cụ thể hằng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau.
Thường xuyên theo đuổi những chiến lược quản trị, điều hành và kinh doanh
có tính toàn cầu. Tuy các công ty đa quốc gia có thể có nhiều chiến lược và kỹ thuật
hoạt động đặc trưng để phù hợp với từng địa phương nơi nó có chi nhánh.

5

Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào ba nhóm lớn theo cấu trúc các phương tiện
sản xuất:
 Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc
tương tự ở các quốc gia khác nhau (ví dụ: McDonalds).
 Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” có các cơ sở sản xuất ở một số nước nào
đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số nước khác
(ví dụ: Adidas).
 Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” có các cơ sở sản xuất ở các nước khác nhau
mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc (ví dụ: Microsoft).
Một số khác cho rằng đặc điểm cơ bản của các công ty đa quốc gia là bộ phận
không trực tiếp làm việc với khách hàng, tiếng Anh: back-office, (ví dụ cung cấp
nguyên liệu, tài chính và nguồn nhân lực) ở mỗi quốc gia mà nó hoạt động. Các công
ty đa quốc gia đã tạo ra một phiên bản nhỏ của chính nó ở mỗi công ty. Xí nghiệp liên
hợp toàn cầu mà một số người cho rằng sẽ là giai đoạn tiếp theo trong tiến trình phát
triển của công ty đa quốc gia thì không có đặc điểm này.
1.1.3 Mục đích phát triển thành công ty đa quốc gia
Thứ nhất: đó là nhu cầu quốc tế hóa ngành sản xuất và thị trường nhằm tránh
những hạn chế thương mại, quota, thuế nhập khẩu ở các nước mua hàng, sử dụng
được nguồn nguyên liệu thô, nhân công rẻ, khai thác các tìêm năng tại chỗ.
Thứ hai , đó là nhu cầu sử dụng sức cạnh tranh và những lợi thế so sánh của
nước sở tại, thực hiện việc chuyển giao các ngành công nghệ bậc cao.
Thứ ba, tìm kiếm lợi nhuận cao hơn và phân tán rủi ro. Cũng như tránh những
bất ổn do ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh doanh khi sản xuất ở một quốc gia đơn nhất.
Ngoài ra, bảo vệ tính độc quyền đối với công nghệ hay bí quyết sản xuất ở một
ngành không muốn chuyển giao cũng là lý do phải mở rộng địa phương để sản xuất.
Bên cạnh đó, tối ưu hóa chi phí và mở rộng thị trường cũng là mục đích của MNC.
6


Hoạt động MNC, vì được thực hiện trong một môi trường quốc tế, nên những
vấn đề như thị trường đầu vào, đầu ra, vận chuyển và phân phối, điều động vốn, thanh
toán… có những rủi ro nhất định. Rủi ro thường gặp của các MNC rơi vào 2 nhóm
sau:
_Rủi ro trong mua và bán hàng hóa như: thuế quan, vận chuyển, bảo hiểm, chu
kỳ cung cầu, chính sách vĩ mô khác…
_Rủi ro trong chuyển dịch tài chính như: rủi ro khi chính sách của chính quyền
địa phương thay đổi, các rủi ro về tỷ giá, lạm phát, chính sách quản lý ngoại hối, thuế
,khủng hoảng nợ…
1.1.4 Tác hại của chuyển giá.
_Tác hại của thủ thuật chuyển giá không chỉ là ngân sách nhà nước bị mất đi
một khoản thuế lớn, mà hàng năm chúng ta còn phải cân đối một lượng ngoại tệ
không nhỏ cho việc nhập về những nguyên liệu, máy móc cao hơn giá trị thực của nó.
_ Ngoài ra, nguy hiểm hơn là còn tạo ra một môi trường kinh doanh, cạnh
tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước.
_ Khi tình trạng thua lỗ ảo kéo dài, trong liên doanh bị kiệt sức, phải rút vốn,
nhường sân cho đối tác. Thực tế cho thấy không ít DN “con” tại VN đã bị DN “mẹ” ở
nước ngoài thôn tính theo kiểu này.
1.2 Các nghiệp vụ mua bán nội bộ và hoạt động chuyển giá ở
các công ty đa quốc gia.
1.2.1 Các nghiệp vụ mua bán nội bộ.
Các MNC do hoạt động trên nhiều quốc gia khác nhau và ở mỗi quốc gia
thường có chi nhánh hay công ty con vì vậy mà hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty phải phù hợp với phong tục tập quán và luật pháp kinh doanh tại quốc gia đó.
Các đặc điểm kinh doanh trên dẫn đến các giao dịch nội bộ của các MNC diễn ra rất
7

đa dạng, phức tạp, khối lượng giao dịch ngày càng lớn. Vì vậy mà các cơ quan thuế
riêng lẻ của từng quốc gia sẽ rất khó khăn trong việc quản lý và kiểm soát.
Với tính chất đặc biệt quan trọng và tính bảo mật cao của các nghiệp vụ này,

các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ sẽ được bảo mật và chỉ có các nhà quản trị cấp cao
trong MNC mới tiếp cận được. Các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ này sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến chiến lược phát triển của các MNC. Trong thực tế các nghiệp vụ chuyển
giao nội bộ được thực hiện theo chỉ thị của các nhà quản trị cấp cao với giá trị rất lớn
nhưng giá trị này đã không được ghi nhận hoặc chỉ thể hiện một số rất nhỏ. Các
chứng từ, chứng cứ kèm theo không thể hiện chính xác giá trị và bản chất của nghiệp
vụ vì vậy đã gây khó khăn cho các cơ quan thuế trong việc đưa ra bằng chứng chứng
minh các MNC đã thực hiện hành vi chuyển giá.
Dựa vào tính chất và đặc điểm của các nghiệp vụ mua bán nội bộ phổ biến
trên thị trường, ta phân chia các nghiệp vụ mua bán nội bộ thành các nhóm như sau :
_ Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan nguyên vật liệu có tính đặc thù cao,
hay các nguyên vật liệu mà một công ty con đặt tại một quốc gia có các lợi thế riêng
làm cho giá của nguyên vật liệu ấy thấp.
_Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan đến các thành phẩm, các công ty con
tại các quốc gia khác nhau có thể mua thành phẩm được sản xuất tại một quốc gia
(Sourcing country) và sau đó bán lại mà không cần phải đầu tư máy móc hay nhân
công cho sản xuất.
_Các giao dịch liên quan việc dịch chuyển một lượng lớn máy móc, thiết bị
cho sản xuất mà đặc biệt hơn là điểm đến của các giao dịch này là các quốc gia đang
phát triển.
_Các giao dịch liên quan đến các tài sản vô hình như nhượng quyền, bản
quyền, thương hiệu, nhãn hàng, các chi phí liên quan đến nghiên cứu và phát triển
sản phẩm.
8

_Có sự cung cấp các dịch vụ quản lý, dịch vụ tài chính hay chi phí cho các
chuyên gia vào làm việc tại các nước nhận chuyển giao.
_Có sự tài trợ và nhận tài trợ về các nguồn lực như tài lực và nhân lực.
_Có các khoản đi vay và cho vay nội bộ các công ty con của MNC hay giữa
công ty mẹ và các công ty con.

