L i m uờ ở đầ
Cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO (vào ngày 7-11-
2006), Quốc hội Hoa kỳ thông qua Quy chế bình thường vĩnh viễn (PNTR. Việt
Nam việc tổ chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao
APEC tại Hà Nội( tháng 11-2006) Thì Việt Nam càng khẳng định hơn nữa vị thế
của mình trong cộng đồng quốc tế, ngày càng hội nhập sâu hơn vào thị trường khu
vực và thế giới. Từ đó làm gia tăng sự đầu tư của các tập đoàn kinh tế, các quốc gia
lớn mạnh trên thế giới, làm gia tăng dòng vốn FDI vào Việt Nam. Nhưng việc hiểu
được hết vai trò của FDI lại gặp không ít khó khăn, nhất là việc sự dụng nguồn vốn
FDI, việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào nền kinh tế Việt
Nam còn gặp nhiều trở ngại. Làm cho những tác dụng to lớn của FDI cũng giảm
thiểu, nhất là tác dụng tạo việc làm cho nền kinh tế.
Với ý nghĩa nghiên cứu, phân tích một cách sâu sắc tỷ mỉ về FDI và việc tạo
việc làm thông qua FDI trong tiến trình toàn cầu hóa, từ đó đưa ra một số giải pháp
để thu hút FDI và tăng việc làm trong khu vực FDI. Em lựa chọn đề tài: “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt
Nam trong tiến trình toàn cầu hóa”.
Trong quá trình ngiên cứu, em sử dụng một phương pháp như phương pháp duy vật
biện chừng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp liên hệ, so sánh, thống
kê, phân tích và một số phương pháp khác.
Kết cấu của đề án gồm 3 phần:
Phần một : Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc
làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa.
Phần hai : Thực trạng về đầu tư trực tiếp nước ngoài với vấn đề tạo việc làm cho
người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa.
Phần ba : Những giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề
tạo việc làm cho người lao động Viêt Nam.
1
Phần một : Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề
tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa.
1.1- Toàn cầu hóa, bản chất và tác dụng của nó.
1.1.1- Quan niệm về toàn cầu hóa
Thuật ngữ toàn cầu hóa được sử dụng phổ biến từ khoảng cuối thập niên 1980
trở lại đây để diễn đạt một nhận thức mới của loài người về một hiện tượng, một
quá trình quan trọng trong quan hệ quốc tế hiện đại. Đây là hiện tượng trong đó các
quan hệ xã hội được mở rộng trên toàn thế giới, đã loại trừ dần tình trạng khép kín,
biệt lập giữa các quốc gia và đưa đến sự chuyển hoá lẫn nhau trong môi trường
quốc tế mà ở đó mỗi nước đều có những vị trí nhất định trong quá trình hình thành,
xác lập những quan hệ và ứng xử cộng đồng, những tiêu chí và luật lệ, cơ chế và
trật tự cộng đồng. Sự mở rộng quan hệ này được tăng cường tới mức nhiều sự kiện
xảy ra tại nơi này nhất thiết tác động đến những sự kiện xảy ra ở nơi khác. Đây là
một xu thế khách quan và là một thách thức đối với nhiều nước, nhất là các nước
kém phát triển.
Toàn cầu hóa tác động trên nhiều mặt của đời sống thế giới: chính trị, kinh tế,
thông tin, văn hoá, thể thao, trong đó kinh tế vẫn đóng vai trò chủ yếu. Vậy đòi hỏi
mỗi quốc gia và toàn nhân loại phải kiên định và chủ động khai thác hết được tiềm
năng mà Toàn cầu hóa mở ra, đồng thời kiểm soát và chế ngự được những tác động
tiêu cực của nó đối với các nước kém phát triển, đang phát triển và nhân dân lao
động toàn thế giới.
