Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Luận văn : NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA HUYỆN PHỔ YÊN part 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.28 KB, 16 trang )



S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

8

Theo Phú giỏo s, Tin s Lu c Hi, Vin trng Vin Qui hoch
ụ th v Nụng thụn, B Xõy dng. Trc khi chuyn sang nn kinh t th
trng, quỏ trỡnh ụ th húa Vit Nam din ra rt chm chp, nn kinh t
nụng nghip lc hu, nng n tớnh bao cp v nh hng ca chin tranh chm
thay i. Sau khi chuyn i c ch kinh t t bao cp sang nn kinh t th
trng, quỏ trỡnh ụ th húa ó cú nhng chuyn bin nhanh hn, c bit
trong nhng nm gn õy khi tỡnh hỡnh cụng nghip húa trờn t nc ang
din ra mnh m. Tc ụ th húa (so vi s dõn) Vit Nam khỏ nhanh:
18,5% (nm 1989); 20,5% (1997); 23,6% (1999) v nay l 25%. Quỏ trỡnh ụ
th húa nụng thụn hin nay tp trung mnh ti cỏc ụ th ln v din ra khụng
ng u gia cỏc vựng trong c nc. Cht lng v trỡnh ụ th húa nụng
thụn cũn thp. C s h tng xó hi v k thut ụ th cũn yu kộm v cht
lng phc v so vi yờu cu. nh hng phỏt trin khụng gian khu vc
c ụ th húa cha rừ nột, c bit cũn phỏt trin mt cỏch tựy tin, mang
nng tớnh hỡnh thc ụ th, cha thc s gii quyt vn ct lừi ca ụ th
húa i vi khu vc dõn c hin cú: cha gn kt cht lng ụ th vi gi
gỡn bn sc, kin trỳc truyn thng trờn c s m bo iu kin tin nghi
cuc sng ụ th cho ngi dõn v m bo phự hp v cnh quan ụ th.
Tóm lại đô thị hoá diễn ra là tất yếu đối với nền kinh tế xã hội phát
triển; đồng thời cũng không ít những thách thức. Tng th ký LHQ, Kofi
Annan, nhõn ngy Mụi trng Th gii đã kờu gi tất cả cỏc cỏ nhõn, doanh
nghip, chớnh ph v chớnh quyn a phng hóy chp nhn thỏch thc mụi
trng ụ th. "Hóy to ra cỏc 'thnh ph xanh' con ngi cú th nuụi
dng con cỏi v thc hin cỏc c m ca mỡnh trong mt mụi trng c
quy hoch hp lý, sch s v trong lnh".




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9

1.1.2. Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
1.1.2.1. Vai trò và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp.
* Khái quát về sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất quan trọng, sản phẩm của nông
nghiệp cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho con người và xã hội, đối tượng
của sản xuất nông nghiệp là những sinh vật sống sinh trưởng và phát triển
theo quy luật vốn có của tự nhiên.
Nông nghiệp là ngành sản xuất xuất hiện đầu tiên trong lịch sử phát
triển của xã hội loài người. Cuộc cách mạng công nghiệp mở ra vào cuối thế
kỷ XVIII, rồi cách mạng khoa học kỹ thuật giữa thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI
có nhiều ngành ra đời và phát triển lớn mạnh: Công nghiệp, xây dựng, thương
mại dịch vụ, viễn thông, công nghệ tin học… Mặc dù vậy, nông nghiệp vẫn là
một trong hai ngành sản xuất vật chất rất quan trọng
* Vai trò của nông nghiệp
- Nông nghiệp sản xuất và cung cấp lương thực, thực phẩm cho nhu cầu
thiết yếu của cuộc sống. Nhiều sản phẩm của nông nghiệp: lương thực, thực
phẩm đều là những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của cuộc sống,
mặc dù với trình độ phát triển của khoa học ngày nay, vẫn không có một
ngành sản xuất nào có thể thay thế được, thiếu những sản phẩm thiết yếu đó,
con người không thể tồn tại và phát triển đ ược. Ăng Ghen đã từng khẳng
định: "trước hết con người cần phải có ăn, uống, ở và mặc, trước khi lo đến
chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật và tôn giáo…", Việt Nam ta có
câu "Có thực mới vực được đạo".
- Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công ngh iệp nhẹ và công