Các chuyển giao nội bộ này diễn ra thường xuyên với giá trị lớn, vì vậy để hạn
chế các tác động tiêu cực của các nghiệp vụ này cần có một nguyên tắc áp dụng
chung và thống nhất trên các quốc gia.Nguyên tắc này được lập ra nhằm đảm bảo tính
công bằng trong thương mại, là cơ sở cho các nghiệp vụ mua bán, trao đổi hàng hóa
và cung cấp dịch vụ giữa các quốc gia.
1.2.2 Chuyển giá:
Chuyển giá (transfer pricing) là việc định giá quá cao hoặc quá thấp trong hoạt
động thương mại giữa nội bộ công ty của các công ty đa quốc gia nhằm chuyển thu
nhập và lợi nhuận từ nước có thuế cao sang nước có thuế thấp.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi mang tính chủ quan, áp đặt giá cả mua bán
lên các giao dịch nội bộ, không căn cứ trên giá cả thị trường, quy luật cung cầu giữa
công ty mẹ và công ty con hay giữa các công ty con với nhau nhằm mục đích cuối
cùng là tối thiểu số thuế phải nộp.
1.2.3 Phương thức trốn thuế qua chuyển giá:
Thực ra, trốn thuế qua chuyển giá có thể được thực hiện một cách bài bản ngay
từ giai đoạn đầu tư thông qua việc tính giá trị công nghệ, thương hiệu... (vốn vô hình)
cao. Phần vốn góp cao lên cùng tỉ lệ góp vốn cao, làm cho Tỷ lệ lợi nhuận được chia
cao hơn nhiều so với vốn thực. Chưa hết, bằng cách tăng chi phí khấu hao (nghĩa là
lợi nhuận giảm). Tức là: Thu nhập chịu thuế giảm = Việc giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp.

9

Ví dụ:
Khi doanh nghiệp nâng giá trị lên 1.000 USD với thời gian khấu hao 10 năm
thì mỗi năm sẽ đưa vào chi phí 100 USD và như thế có nghĩa là thu nhập chịu thuế
giảm 100 USD; và với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25% như hiện
nay, Nhà nước sẽ thấp thu 25 USD. Đến giai đoạn hoạt động, việc nâng giá vật tư,
phụ tùng đầu vào cũng kéo theo ngân sách bị thấp thu rất nhiều loại thuế.
Chẳng hạn, khi doanh nghiệp nâng giá lên 100.000 USD thì công ty mẹ không

phải nộp một đồng thuế GTGT nào (vì là hàng xuất khẩu), đồng thời được khấu trừ
thuế đầu vào. Còn công ty con, phải nộp thuế với hàng nhập khẩu nhưng bù lại, được
khấu trừ khi bán sản phẩm. Thế là đương nhiên cả "mẹ" và "con" đều không mất một
đồng thuế nào trong khi được hưởng trọn khoản tiền do nâng giá mà có.
Với thuế nhập khẩu:
 Hàng nằm trong diện miễn giảm: số tiền được miễn giảm = số thấp thu của
Nhà nước.
 Nhưng ngay cả khi không nằm trong diện miễn giảm: số tiền nộp thuế cũng đã
được đưa vào chi phí và làm giảm thu nhập chịu thuế = một lượng tương
đương.
Thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách.
Giả sử:
 Với trị giá hàng hóa được nâng lên là 100.000 USD và thuế suất thuế nhập
khẩu là 30%
 Thuế nhập khẩu phải nộp là 30.000 USD (nghĩa là thu nhập chịu thuế giảm
30.000 USD).
 Thuế thu nhập doanh nghiệp bị mất là: 30.000 x 25% = 7.500 USD
Thuế suất ở trong nước = nước ngoài:
10

Công ty mẹ ở nước ngoài tăng thu nhập chịu thuế lên 100.000 USD sẽ phải nộp thuế
là 25.000 USD, phần còn lại được coi như thu nhập là 72.000 USD. Công ty con giảm
thu nhập chịu thuế 100.000 USD sẽ giảm thuế thu nhập 25.000 USD.
Đây chính là khoản mà Nhà nước ta bị thất thu.
Thuế suất nước ngoài < Việt Nam:
 Thuế thu nhập DN ở Đài Loan là 20%
 Thuế thu nhập DN ở Việt Nam là 28% (trước đây)
Chi nhánh ở Đài Loan sẽ có thể tăng giá chuyển giao hàng hoá và dịch vụ cho chi
nhánh ở Việt Nam.
Nếu khoản nâng giá là 100.000 USD lợi nhuận báo cáo ở Đài Loan sẽ tăng 100.000

USD & thuế nộp cho nước này tăng thêm 20.000 USD. Đồng thời lợi nhuận ở Việt
Nam giảm đi 100.000 USD.
Tức số thuế phải đóng ở đây giảm đi 28.000 USD. Như vậy thông qua chuyển giá
quốc tế công ty này đã "tiết kiệm" được 8.000 USD.
 Hơn 60% hoạt động thương mại toàn cầu là giao dịch có khả năng chuyển giá.
Chống chuyển giá hiệu quả sẽ ngăn chặn được thất thoát thuế thu nhập và làm
Giảm giá thành sản phẩm, mang lợi ích cho người tiêu dùng + tăng thu nhập cho
ngân sách.
Rõ ràng trốn thuế qua “chuyển giá” là cách rất tốt để các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài có thể thu lợi nhuận tối đa. Và đây chính là một hình thức gian lận
thương mại.