1.1.2- Bản chất và đặc điểm của toàn cầu hóa
a. Bản chất của quá trình toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu khách quan không cưỡng lại được của thời
đại. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế và thị trường thế giới được
thúc đẩy bởi những bước tiến như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công
2
nghệ mà tất yếu sẽ dẫn đến sự giao lưu, trao đổi và quốc tế hóa trên mọi lĩnh vực
đời sống con người và đời sống các quốc gia trong công đồng thế giới.
Toàn cầu hóa là một quá trình xã hội hóa ngày càng sâu sắc sự phát triển của lực
lượng sản xuất và của quan hệ sản xuất cùng với những mối quan hệ biện chứng
giữa chính hai yếu tố này ở quy mô toàn cầu. Động lực của "toàn cầu hóa" là sự
phát triển của lực lượng sản xuất, mà lực lượng sản xuất thì không ngừng lớn mạnh.
Ðây là quy luật chung nhất cho mọi thời đại, mọi chế độ xã hội
Toàn cầu hóa là quá trình giao lưu và quốc tế hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống
con người và đời sống các quốc gia trong công động thế giới, trong đó toàn cầu hóa
kinh tế ngày càng trở thành yếu tố quyết định trong toàn bộ quá trình giao lưu quốc
tế. Toàn cầu hóa kinh tế làm cho các nước có quan hệ kinh tế với nhau và phụ thuộc
vào nhau chặt chẽ hơn. Động lực thúc đẩy Toàn cầu hóa phát triển là sự tiến bộ
khoa học - kĩ thuật và sự mở rộng cơ chế thị trường. Cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật của xã hội loài người cả về chiều rộng và chiều sâu làm cho việc quốc tế hoá
kinh tế có bước phát triển mới quan trọng.
b. Đặc điểm của toàn cầu hóa kinh tế:
1) Toàn cầu hóa diễn ra trong sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích giữa các
quốc gia với nhau và lợi ích chung toàn thế giới
2) Sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ
của cách mạng tin học đã hình thành nền kinh tế tri thức.
3) Sự phát triển của kinh tế thị trường hiện đại thúc đẩy tự do hóa kinh tế và sự
thâm nhập kinh tế giữa các nước.
4) Vai trò quan trọng của Nhà nước và sự điều phối của các tổ chức kinh tế thế
giới trong tiến trình toàn cầu hóa.
1.1.3- Tác dụng của toàn cầu hóa kinh tế.
a.Đối với các nước đang phát triển
3
Toàn cầu hóa tạo ra những cơ hội mà các nước đang phát triển có thể tận dụng
để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống. Những tác động
tích cực là:
• Toàn cầu hóa kinh tế tạo điều kiện cho các nước huy động được những nguồn
lực từ bên ngoài cho việc phát triển kinh tế quốc gia: vốn, khoa học-kỹ thuật
công nghệ-tri thức,…từ đó việc sử dụng nguồn lực trong nước có hiệu quả hơn.
• Mở ra khả năng cho các quốc gia phát triển chậm nhanh chóng tham gia vào hệ
thống phân công lao động quốc tế, hình thành cơ cấu kinh tế- xã có hiệu quả hơn
, đẩy nhanh và rút ngắn tiến trình hiện đại hóa.
• Tạo điều kiện cho các nước hôi nhập vào các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu
vực.
• Giúp cho các nước đang phát triển nhanh chóng tiếp nhận được thông tin, tri
thức mới, góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực.
• Chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động tiếp cận dần các chuẩn
mực lao động quốc tế.
• Làm nảy sinh dòng di chuyển lao động trong nước và quốc tế, như những cơ hội
việc làm được tạo ra bởi dòng FDI, lao động di chuyển đến các khu công
nghiệp-khu chế xuất hay xuất khẩu lao động ,…
Bên cạnh mặt tích cực thì Toàn cầu hóa cũng gây ra những tác động tiêu cưc đến
các nước đang phát triển, đó là:
• Khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày
càng lớn :những chênh lệch về năng lực, vốn , công nghệ,.. sự cách xa về trình
độ phát triển, năng lực sản xuất, …làm các nước đang phát triển khó bắt kịp với
các nước phát triển
• Toàn cầu hóa tạo ra một sự cạch tranh gay gắt trên phạm vi toàn thế giới:
công ty có năng suất kém hơn bị phá sản, quốc gia phát triển kém hơn bị tụt
hậu…mà thường thì phần thua thiệt là các nước đang phát triển.