nghiệp chế biến. Các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến: công
nghiệp giấy, công nghiệp dệt, công nghiệp rượu, bia, công nghiệp giầy da,
công nghiệp dầu ăn, công nghiệp đồ hộp… sử dụng chủ yếu nguyên liệu đầu
vào được sản xuất từ những sản phẩm của nông nghiệp. Nền kinh tế càng phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
triển, nhu cầu sản phẩm thiết yếu của cuộc sống cần phải được chế biến đa
dạng hơn. Bởi vậy, sự phát triển của ngành nông nghiệp có tác động thúc đẩy
cho công nghiệp nhẹ; đặc biệt là công nghiệp chế biến cùng phát triển theo.
- Nông nghiệp cung cấp hàng hoá xuất khẩu. Do đặc thù của sản xuất
nông nghiệp, mỗi Quốc gia có lợi thế phát triển cây trồng, vật nuôi khác nhau
hình thành lợi thế so sánh giữa các Quốc gia về phát triển thương mại Quốc
tế. Vì thế, các Quốc gia có lợi thế về phát triển nông nghiệp sẽ xuất khẩu nông
sản, tạo nguồn ngoại tệ cho đất nước, thúc đẩy kinh tế phát triển. ở những
nước đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
nông nghiệp còn là nguồn tạo ra thu nhập về ngoại tệ hoặc có thể trao đổi lấy
máy móc, trang thiết bị.
- Nông nghiệp nông thôn là nguồn cung cấp sức lao động cho các
ngành kinh tế khác. Nền kinh tế càng phát triển đều có mức tăng tỷ trọng cả
về giá trị cũng như lao động của các ngành phi nông nghiệp; còn ngành nông
nghiệp có xu hướng ngược lại. Xu hướng này có tính quy luật là do sự tiến bộ
khoa học kỹ thuật của các ngành tác động vào nông nghiệp; đồng thời những
tiến bộ kỹ thuật của bản thân nông nghiệp dẫn tới năng suất lao động trong
nông nghiệp ngày càng tăng. Khi năng suất trong nông nghiệp tăng, một bộ
phận lao động của nông nghiệp sẽ cung cấp cho các ngành phi nông nghiệp.
Vì thế, nông nghiệp nông thôn là nguồn cung cấp sức lao động cho các ngành
kinh tế khác.
- Nông nghiệp nông thôn là thị trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá

và dịch vụ của công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Nông nghiệp là một
trong những nhân tố bảo đảm cho các ngành công nghiệp khác như công
nghiệp hoá học, cơ khí, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, dịch vụ sản xuất
và đời sống phát triển. Sự phát triển ổn định của nông nghiệp đòi hỏi phải
cung cấp một lượng hàng ổn định về vật tư, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật,
máy móc nông cụ cũng như các mặt hàng tiêu dùng công nghiệp như vải, xà

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
phòng, đường. Vì thế, nông nghiệp, nông thôn là thị trường tiêu thụ các sản
phẩm của các ngành công nghiệp và dịch vụ.
- Nông nghiệp còn có tác dụng giữ gìn và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, củng cố và bảo vệ an ninh quốc phòng. Phát triển nông nghiệp ở bất cứ
nước nào, cũng gắn liền với việc sử dụng và quản lý các tài nguyên thiên
nhiên như đất đai, nguồn nước, rừng, thực vật và động vật. Một nền nông
nghiệp phát triển, ngoài việc đảm bảo các vai trò nói trên, còn phải góp phần
giữ gìn và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, chống giảm cấp các
nguồn lực, mất đa dạng sinh học, chống ô nhiễm môi trường. Đó là điều kiện
cần thiết cho sự phát triển một nền nông nghiệp ổn định và bền vững.
Hơn nữa, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp gắn liền với cuộc sống
của người nông dân. Vì thế, ở đâu có sản xuất nông nghiệp thì ở đó có dân,
lực lượng nòng cốt giữ gìn an ning quốc phòng, bảo vệ tổ quốc.
* Đặc điểm của ngành sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành kinh tế đặc biệt, khác với công nghiệp và
các ngành kinh tế khác ở lĩnh vực sản xuất, đầu tư và lưu thông hàng hoá. Để
phát triển đúng đắn nền nông nghiệp, việc xem xét và phân tích các đặc điểm
của ngành là rất cần thiết.
- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là sinh vật. Trong khi đối tượng
sản xuất của công nghiệp phần lớn là các vật vô chi vô giác, thì nông nghiệp

có đối tượng sản xuất là sinh vật. Sinh vật bao gồm các cây trồng, vật nuôi và
các sinh vật khác. Chúng có các quy luật tự nhiên riêng (sinh trưởng, phát
triển, phát dục, diệt vong) và đồng thời lại chịu tác động rất nhiều từ ngoại
cảnh tồn tại độc lập với ý muốn chủ quan của con người. Vì thế, trong công
nghiệp con người có thể tác động vào đối tượng sản xuất ở bất cứ phạm vi và
mức độ nào theo ý muốn, thì trong nông nghiệp con người phải nhận thức cho
được quy luật sinh học và quy luật tự nhiên để cho sinh vật phát triển theo