11

CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG CHUYỂN GIÁ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
KÌ HỘI NHẬP

2.1. Những hành vi chuyển giá thường thấy ở các doanh nghiệp có
nguồn vốn FDI ở Việt Nam
2.1.1. Nâng giá trị vốn góp
Các MNC có máy móc thiết bị công nghệ hiện đại nên tậng dụng những lợi thế
của mình các MNC sẽ tiến hành góp vốn bằng máy móc thiết bị và công nghệ hiện
đại. Do phía Việt Nam chưa có đủ năng lực và trình độ để thẩm định giá các loại thiết
bị công nghệ hiện đại này nên thường sẽ bị các đối tác nước ngoài định giá các thiết
bị, công nghệ cao hơn giá trị thực tế của chúng. Việc định giá cao sẽ làm nâng giá trị
vốn góp trong liên doanh của bên đối tác và chiếm lấy quyền quản trị công ty. Về
phía đối tác Việt Nam đa phần chỉ góp vốn bằng giá trị sử dụng đất nên giá trị vốn
góp trong liên oanh thường rất thấp. Việc định giá cao thiết bị máy móc đầu tư ban
đầu đã giúp cho các MNC chuyển một lượng tiền đi ngược trở ra cho công ty mẹ

ngay từ lúc đầu tư ban đầu.

Ví dụ : Một khách sạn liên doanh giữa Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn và Vina
Group đã xác định giá trị đưa vào góp vốn của Vina Group là 4.340.000 USD. Nhưng
theo sự thẩm định giá của công ty giám định giá Quốc Tế thì giá trị tài sản góp vốn
của Vina Group chỉ có giá trị là 2.990.000 USD. Như vậy trong nghiệp vụ định giá
giá trị góp vốn liên doanh này phía Việt Nam đã bị thiệt 1.350.000 USD tương đương
45.2%.

Tình trạng nâng giá tài sản góp vốn trên mang lại sự thiệt hại cho cả 3 đối tượng là
phía liên doanh góp vốn Việt Nam, chính phủ Việt Nam và cả người tiêu dùng Việt
Nam. Bên liên doanh Việt Nam bị thiệt trong phần vốn góp, làm cho tỷ lệ góp vốn
nhỏ lại; Chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế; còn người tiêu dùng Việt Nam phải tiêu
dùng sản phẩm với giá cả đắt hơn giá trị thực tế của sản phẩm.
Do nâng giá trị tài sản góp vốn nên tỷ lệ vốn cao hơn phía Việt Nam, vì vậy
bên đối tác nước ngoài thường sẽ nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp.
12

Đối tác nước ngoài sẽ điều hành công ty theo mục đích của họ để cho tình hình thua
lỗ kéo dài và bên liên doanh Việt Nam không đủ tiềm lực tài chính để tiếp tục hoạt
động đành phải bán lại phần vốn góp và hàng loạt các công ty liên doanh trở thành
công ty 100% vốn nước ngoài.

2.1.2 Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ
Đây là hành vi chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ và thu phí
tiền bản quyền, đây là một loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản
cố định vô hình. Một ví dụ điển hình cho việc chuyển giá thông qua chuyển giao công
nghệ đó là tại Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam. Công ty Liên doanh Nhà
máy Bia Việt Nam là một liên doanh hoạt động theo Luật Đầu tư Nước ngoài được
Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cấp phép số

287/GP ngày 09 tháng 12 năm 1991. Hai đối tác liên doanh là Công ty Thực phẩm II
tại thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Heneiken International Behler (Hà Lan). Đến
năm 1994 thì giấy phép liên doanh này được chuyển nhượng sang giấy phép số
287/GPDCI ngày 27/10/1994 liên doanh với Asia Pacific Breweries PTE.LTD
(Singapore). Tổng số vốn đầu tư là 49,5 triệu USD và vốn pháp định là 17 triệu USD.
Bên liên doanh Việt Nam chiếm 40% và bên liên doanh Singapore chiếm 60% vốn,
ngành nghề sản xuất của liên doanh là sản xuất bia để tiêu thụ trong nước và xuất
khẩu. Khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tình trạng kinh doanh của công ty
bị thua lỗ kéo dài qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do phải trả cho chi phí bản
quyền quá cao và tăng dần qua các năm.
Trong tình hình công ty liên doanh thường xuyên thua lỗ, phía liên doanh Việt
Nam chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng ngược lại phía liên doanh nước ngoài vẫn không
hề hấn gì vì họ vẫn nhận đủ tiền bản quyền từ nhãn hiệu và tiền bản quyền lại có xu
hướng ngày càng tăng ngày càng tăng.



13

2.1.3 Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường
Các công ty đa quốc gia khi vào thị trường một quốc qia nào đó, mục tiêu ưu
tiên của họ là giành láy thị phần của các công ty nội địa đang hoạt động trong lãnh
vực mà họ kinh doanh. Với mục tiê u này Các MNC thường sẽ liên doanh với một
công ty nội địa hơn là vào đầu tư thẳng là công ty 100% vốn nước ngoài. Nguyên
nhân là các MNC này muốn sử dụng hệ thống phân phối và thị phần có sẵn của các
công ty nội địa. Sau một thời gian liên doanh thì các MNC này sẽ dùng các thủ thuật
khác nhau, trong đó có thủ thuật chuyển giá để đẩy công ty nội địa ra và chuyển công
ty liên doanh thành công ty 100% vốn nước ngoài.
Với những thủ thuật này, một mặt các MNC sẽ chiếm lĩnh được thị trường của
các công ty nội địa ở quốc gia đó, đồng thời việc đẩy đối tác ra khỏi liên doanh, các

MNC sẽ giành được toàn bộ phần lợi nhuận thu dược tử hoạt động kinh doanh ở quốc
gia đó mà vẫn không tốn nhiều chi phí và thời gian cho việc tiềm hiểu thị trường và
quản bá hình ảnh.
Năm 2009, có hơn 6.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
vốn thực hiện là 33 tỉ USD, DN nước ngoài chiếm 13,8% tổng sản phẩm xã hội đóng
góp vào xuất khẩu: trừ dầu thô là 33%, cộng cả dầu thô lên đến 53%. Riêng xuất khẩu
các sản phẩm chế tác chất lượng cao DN đầu tư nước ngoài chiếm tới trên 80%. Có
thể thấy doanh nghiệp nước ngoài ngày càng thâm nhập sâu rộng tại thị trường Việt
Nam, chứng tỏ các doanh nghiệp FDI rất thành công trong việc tiếp cận thị trường
Việt Nam cũng như phát triển qui mô sản xuất.