4
• Các nước đang phát triển trang trủ nguồn lực bên ngoài song chính vì thế
mà phụ thuộc nhiều hơn vào hệ thống phân công lao động quốc tế, phụ thuộc
vào các cường quốc kinh tế…
b. Đối với vấn đề tạo việc làm
Toàn cầu hóa kinh tế tác động đến vấn đề tạo việc làm thông qua các nhân tố: di
chuyển vốn, tự do hóa thương mại, di chuyển lao động mang tính chất toàn cầu, cụ
thể:
Di chuyển vốn kèm theo di chuyển công nghệ, kiến thức kinh doanh và quản lý
làm tăng số lượng lao động và nâng cao chất lượng lao động, vốn FDI tạo ra nhiều
việc làm mới( cả việc làm trực tiếp và gián tiếp).
Tự do hóa thương mại làm đa dạng chủng loại hàng hóa, thúc đẩy mở rộng phân
công và hiệp tác lao động giữa các nước, làm cạnh tranh về giá cả, chất lượng hàng
hóa, sản xuất, quản lý, … dẫn đến tạo việc làm mới và cũng dẫn đến thất nghiệp
nhiều do DN bị phá sản.
Cuối cùng, việc di chuyển lao động tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao
động, mặt khác tăng sức ép về việc làm và thất nghiệp.
Ngoài ra, các nhân tố gián tiếp khác của toàn cầu hóa kinh tế cũng tác động đến vấn
đề tạo việc làm : sự phát triển của nền kinh tế tri thức, vận tải quốc tế,…
1.2- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment)
1.2.1- Khái niệm, bản chất và đặc điểm của FDI
a. Một số khái niệm cơ bản
Đầu tư là một hoạt động quan trọng quyết định trực tiếp tới sự phát triển của nền
sản xuất xã hội, là chìa khóa của sự tăng trưởng và là điều kiện tiên quyết cho sự ra
đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cở sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đầu tư
nói chung là những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền
kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để
đạt được các kết quả đó. Do đó, mục tiêu của đầu tư là tạo ra được kết quả cao hơn
5
so vơi những hy sinh về nguồn lực ở hiện tai. Đầu tư của một quốc gia gồm có đầu
tư trong nước và đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài ( hay còn gọi là đầu tư quốc tế) là phương thức đầu tư vốn,
tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ với mục đích
tìm lợi nhuận hoặc vì những mục tiêu chính trị, xã hôi nhất định. Cũng với tiến
trình toàn cầu hóa, đầu tư nước ngoài có vai trò ngày càng to lớn đối với sự phát
triển của mỗi quốc gia, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài( nguồn đầu tư của tư
nhân nước ngoài) chiếm vị trí quan trọng nhất.
b. Khái niệm về Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment)
Hiện nay, khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nhiều tổ chức kinh
tế quốc tế và các quốc gia đưa ra. Hiểu một cách chung nhất, đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) chính là hoạt động đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản
xuất, kinh doanh và dich vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Quan điểm về FDI của Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật đầu tư
nước ngoài sửa đổi, bổ sung năm 2000: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà
đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến
hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”, trong đó nhà đầu tư nước
ngoài được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.
Hay theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá
nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh
doanh và họ trực tiếp nắm quyền quản lý các cơ sở sản xuất kinh doanh đó.