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
chiều hướng có lợi cho con người. Mọi sự can thiệp phù hợp với quy luật sinh
học và quy luật tự nhiên là một yêu cầu quan trọng nhất của bất cứ một quá
trình sản xuất nông nghiệp nào.
- Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế
được. Trong công nghiệp, đất đai là nơi làm nền móng nhà xưởng, thì địa
hình, chất lượng đất không ảnh hưởng nhiều đến năng suất và hiệu quả của
ngành. Còn trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và
không thể thay thế. Thường thì không có sản xuất nông nghiệp nếu không có
đất đai. Đất đai được gọi là tư liệu sản xuất đặc biệt là vì nó vừa là đối tượng
lao động, vừa là tư liệu lao động, vì đất đai chịu sự tác động của con người
như cày, xới để có môi trường tốt cho sinh vật phát triển. Đất đai là tư liệu lao
động, vì nó phát huy như một công cụ lao động. Con người dùng đất đai để
trồng cây và chăn nuôi. Không có đất đai thì không có sản xuất nông nghiệp.
Vì thế số lượng và chất lượng đất đai quy định lợi thế so sánh của mỗi vùng,
cũng như cơ cấu sản xuất của từng nông trại và cả vùng. Hướng sử dụng đất
quy định hướng sử dụng các tư liệu sản xuất khác. Chỉ có thông qua đất đai,
các tư liệu sản xuất mới tác động đến cây trồng, việc sử dụng đất đai đúng
hướng còn quyết định đến hiệu quả sản xuất. Từ đây, cần sử dụng đầy đủ và
hợp lý để vừa làm tăng năng suất đất đai, vừa giữ gìn và bảo vệ đất đai. Quỹ

đất đai phải được bảo tồn cho lợi ích trước mắt cũng như mục tiêu lâu dài.
- Nông nghiệp được phân bố trên phạm vi không gian rộng lớn, phức
tạp và mang tính khu vực rõ rệt. Tích tụ và tập trung cao là đặc điểm cơ bản
của sản xuất công nghiệp. Trái lại, nông nghiệp được phân bố trên phạm vi
không gian rộng lớn, ở đâu có đất, có người là ở đó có sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, đất đai là sản phẩm của tự nhiên, mỗi vùng rất khác nhau về địa
hình, về khí hậu thời tiết, dẫn tới những khác nhau về quy hoạch và bố trí sản
xuất trên mỗi vùng, lãnh thổ. Đặc điểm này do tính chất của đất đai quy định.
Hơn nữa, đất đất với tư cách là tư liệu sản xuất chủ yếu có địa bàn trải rộng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Tính chất này kéo theo sự đa dạng về địa hình, chất đất, nguồn nước, sinh vật
sống ở đó và thời tiết khí hậu. Mỗi vùng có một hệ thống kinh tế - sinh thái
riêng. Do đó, mỗi vùng có lợi thế so sánh riêng, sinh vật phù hợp với lợi thế
so sánh ở từng vùng đó. Vì thế, việc thực hiện sản xuất chuyên môn hoá gắn
liền với phát triển tổng hợp là đặc thù của mỗi vùng.
- Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao. Các cây trồng, vật nuôi
ngoài sự tác động trực tiếp của con người cần phải có thời gian tác động của
tự nhiên nữa, quá trình kết hợp đó không ăn khớp nhịp nhàng, mà xen kẽ
nhau, do vậy trong nông nghiệp có lúc thời vụ nhàn rỗi và có lúc rất căng
thẳng.
Để giảm bớt tính thời vụ, chúng ta cần giải quyết tốt các vấn đề kinh tế
- kỹ thuật như bố trí sản xuất chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp,
mở rộng thêm các ngành nghề, đa dạng hoá trong kỹ năng lao động và đa
dạng hoá trong trang bị công cụ lao động có tính vạn năng. Về kỹ thuật cần
tìm cây trồng, vật nuôi có thời gian sinh trưởng ngắn để có thể sản xuất nhiều
vụ trong năm.
1.1.2.2. Quá trình phát triển nông nghiệp