2.1.4 Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất
Khi thuế suất thuế TNDN ở hai quốc có mức chênh lệch đáng kể các MNC sẽ
dùng hình thức chuyển giá đề làm giảm đáng kể số thuế mà mình phải nộp.Các MNC
sẽ chuyển lợi nhuận của mình ở quốc gia có mức thuế suất thấp, đồng thời dùng các
biện pháp để làm tăng chi phí từ đó làm cho hoạt động kinh doanh luôn ở mức lỗ ở
những quốc gia có mức thuế suất cao.
Ví du của công ty Foster: Vào thời điểm mà giá bán một két bia Foster’s được
công ty bia Foster’s Việt Nam bán cho các đại lý là 240.000 đồng/két với thuế suất
14

thuế tiêu thụ đặc biệt cho bia chai là 75% thì mỗi két bia phải đóng thuế tiêu thu đặc
biệt là:
Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt = Giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt/(1+thuế suất)
=240.000/(1+75%) = 137.143 VND
Thuế tiêu thụ đặc biệt tính =137.143 x 75% = 102.857 VND

Như vậy với giá bán một két bia là 240.000 VND thì công ty bia Foster’s Việt
Nam phải có nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt cho nhà nước là 102.857 VND. Với
một số thuế nộp lớn như vậy thì chủ đầu tư của Foster’s Việt Nam đã tìm cách để lách

thuế và nộp số thuế nhỏ hơn. Chủ đầu tư Foster’s tại Việt Nam đã quyết định thành
lập thêm một công ty TNHH Foster’s Việt Nam. Công ty này có nhiệm vụ chuyên
thực hiện nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm do hai nhà máy bia Foster’s sản xuất ra. Giá
bán một két bia Foster’s của hai nhà máy bia cho công ty TNHH Foster’s Việt Nam
chỉ là 137.500 VND. Với giá bán như vậy thì thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp cho mỗi
két bia sẽ là:
137.500
Thuế tiêu thụ đặc biệt = x 75 % = 58.929 VND
1+ 75%
Công ty TNHH Foster’s Việt Nam bán bia ra thị trường thì công ty này phải nộp thêm
thuế giá trị gia tăng là 5%. Giả sử giá bán một két bia không đổi vẫn là 240.000
VND/két thì số thuế giá trị gia tăng mà công ty TNHH bia Foster’s phải nộp là
240.000
Thuế tiêu thụ đặc biệt = x 5 % = 11.429 VND
1+ 5%
Như vậy tổng cộng số thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng mà chủ đầu
tư phải nộp trong trường hợp chủ đầu tư thành lập thêm công ty TNHH Foster’s Việt
Nam cho mỗi két bia là 58.929 VND + 11.429 VND = 70.358 VND. Nếu chúng ta
đem so sánh tổng số tiền thuế phải nộp của chủ đầu tư trước và sau khi thành lập công
ty TNHH Foster’s Việt Nam thì chúng ta có thể thấy là chủ đầu tư đã tiết kiệm được
một khoản tiền thuế phải nộp là 32.499 VND (tương đương 31,60%). Với cách thực
hiện này thì thuế TNDN mà chủ đầu tư phải nộp có thể là không thay đổi hoặc thay
15

đổi theo hướng có lợi cho chủ đầu tư vì chủ đầu tư có thể đưa thêm các chi phí quản
lý doanh nghiệp, chi phí khấu hao hay chi phí quảng cáo nhằm giảm số thuế TNDN
phải nộp.
Với trường hợp trên thì các chuyên gia tài chính nhận định mặc dù cơ quan
nhà nước có thể nhận diện ra đây là một hành vi chuyển giá nhưng do pháp luật Việt
Nam tại thời điểm đó còn nhiều điểm chưa chặt chẽ hoặc không có điều luật chế tài

đối với hành vi trên vì vậy mà cơ quan nhà nước không thể bắt bẻ về thủ thuật tách
rời khâu sản xuất và khâu thương mại của công ty bia Foster nhằm mục đích lách thuế
và giảm số thuế phải nộp.
2.2. Tình trạng chuyển giá ở Tp HCM trong những năm gần đây:
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành
phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng
sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài. Thành phố
cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án
FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007. Riêng trong năm 2007, thành phố thu
hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD.
Trong năm qua tổng thu ngân sách trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh đã
đạt hơn 128.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 1/3 tổng thu ngân sách của cả nước. Nguồn
vốn FDI khổng lồ đổ vào TP trong các năm qua là động lực mạnh mẽ thúc đầy kinh tế
Tp phát triển,tuy nhiên nó vẫn tiềm ần nhiều thách thức trong đó nổi trội lên là tình
trạng chuyển giá đang khá phổ biến ở các doanh nghiệp FDI.
Báo cáo của Cục Thuế TP Hồ Chí Minh về kết quả kinh doanh năm 2009 của
doanh nghiệp FDI trên địa bàn cho thấy, gần 60% số doanh nghiệp báo cáo thua lỗ.
Không nhiều người ngạc nhiên về điều này. Bởi ngay trong năm 2007- được coi là
đỉnh cao của kinh tế Việt Nam- vẫn có gần 70% doanh nghiệp FDI kêu lỗ. Năm sau
đó, 2008, tỷ lệ này cũng chiếm tới hơn 61%, báo cáo quyết toán năm 2008 của 1.154
doanh nghiệp FDI hoạt động trên địa bàn, thì đã có tới 708 đơn vị khai lỗ, chiếm tỷ lệ
tới 61,35%. Và năm 2009 gần 60% số doanh nghiệp FDI trên địa bàn TP HCM báo
16

cáo thua lỗ.. Điều này lý giải vì sao tỷ lệ đóng góp cho ngân sách quốc gia của khối
FDI (không kể dầu thô) khá thấp, dao động 9-10% tổng thu ngân sách của quốc gia
trong giai đoạn 2005- 2008. Riêng năm 2009, phần đóng góp của doanh nghiệp FDI
giảm 11,2% so với kế hoạch.
Những doanh nghiệp FDI kê khai lỗ cũng thường đến từ các quốc gia mà ở đó
mức thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp thấp hơn nhiều lần so với mức phải đóng ở