Qua các định nghĩa về FDI, có thể rút ra định nghĩa về FDI như sau: “ Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào
từ nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích
kinh doanh có lãi”.
c. Bản chất của FDI
Qua nhiều lịch sử hình thành và nghiên cứu cho thấy của đầu tư trực tiếp nước
ngoài qua các thời kỳ có thể nhận thấy bản chất của FDI là nhằm mục đích tối đa
hóa mục đích đầu tư hay tìm kiếm lợi nhuận ở các nước tiếp nhận đầu tư thông qua
6
di chuyển vốn( bằng tiền và tài sản, công nghệ và trình độ quản lý của nhà đầu tư
nước ngoài) từ nước đi đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư.
d. Đặc điểm của FDI
FDI có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, FDI là một dự án mang tính chất lâu dài.
Thứ hai, FDI là một dự án có sự tham gia quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài.
Các nhà đầu tư có quyền tham gia hoạt động quản lý trong các doanh nghiệp FDI,
tùy thuộc vào tỷ lệ vốn đóng góp mà nhà đầu tư có quyền tham gia và quyền tham
gia quản lý nhiều hay ít.
Thứ ba, đi kèm với dự án FDI là 3 yếu tố: hoạt động thương mại, chuyển giao công
nghệ, di cư lao động quốc tế, trong đó di cư lao động quốc tế góp phần vào việc
chuyển giao kỹ năng quản lý doanh nghiệp FDI.
Thứ tư, FDI là hình thức kéo dài “ chu kỳ tuổi thọ sản xuất”, “ chu kỳ tuổi thọ kỹ
thuật” và “ nội bộ hóa di chuyển kỹ thuật”. Trong nền kinh tế hiện đại chính phương
thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là một điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của
mình. FDI sẽ giúp cho các doanh nghiệp thay đổi được dây chuyền công nghệ lạc
hậu ở nước mình nhưng dễ được chấp nhận ở nước có trình đọ phát triển thấp hơn
và góp phần kéo dài chu kỳ sản xuất.
Thứ năm, FDI là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và một bên là
nước tiếp nhận đầu tư.
Thứ sáu, FDI gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tiến trình toàn cầu
hóa kinh tế. Chính sách về FDI của mỗi quốc gia tiếp nhận đầu tư thẻ hiên chính
sách mở cửa và quan điểm hội nhập quốc tế về đầu tư.
1.2.2- Tác dụng của FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của
một quốc gia, tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống, kinh tế- xã hội và chính
trị của nước tiếp nhận đầu tư.Trước hết, FDI bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế, đóng góp vào GDP, vào Ngân sách Nhà nước và
kim ngạch xuất khẩu. Đối với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố
7
đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế,FDI là biện pháp hữu hiệu để tăng vốn
cho đầu tư, huy động các nguồn lực để phát triển kinh tế để tạo ra tăng trưởng kinh
tế dẫn đến tăng thu nhập. Từ đó, kích thích sản xuất trong nước, tạo thêm nhiều việc
làm và tăng thu nhập cho người lao động, từ đó kích thích tiêu dùng.
FDI góp phần nâng cao chất lượng lao động, phát triển nguồn nhân lực. FDI
không chỉ tạo ra số lao động trực tiếp và gián tiếp mà đã làm thay đổi cơ bản, nâng
cao năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua:trực tiếp đào tạo
lao động và gián tiếp nâng cao trình độ lao động. FDI tạo ra một bộ phận lực lượng
lao động có trình độ cao ngang tầm với khu vực và quốc tế, với các tiêu chuẩn lao
động quốc tế, giúp tạo ra đòn bẩy nâng cao trình độ, năng suất lao động và điều kiện
lao động trong toàn bộ nền kinh tế.
FDI tác động đến phát triển công nghệ, tri thức, nâng cao kỹ năng và trình độ
quản lý của một quốc gia. Việc chuyển giao công nghệ thông qua FDI đã làm cho
“khoảng cách công nghệ” giữa nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Mặt khác,
FDI tạo ra những năng lực mới cho nền kinh tế, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Ngoài ra, FDI tác động đến văn hóa, xã hội, mỹ quan, môi trường,.. của nước tiếp
nhận đầu tư cả về mặt tích cực và tiêu cực.