Việt Nam. Thuế suất thuế TNDN ở Việt Nam từ năm 2003 trở về trước là 32%, cuối
năm 2003 là 28%,từ năm 2008 đến nay là 25%, trong khi ở một số quốc gia và vùng
lãnh thổ khác chỉ khoảng mức 10% hoặc thậm chí bằng 0%.
Bảng thuế suất thuế TNDN các quốc gia và vùng lãnh thổ năm 2009:
Quốc gia( vùng lãnh thổ) Thuế suất thuế TNDN
Achentina 35%
Úc 30%
Bungari 10%
Hồng Kông 16,5%
Canada 19,5%
Chi Lê 17%
Trung Quốc 25%
Pháp 33,33%
Đức 29,3%
Hungari 16%
Indonexia 25%
Ailen 12,5%
Nhật 40,69%
Malaixia 25%
Ba Lan 19%
Singapo 17%
Thổ Nhỉ Kì 20%
17

Rumani 16%
Việt Nam 25%
Để thấy rõ hơn tình hình lỗ tại các doanh nghiêp FDI ta xem bảng số liệu khảo sát các
doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố HCM qua các năm.
Năm Số doanh nghiệp
đươc khảo sát

Số doanh nghiệp kê
khai lỗ
Tỉ lệ (%)
1996 451 310 68,7
1997 510 358 70,2
1998 500 341 68,2
1999 395 281 71,1
2000 352 235 66,8
2001 704 545 77,4
Từ bảng số liệu trên cho ta thấy được tình các doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ
luôn chiếm một tỉ lệ rất cao trong số các doanh nghiệp được khảo sát, trung bình
71,1%. Cục thuế TPHCM cho rằng, có rất nhiều thủ thuật khiến cho DN rơi vào tình
trạng lỗ giả, lãi thật như nâng chi phí vật tư, nâng định mức vật tư cao hơn giá trị thực
tế là những thủ thuật phổ biến nhất.
Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, các DN phải đương đầu với khó
khăn về tài chính là điều dễ hiểu, nhưng việc các DN có vốn đầu tư nước ngoài tại
VN liên tục báo lỗ trong nhiều năm qua lại là điều không bình thường.Một nghịch lý
là phần lớn các doanh nghiệp trong khi báo cáo làm ăn thua lỗ tới cả chục năm qua,
cũng là quãng thời gian họ liên tục phát triển cả về doanh thu lẫn quy mô hoạt động.
Thực trạng trên đã minh chứng rõ hơn về tình trạng lỗ giả, lời thật của các
doanh nghiệp FDI trong thời gian qua, các doanh nghiệp này dần loại các doanh
nghiệp trong nước và nhanh chống chiếm lĩnh thị phần trong các lĩnh vực khác nhau.

18

2.3. Một số ví dụ tiêu biểu về hiện tượng chuyển giá ở Việt Nam trong những
năm gần đây:
Mục tiêu của các MNC ( công ty đa quốc gia) là tối ưu hóa chi phí, tăng doanh
thu từ đó thực hiện mục tiêu mở rộng thị trường và tối đa hóa lợi nhuận cho các cổ
đông. Một cách tốt để các MNC có thể giảm thiểu chi phí kinh doanh là làm giảm số

thuế mình phải nộp đặt biệt ở các quốc gia có mức thuế suất cao như ở Việt Nam.
Bên cạnh đó luật pháp ở Việt Nam trong vấn đề định giá chuyển giao còn chưa
hoàn thiện và luật pháp còn có độ trễ so với tình hình thực tế của nền kinh tế,các qui
định đã được ban hình thì nhiều qui định chưa phù hợp, nhiều khe hở .Trước tình hình
này các công ty đa quốc gia này đã bằng nhiều hình thức khác nhau đã lách luật hay
làm trái luật để thực hiện hành vi chuyển giá mà cơ quan thuế của Việt Nam khó có
thể phát hiện, hay phát hiện nhưng do những quy định chưa hoàn thiện nên cũng
không thể xử phạt đối với những trường hợp này.
Văn bản pháp lý đầu tiên đề cập đến chuyển giá được Bộ Tài chính ban hành
năm 1997. Điều này cho thấy, hiện tượng chuyển giá trong giao dịch có yếu tố nước
ngoài xuất hiện ở nước ta từ lâu và các nhà hoạch định chính sách tài chính đã xác
định đây là một vấn đề cần quan tâm quản lý. Vậy nhưng, một thời gian dài vẫn xảy
ra tình trạng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) báo cáo thua lỗ, trong khi
liên tục phát triển cả về doanh thu, quy mô hoạt động lẫn mở rộng chiếm lĩnh thị
trường. Đặt biệt trong những năm gần đây tình hình chuyển giá diễn ra ngày một
nghiêm trọng trong các ngành như sản xuất ô tô, dệt may, nước giải khác và điện tử.
Để đối phó với tình hình này Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 66/2010/TT-BTC
vào ngày 22 tháng 4 năm 2010 hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong
giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Thông tư này thay thế Thông
tư 117/2005/TT-BTC ngày 19 tháng 12 năm 2005.Theo Thông tư 66, giá sản phẩm
trong giao dịch liên kết được xác định theo giá thị trường trên cơ sở so sánh tính
tương đương giữa giao dịch liên kết với giao dịch độc lập để lựa chọn phương pháp
xác định giá phù hợp nhất.
19