1.3- Việc làm và tạo việc làm cho người lao động.
1.3.1- Một số khái niệm
a. Việc làm:
Nhìn chung, trong các lý thuyết về việc làm, các học giả đều thống nhất cho
rằng mọi hoạt động được coi là việc làm khi đáp ứng đủ 2 tiêu chuẩn sau đây:
Thứ nhất, hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động hoặc tạo điều
kiện cho người lao động tham gia để tạo thu nhập hoặc giảm chi phí gia đình.
Thứ hai, đó là các hoạt động không bị luật pháp ngăn cấm.
Bộ Luật lao động Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tại Điều 13 quy
định: “ Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều được
thừa nhận là việc làm”
8
Theo Giáo trình Kinh tế lao động của khoa Kinh tế Lao động- Trường Đai học
kinh tế quốc dân, thì khái niệm việc làm được hiểu : “ Việc làm là trạng thái phù
hợp về số lượng và chất lượng giữa tư liệu sản xuất với sức lao động để tạo ra hang
hóa theo yêu cầu của thị trình”. Như vậy theo khái niệm này có thể hiểu việc làm là
một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc
những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
Hay theo Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO): “Việc làm là hoạt động được trả
công bằng tiền và bằng hiện vật”.
Thất ngiệp là một hiện tượng kinh tế-xã hội phổ biến ở các nước đang phát triển
cũng như các nước công nghiệp tiên tiến. Theo đúng nghĩa của từ thất nghiệp là mất
việc làm hay sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất. Thất nghiệp luôn là mối
quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia, nó không chỉ làm lãng phí “ tài sản” quý nhất
là nguồn lực con người mà còn gây ra những hậu quả tâm lý- xã hội xấu đi kèm
những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự không lường.
Phạm trù việc làm và thất nghiệp luôn gắn liền với phạm trù con người, do vậy
hình thành nên khái niệm người có việc làm, người thiếu việc làm, người thất
nghiệp.
Tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 13 của Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO) các nhà
thống kê về Lao động đưa ra các khái niệm như sau:
Người có việc làm là người làm một việc gì đó được trả công, lợi nhuận bằng tiền
hoặc hiện vật hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi
ích hay vì thu nhập gia đình không nhận được tiền công hay hiện vật.
Người thiếu việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ điều tra dưới mức
quy định chuẩn và họ có nhu cầu làm them.
Còn theo tài liệu điều tra lao động- việc làm hang năm của Bộ Lao động , Thương
binh và Xã hội thì khái niệm người thất ngiệp như sau: Người thất nghiệp là người
từ đủ 15 tuổi trở lên thuộc nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ điều tra
không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sang làm việc nhưng không
tìm được việc làm, được xác định dựa trên yếu tố:
9
Có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động đi
tìm việc làm trong 4 tuần qua vì các lý do không biết tìm ở đâu hoặc tìm mãi
không được.
Hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ việc làm dưới 8 tiếng, muốn
làm thêm nhưng không tìm được việc.
b. Tạo việc làm:
Xét về bản chất thì việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao động
và tư liệu sản xuất bao gồm cả về mặt số lượng và chất lượng. Nhưng đây mới chỉ
là điều liện cần thiết để có việc làm vì trạng thái phù hợp này còn cần nhiều yếu tố
khác. Do vậy, tạo việc làm là một quá trình trong đó việc tạo ra chỗ làm việc và thu
hút người lao động vào làm việc mới chỉ là khâu đầu tiên của quá trình đó, Chính vì
vậy, tạo việc làm là quá trình:
Một là, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Việc tạo ra tư liệu sản xuất
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cụ thể như:vốn đầu tư, và tiến bộ khoa học kỹ thuật áp
dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với tư liệu sản xuất đó
Hai là, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng sức lao động phụ thuộc
vào quy mô dân số, các quy định về độ tuổi lao động và sự di chuyển lao động. Chất
lượng lao động thì phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục, đào tạo và sự phát triển
y tế, thể thao, chăm sóc sức khỏe cộng đồng..
Ba là, sự hình thành môi trường cho sư kết hợp các yếu tố tư liệu sản xuất và sức
lao động. Môt trường cho sự kết hợp này bao gồm hệ thống các chính sách phát
triển kinh tế- xã hội, chính sách khuyến khích và thu hút người lao động, chính sách
bảo hộ sản xuất, chính sách thất nghiệp, chính sách khuyến khích và thu hút đầu tư,
…
Bốn là, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và có hiệu quả cao. Các
giải pháp này có thể kể đến các nhóm giải phát về quản lý và điều hành, về thị
trường đầu vào và thị trường đầu ra, các giái pháp duy trì và nâng cao chất lượng
của sức lao động, kinh nghiêm quản trị kinh doanh của người sử dụng lao động…
10
Mặt khác việc làm chỉ có thể tạo ra khi cả người sử dụng lao động và người lao
động gặp gỡ trao đổi nhất trí về sử dụng sức lao động. Do đó, cơ chế tạo việc làm
phải được xem xét ở cả phía người sử dụng lao động và người lao động đồng thời
không thể thiếu vai trò của Nhà nước, cụ thể:
Về phía người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động có vai trò tạo chỗ làm việc và duy trì chỗ làm việc. Để
tạo chỗ làm việc phải có vốn, nắm bắt được công nghệ, có kiến thức và kinh nghiệm
trong tổ chức quản lý và phải có được thị trường. Mặt khác, muốn tạo việc làm
người sử dụng lao động phải đến thị trường lao động để thuê lao động, chỉ khi
người sử dụng lao động thuê được sức lao động cho chỗ làm việc của họ thì việc
làm mới được hình thành.
Về phía người lao động
Người lao động muốn có việc làm phải có sức khỏe, kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
phù hợp với công việc đòi hỏi. Do vậy, người lao động phải đầu tư cho chính bản
thân họ, thể hiện ở sự đầu tư nâng cao sức khỏe, đầu tư vào giáo dục và đào tạo,
chuyên môn nghề nghiệp. mặt khác, người lao động phải chủ động kiếm việc làm
và nắm bắt các cơ hội về việc làm.
Về phía Nhà nước
Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo việc làm, thể hiện trong
việc tạo ra môi trường thuận lợi cho việc làm hình thành và phát triển, tạo ra môi
trường thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động phát huy được khả
năng của họ, đưa ra các chính sách kiên quan đến người sử dụng lao động và người
lao động, cụ thể như các chính sách về khuyến khích đầu tư trong nước, đầu tư
nước ngoài, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước,….và các chính sách về giáo
dục- đào tạo, chính sách về sức khỏe- y tế- xã hội. Nhà nước đảm bảo phân bổ các
nguồn lực hợp lý, tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia kinh doanh tạo việc làm. Nhà nước có vai trò trong hệ thống
hướng nghiệp, các trung tâm giao dịch, giới thiệu việc làm…,tạo ra cơ sở pháp lý
để cho thị trường lao động phát triển,…
11
1.3.2- Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động
Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động được thể hiện bởi các lý do
sau:
Một là, trong tiến trình toàn cầu hóa, hôi nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc dịch
chuyển cơ cấu lao động sẽ kéo theo sự dich chuyển cơ cấu lao động; sự phân công
lao động trong nước cũng như quốc tế. Kết quả là một số nghề cũ mất đi, một số
nghề mới ra đời, có các dòng người di chuyển từ nơi có thu nhập thấp đến nơi có
thu nhập cao, di chuyển từ nông thôn ra thành thị, từ nước này sang nước khác kiếm
việc làm, gây nên sức ép về việc làm và tăng thất nghiệp. Mặt khác nước ta có quy
mô dân số tương dối lớn, tỷ lệ tăng dân số cao và cơ cấu dân số thuộc loại dân số
trẻ. Hàng năm, có khoảng từ 1.4-1.5 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động,
cùng với số lao động thất nghiệp của các năm trước sẽ trở thành gánh nặng cho các
gia đình và xã hội, ảnh hưởng đến trât tự. Do đó, cần thiết phải tạo việc làm cho số
lao động bị thất nghiệp và giảm sức ép về việc làm.