Thông tư 66 quy định đến 13 loại giao dịch được xem là giao dịch liên kết. Doanh
nghiệp và các cơ quan quản lý căn cứ vào yếu tố "khác biệt trọng yếu" mà Thông tư
66 quy định để đánh giá một giao dịch giữa các bên liên kết có sự chuyển giá hay
không. Theo đó, "khác biệt trọng yếu" là khác biệt về thông tin hoặc dữ liệu làm tăng
hoặc giảm ít nhất 1% đơn giá sản phẩm giao dịch hoặc khác biệt về thông tin hoặc dữ

liệu làm tăng hoặc giảm ít nhất 0.5% tỷ suất lợi nhuận gộp hoặc tỷ suất sinh lời. Định
nghĩa này có phần cụ thể và siết chặt hơn so với định nghĩa về "khác biệt trọng yếu"
đã được quy định trong Thông tư 117.
2.3.1 Chuyển giá ở công ty liên doanh VNTRA
Năm 1994, Công ty cổ phần Thiết bị điện Hà Nội thành lập cong ty VNTRA là
liên doanh với Công ty ABB Asia Pacific (Bộ phận ở Châu Á Thái Bình Dương - tập
đoàn lớn nhất thế giới trong lĩnh vực thiết bị điện) thành lập Công ty liên doanh Chế
tạo biến thế - ABB )có vốn đầu tư 24,7 triệu USD và vốn pháp định 10,97 triệu USD,
trong đó phía Việt Nam góp 35% (3,84 triệu USD). Do sản phẩm có giá cao, không
đạt sản lượng kế hoạch, chất lượng chưa ổn định và cách tiếp cận thị trường thiếu
năng động, nên sau 7 năm hoạt động, công ty bị thua lỗ liên tục, phía đối tác Việt
Nam không đủ tiềm lực tài chính để tiếp tục hoạt đông, trong khi công ty không có
dấu hiệu có thể đạt dược lợi nhuận trở lại. Kết quả là, phía Việt Nam phải rút vốn
khỏi liên doanh và công ty trở thành công ty 100% vốn nước ngoài.
Đến tháng 5 năm 2002,Nhà máy chế tạo biến thế mới rút hết và hoàn tất xong các
thủ tục chuyển nhượng toàn bộ phần vốn của mình cho phía đối tác liên doanh là
công ty TNHH ABB. Công ty TNHH ABB trở thành công ty có 100% vốn nước
ngoài. Sau khi đối tác phía Việt Nam rút vốn khỏi liên doanh, với tiềm lực tài chính
và kinh nghiệm sẵn có được tích lũy, công ty này đã liên tục đi lên và không ngừng
phát triển với tốc độ phát triển bình quân là 22%/năm.Đến tháng 3/2005, thực hiện
chủ trương của Nhà nước, Nhà máy chế tạo biến thế đã thực hiện cổ phần hóa và lấy
tên là Công ty cổ phần Chế tạo biến thế Hà Nội.
20

Trong khi đó,ABB là tập đoàn hàng đầu về điện và tự động hóa.Tập đoàn ABB
hoạt động trên khắp thế giới với hệ thống các công ty con tại trên 100 quốc gia với số
nhân viên lên tới 117 nghìn người. Năm 1993, ABB có mặt tại Việt Nam và cho đến
nay, doanh nghiệp này đã có hơn 600 nhân viên làm việc tại Hà Nội, Bắc Ninh, Đà
Nẵng, Vũng Tàu và Tp.HCM.ABB Viet Nam sản xuất các sản phẩm điện trung thế,
như trạm phân phối hợp bộ, tủ đóng cắt hợp bộ trung thế với công nghệ mới nhất của

tập đoàn này để phục vụ thị trường trong nước. Ngoài ra, nhà máy còn cung ứng các
chi tiết sản phẩm cho các cơ sở của ABB trên toàn cầu để sản xuất các thiết bị điện
cao thế.
Vấn đề đặt ra ở dây là liệu công ty Vntra có lỗ thực sự hay không, trong khi liên
doanh phía nước ngoài là một công ty hàng đầu thế giới và có nhiều kinh nghiệm
trong việc quản lý cũng như quản bá hình ảnh cong ty với công chúng. Câu hỏi về
chuyển giá trong liên doanh Vntra được đặt ra. Công ty ABB đã định giá quá cao các
sản phẩm được nhập khẩu từ nước ngoài từ đó làm tăng giá thành sản phẩm bán ra,
các chi phí hoạt động luôn ở mức cao.
Với mục tiêu xây dựng một hình ảnh sản phẩm chất lượng, giảm số thuế Thu
nhập doanh nghiệp phải nộp,và việc chủ đích muốn đẩy đối tác phía Việt Nam ra khỏi
liên doanh công ty luôn duy trì tình trạng lỗ triền miên qua các năm. Thực tế trên đã
cho thấy tình hình công ty lỗ ảo là hoàn toàn có căn cứ, tuy nhiên trong thời kì đó
Pháp luật ở Việt Nam còn chưa đầy đủ cũng như năng lực của các cán bộ thuế còn
chưa hoàn thiện nên khó có thể phát hiện sự vi phạm của ABB.
2.3.2 Chuyển giá ở P&G Việt Nam
P&G Việt Nam là một công ty liên doanh giữa Công ty Proter & Gamble Far
Earst với Công ty Phương Đông, được thành lập vào ngày 23 tháng 11 năm 1994.
Tổng số vốn đầu tư ban đầu của liên doanh này là 14,3 triệu USD và đến năm 1996
tăng lên là 367 triệu USD. Trong đó Việt Nam góp 30% và phía đối tác chiếm 70%
(tương đương 28 triệu USD). Sau hai năm hoạt động (năm 1995 và 1996) liên doanh
này đã lỗ đến một con số khổng lồ là 311 tỷ đồng. Số tiền lỗ này tương đương với ¾
giá trị vốn góp của cả liên doanh. Trong con số thua lỗ 311 tỷ này thì năm 1995 lỗ
21

123,7 tỷ đồng và năm 1996 lỗ 187,5 tỷ đồng. Để giải thích cho số tiền thua lỗ này thì
chúng ta sẽ phân tích các nguyên nhân và chi phí sau: Do thời điểm năm 1995 và
1996 đây là gia đoạn mới vào Việt Nam nên P&G muốn xây dựng thương hiệu tại
Việt Nam và muốn các sản phẩm của mình đều được người tiêu dùng biết đến và sử
dụng.

Với mục đích chiếm lĩnh thị trường, trong hai năm 1995 và 1996, P&G đã chi cho
quảng cáo một số tiền rất lớn lên đến 65,8 tỷ đồng. Đây là một con số quá lớn đối với
quảng cáo tại Việt Nam vào thời điểm đó. Trong thời điểm này hầu như các kênh
truyền hình. đài phát thanh và báo chí đều có sự xuất hiện quảng cáo của các sản
phẩm của công ty P&G như Safeguard, Lux, Pantene, Header & Shouder, Rejoice…
Vào thời điểm này, mọi người đều nghe các khẩu hiệu quảng cáo như “Rejoice tạo
mái tóc mượt và không có gàu”, “Pantene giúp tóc bạn khỏe hơn”, “Header &
Shoulder khám phá bí quyết trị gàu”, “bột giặt Tide thách thức mọi vết bẩn”… Tổng
các chi phí quảng cáo này chiếm đến 35% doanh thu thuần của công ty và đã vượt xa
mức cho phép của luật thuế là không quá 5% trên tổng chi phí và nó cũng đã gấp 7
lần so với chi phí trong luận chứng kinh tế ban đầu. Ngoài các khoản quảng cáo này
thì các khoản chi phí khác cũng vượt xa so với luận chứng kinh tế ban đầu. Quỹ
lương năm đầu tiên xây dựng trong luận chứng kinh tế là 1 triệu USD nhưng thực tế
đã chi đến 3,4 triệu USD, tức là gấp 3,4 lần.
Nguyên nhân chủ yếu là do P&G đã sử dụng đến 16 chuyên gia là người nước
ngoài trong khi trong luận chứng kinh tế chỉ đưa ra từ 5 đến 6 người. Ngoài hai chi
phí trên thì các chi phí khác cũng phát sinh lớn hơn nhiều so với luận chứng kinh tế
ban đầu như chi phí cho chuyên gia xây dựng cơ bản ban đầu là 7 tỷ đồng, chi phí tư
vấn pháp lý hết 7,6 tỷ và chi phí thanh lý hết 20 tỷ… Ngoài ra một nguyên nhân khác
dẫn đến việc thua lỗ nặng nề trong năm đầu tiên là do doanh số thực tế năm chỉ đạt
54% kế hoạch và phải gánh chịu chi phí tăng cao, dẫn đến kết quả là năm đầu tiên
hoạt động thua lỗ 123,7 tỷ đồng. Tình hình này lại tiếp tục lặp lại vào năm thứ hai và
kết quả là năm thứ hai lại tiếp tục thua lỗ thêm 187,5 tỷ đồng với con số thua lỗ lũy kế
hai năm đến 311,2 tỷ đồng; chiếm ¾ tổng số vốn của liên doanh, và đến tháng 7 năm
1997 thì tổng giám đốc của P&G đã đầu tư quá giấy phép là 6 triệu USD, công ty
phải vay tiền mặt để trả tiền lương cho nhân viên. Đứng trước tình thế thua lỗ nặng nề
22

và để tiếp tục kinh doanh thì bên phía đối tác nước ngoài đề nghị tăng vốn thêm 60
triệu USD. Như vậy phía Việt Nam cần phải tăng theo tỷ lệ vốn góp 30% (18 triệu

USD). Vì bên phía Việt Nam không có đủ tiềm lực tài chính nên cuối cùng đã phải
bán lại toàn bộ số cổ phần của mình cho đối tác nước ngoài. Như vậy công ty P&G
Việt Nam từ hình thức là công ty liên doanh đã trở thành công ty 100% vốn nước
ngoài.
2.3.3 Chuyển giá ở liên doanh Coca Cola Chương Dương
Công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương là một liên doanh giữa hai đối
tác là Công ty Nước giải khát Chương Dương trực thuộc Bộ Công Nghiệp Việt Nam
và Công ty Coca Cola Indochina PTE.. LTD. Liên doanh này được cấp phép hoạt
động vào ngày 27 tháng 9 năm 1995 với tổng số vốn đầu tư là 48,7 triệu USD. Vốn
pháp định của liên doanh này là 20,7 triệu USD. Trong đó phía Việt Nam góp 8,3
triệu USD bằng quyền sử dụng 6 ha đất trong thời gian là 30 năm và chiếm 40% trong
tổng vốn đầu tư. Liên doanh này được cấp phép ngành nghề sản xuất kinh doanh là
nước giải khát mang nhãn hiệu Coca Cola, Fanta, Sprite theo license của công ty
Coca Cola Company, Atlanta, Georgia Hoa Kỳ và một số loại nước giải khát khác.
Sau khi đi vào hoạt động thì công ty đã tiến hành các hoạt động chuyển giá thông qua
các hành vi như sau: Khi tham gia góp vốn liên doanh thì bên đối tác nước ngoài đã
tiến hành nâng giá trị tài sản vốn góp bằng cách định giá cao các máy móc thiết bị và
dây chuyền sản xuất nước giải khát. Do tại thời điểm này trình độ chuyên môn cũng
như thẩm định giá trị tài sản của Việt Nam còn nhiều hạn chế nên không kiểm soát
được vấn đề này. Luật pháp trong giai đoạn này cũng chưa điều chỉnh được các tình
huống trên.
Đến năm 1996, do nhận thấy được tình trạng trên nên Luật đầu tư đã có những
sửa đổi nhưng vẫn còn chung chung, chưa cụ thể hóa. Như vậy bên liên doanh đã
định giá cao các thiết bị máy móc và dây chuyền sản xuất và thực hiện thành công
việc chuyển giá thông qua việc nâng giá trị tài sản vốn góp. Sau khi bắt đầu sản xuất
kinh doanh thì công ty Coca Cola bắt đầu thực hiện các chiến lược chiếm lĩnh thị
phần của các công ty nội địa. Để thực hiện việc chiếm lĩnh thị trường thì công ty Coca
Cola đã thực hiện các chiến lược bán phá giá sản phẩm, chiến lược quảng bá sản
23