Hai là tạo việc làm đầy đủ cho người lao động còn có ý nghĩa hết sức quan trọng
đối với người lao động, ở chỗ cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, trong
đó có quyền cơ bản nhất là được làm việc, nhằm nuôi sống bản thân và gia định và
góp phần xây dựng đất nước.
Ba là, tạo việc làm cho người lao động tạo điều kiện tăng thu nhập, nâng cao đời
sống, từ đó tăng vị thế cho người lao động trong và ngoài xã hội.
Bốn là, với ý nghĩa con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh
tế- xã hội, con người với lao động của mình tạo ra của cải vật chất, tinh thần chủ
yếu cho xã hội, quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia. Song chỉ
khi con người được làm việc, tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, thì nền
kinh tế, xã hội ngày càng văn minh và phát triển. Do đó, cần thiết phải tạo việc làm
cho người lao động.
1.4- Tác động của FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến
trình toàn cầu hóa.
1.4.1-Về mặt số lượng:
12
FDI tạo ra việc làm trực tiếp trong chính khu vực FDI. Việc làm trực tiếp là việc
làm được trực tiếp tạo ra trong hệ thống của doanh nghiệp FDI ,đó là các việc làm
do doanh nghiệp tuyển dụng và trả lương., được tạo ra bởi chính nguồn vốn FDI,
được tính theo bảng lương của doanh nghiệp FDI.
Cùng với sự xuất hiện và lớn mạnh của khu vực FDI một số khu vực sản xuất và
cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cho khu vực có FDI cũng phát triển theo và tạo ra
số việc làm đáng kể. Đa số các doanh nghiệp FDI có mạng lưới tiêu thụ rộng khắp
sử dụng lao động bán hàng, quảng cáo, tiếp thị,…Khu vực FDI sử dụng các nguồn
lực khác trong nước ít nhiều nhờ đó tạo ra việc làm gián tiếp cho những đơn vị cung
cấp. Các dự án FDI cũng tạo ra hàng vạn chỗ làm việc cho ngành xây dựng trong
nước thông qua nhu cầu xây dựng nhà xưởng, văn phòng, cơ sở hạ tầng,… Do vậy
khi đánh giá tác động của FDI trong tạo việc làm còn phải xác định số lượng việc
làm gián tiếp do FDI tạo ra. Số lượng việc làm gián tiếp được xác định là việc làm
tạo ra trong các hoạt động của các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp khác ngoài khu
vực FDI nhưng lại phục vụ cho hoạt động của khu vực FDI. Nhận thấy, phần lớn
các doanh nghiệp FDI còn tạo ra việc làm gián tiếp với số lượng lớn hơn nhiều so
với số lượng việc làm trực tiếp mà nó tạo ra.
Số lượng việc làm trục tiếp và gián tiếp phụ thuộc vào vốn đầu tư, vào điều kiện
của từng quốc gia, từng khu vực và từng loại hoạt động được tiến hành. - Tạo ra lao
động trực tiếp trong chính khu vực có FDI.
1.4.2- Về mặt chất lượng:
Khi nghiên cứu tạo việc làm thông qua FDI các nghiên cứu không chỉ dừng lại ở
việc xác định số lượng và các cơ hội việc làm tạo ra một cách một cách trực tiếp
hay gián tiếp mà còn phân tích chất lượng của việc làm thông qua các chỉ tiêu Vốn/
lao động ( hay vốn/chỗ làm việc), trình độ lao động, điều kiện lao động, tiền lương
và thu nhập của lao động, năng suất lao động, tính ổn định của lao động,… Nhìn
chung, việc làm được tạo ra từ nguồn FDI có chất lượng cao hơn việc làm từ các
nguồn trong nước.
13