phẩm và xây dựng thương hiệu thông qua quảng cáo và marketing sản phẩm, thực
hiện các chiến lược khuyến mãi, tài trợ để xây dựng thương hiệu và đánh bóng tên
tuổi tại thị trường Việt Nam. Mặc dù mới xâm nhập vào thị trường Việt Nam với một
thời gian không lâu nhưng sản phẩm mang nhãn hiệu Coca Cola đã tràn ngập thị
trường và đã dần dần chiếm lấy thị phần của các công ty nội địa.
Cuộc đối đầu giữa hai nhãn hiệu nước giải khát lớn là Coca Cola và Pepsi đã
dần dần loại bỏ các nhà sản xuất nước giải khát nội địa như Hòa Bình, Cavinco,
Chương Dương… Các công ty nội địa một số phải đóng cửa hoặc phải bỏ thị trường
chính như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các thành thị để chuyển đến các thị
trường nông thôn. Một số ít các công ty phải chuyển đổi sang kinh doanh sản phẩm
khác như công ty Tribico. Tribico nhờ chuyển hướng kinh doanh sang sản phẩm sữa
đậu nành và đây là một sản phẩm mà hai đại gia trong ngành nước giải khát chưa sản
xuất nên mới có thể tiếp tục tồn tại. Trong chiến lược xâm chiếm thị phần của mình
thì công ty Coca Cola Chương Dương đã thực hiện chính sách bán phá giá. Giá bán
của sản phẩm giảm một cách rõ rệt qua từng năm. Có những thời điểm giá bán phá
giá từ 25% đến 30% doanh thu. Chính điều này góp phần vào làm cho công ty Coca
Cola Chương Dương lỗ nặng nề hơn. Thông qua việc bán phá giá này thì công ty
Coca Cola Chương Dương đã thao túng thị trường nội địa Việt Nam. Giá bán của một
thùng sản phẩm giảm nhưng doanh số của Coca Cola vẫn tăng. Điều này chứng tỏ
lượng hàng tiêu thụ tăng từ thị phần được mở rộng của Coca Cola. Khi tiến hành so
sánh giá của một lon coca được bán tại thị trường Việt Nam và thị trường Mỹ thì
chúng ta sẽ thấy sự chênh lệch giá một cách rõ rệt. Giá một lon coca tại thị trường Mỹ
tại thời điểm lúc bấy giờ được bán với giá là 75 cents với tỷ giá lúc bấy giờ 1 USD =
14.000 VND, tức là 1 lon coca được bán với giá 10.500 đồng. Một lon coca cùng thời
điểm trên được bán tại thị trường Việt Nam với giá từ 5.000 đồng đến 7.000 đồng
(tương đương từ 40 đến 50 cents). Như vậy giá một lon coca được bán tại Việt Nam
thấp hơn so với thị trường Mỹ là 25 cent (khoảng 50%). Thông qua phân tích giá bán
sản phẩm thì liệu chúng ta có thể xác định chính sách bán phá giá này có được sự điều
phối từ công ty mẹ ở chính quốc. Trong thời điểm diễn ra cúp bóng đá thế giới vào
năm 1998, để đánh bóng thêm cho tên tuổi và thương hiệu Coca Cola tại thị trường

Việt Nam thì công ty Coca Cola còn tiếp tục thực hiện việc tài trợ 1,3 tỷ đồng bất
24

chấp sự không đồng ý của phía liên doanh Việt Nam. Đi đôi với chiến dịch khuyến
mãi này là việc tăng dung tích chai Coca Cola từ 200 ml lên thành 300 ml (tương
đương 50%) nhưng giá bán không đổi. Chiến dịch khuyến mãi này được quảng cáo
rầm rộ trong suốt thời gian diễn ra cúp bóng đá thế giới trên các phương tiện truyền
thông như các kênh truyền hình, đài phát thanh, và báo chí… Kết quả của chiến dịch
khuyến mãi này đã làm cho công ty Coca Cola đã lỗ hết 20 tỷ đồng.
Bảng 2.9: Kết quả kinh doanh của công ty Coca Cola từ năm 1996 đến 1998
Diễn giải 1996 1997 1998
Tỷ suất sinh lợi -24.8% -24.5% -52.1%
Lợi nhuận/ tài sản
ròng
-11.3% 26.3%
Lợi nhuận / Doanh
thu
-22.1% -22.13% -46.5%
Thay đổi 11% 53%

Nguồn: Cục thuế TP HCM

Ngoài những hoạt động như khuyến mãi quảng cáo thì tại công ty Coca Cola
có một đặc điểm là có hơn 40% chi phí nguyên vật liệu cho sản xuất được nhập khẩu
trực tiếp từ công ty mẹ. Đối với ngành sản xuất nước giải khát thì chi phí nguyên vật
liệu chiếm hơn 50% trong tổng chi phí, vì vậy giá trị nguyên vật liệu nhập từ công ty
mẹ là rất lớn. Do đó chắc chắn sẽ có hiện tượng nâng giá đầu vào tại khâu mua
nguyên vật liệu từ công ty mẹ. Theo báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty,
xem xét tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu chiếm trong tổng chi phí thì chi phí nguyên
vật liệu chiếm tới 60,14% trong tổng chi phí. Khi so sánh với doanh thu thì chi phí

nguyên vật liệu chiếm 66,82%. Nếu đem tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu so với doanh
thu và chi phí tại công ty Coca Cola so sánh với các công ty trong cùng ngành sản
xuất nước giải khát thì tỷ lệ này quá cao và không phù hợp với đặc điểm và tỷ suất lợi
nhuận của ngành này. Trong thời điểm mà Nhà nước chưa quản lý được giá mua
nguyên vật liệu giữa công ty Coca Cola Chương Dương và công ty Coca Cola mẹ ở
25

chính quốc thì có thể xảy ra tình trạng kê khai nâng giá mua vào trên hóa đơn so với
giá thực tế (đây là hiện tượng chuyển giá). Mục đích của việc làm này là gây lỗ cho
công ty tại Việt Nam nhưng công ty mẹ tại chính quốc sẽ thu lợi do giá nguyên vật
liệu đuợc bán với giá cao. Đây cũng là một hình thức chuyển lợi nhuận về chính quốc
trong khi công ty con tại Việt Nam phải chịu lỗ. So sánh tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá
vốn hàng bán (NVL/GVHB) của công ty Coca Cola Chương Dương và hai công ty
con của Coca Cola mẹ hoạt động tại Úc và Canada.
Trên đây là những hoạt động chuyện giá chủ yếu ở Việt Nam trong thời gian qua,
những hoạt động này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp Việt Nam,
cũng như là thất thu hàng tỷ USD cho nguồn thu thuế của Nhà nước. Khi hoạt động
chuyển giá còn tiếp diễn với xu thế ngày càng phức tạp như hiện nay, các doanh
nghiệp Việt Nam, cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý các doanh nghiệp FDI
cần thận trọng hơn, và có những biện pháp để chủ động đối phó, cũng như quản lý tốt
nguồn vốn FDI tạo đà cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững ở Việt Nam trong
thời kì hội nhập kinh tế thế giới.















×