Nông nghiệp là ngành sản xuất xuất hiện đầu tiên của xã hội loài người.
Quá trình phát triển c ủa ngành nông nghiệp luôn vận động phù hợp với xu
hướng phát triển của nền kinh tế xã hội: phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Quá trình phát triển nông
nghiệp cho tới nay được chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn sản xuất theo hình
thái tự nhiên, đây là giai đoạn sản xuất mang tính chất tự cung tự cấp; giai
đoạn chuyển thể từ sản xuất tự nhiên lên sản xuất hàng hoá, giai đoạn này sản
xuất nông nghiệp đã có một phần dư thừa để bán, để trao đổi; giai đoạn
chuyên sản xuất hàng hoá, là đỉnh cao của sản xuất nông nghiệp, giai đoạn
này sản xuất nông nghiệp chủ yếu là bán để thu được tiền. Vì thế, để đánh giá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
quá trình phát triển nông nghiệp, ta căn cứ chỉ tiêu sản xuất hàng hoá của
nông nghiệp. Cũng như các ngành kinh tế khác, sản xuất nông
nghiệp hàng hoá là để cho người khác sử dụng. Vì thế phát triển nông
nghiệp hàng hoá cũng phải tuân thủ những yêu cầu của sản xuất hàng
hoá nói chung; tuy nhiên ta cần hiểu rõ đặc thù sản xuất nông nghiệp
hàng hoá.
* Đặc thù sản xuất nông nghiệp hàng hoá
Thứ nhất, nông sản hàng hoá là những sản phẩm được sản xuất mang
tính phổ biến (nhiều người cùng sản xuất). Như vậy, mọi thông tin trên thị
trường nông sản cả người bán, mua đều hiểu rất rõ. Vì thế nó mang tính cạnh
tranh gay gắt. Điều này đòi hỏi người sản xuất cần hiểu rõ những diễn biến
của thị trường nông sản để lựa chọn sản phẩm cần sản xuất.
Thứ hai, nông sản hàng hoá dễ hỏng, khó bảo quản do đó phát triển
nông sản hàng hoá đòi hỏi các ngành chế biến bảo quản cùng phát triển theo.
Vì thế phát triển nông sản hàng hoá cũng là động lực thúc đẩy các ngành dịch
vụ, chế biến phát triển.

Thứ ba, sản xuất nông sản gắn liền với đặc điểm sinh học và điều
kiện tự nhiên. Điều này đòi hỏi người sản xuất phải bố trí từng sản phẩm phù
hợp với điều kiện sinh thái mỗi vùng, địa phương. Đồng thời nó cũng tạo ra
thị trường khu vực. Vì thế để nông sản hàng hoá phát triển cần phải tăng khả
năng lưu thông hàng hoá nông sản - nghĩa là cần có sự quan tâm của Nhà
nước để phát triển hệ thống giao thông, mở rộng thị trường phục vụ cho nhu
cầu trong nước và xuất khẩu.
* Chỉ tiêu đánh giá sản xuất hàng hoá của nông nghiệp
- Khối lượng nông sản hàng hoá: là phần khối lượng nông sản phẩm
sản xuất ra đem bán hoặc trao đổi trên thị trường (không tính phần nông sản
phẩm tiêu dùng nội bộ), nó nói lên mức độ đóng góp sản phẩm hàng hoá của
nông nghiệp cho xã hội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Như vậy, sản phẩm hàng hoá sản xuất ra phải đem trao đổi, phải tiêu
thụ được và phải có lãi, do đó bắt buộc hộ phải suy nghĩ, phải tính toán lựa
chọn sản phẩm hàng hoá chứ không thể sản xuất theo kiểu tự cấp, tự túc được
chăng hay chớ. Vì vậy sản phẩm hàng hoá của nông hộ sản xuất ra càng nhiều
chứng tỏ trình độ chuyên môn hoá, trình độ và năng lực sản xuất của hộ càng
cao, lượng hàng hoá lưu thông càng nhiều, thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn
phát triển. Chỉ tiêu này sử dụng để đánh giá trình độ sản xuất hàng hoá cho
từng loại sản phẩm.
Tóm lại, để đánh giá thực chất tình hình phát triển nông sản hàng hoá,
trong quá trình phân tích ta cần kết hợp chặt chẽ các chỉ tiêu trên (vừa phản
ánh mặt hiện vật vừa phản ánh mặt giá trị, vừa phản ánh về mặt số lượng, vừa
phản ánh về mặt chất lượng của nông sản hàng hoá).
1.1.2.3. Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá
Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá phản ánh trình độ

phát triển của nông nghiệp, nông thôn phù hợp với xu hướng phát triển của nền
kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Bởi vì sự phát triển
gia tăng các sản phẩm hàng hoá chứng tỏ nền sản xuất xã hội phát triển, tăng
khả năng lưu thông hàng hoá trên thị trường, hệ thống giao thông, cơ sở hạ
tầng, dịch vụ, chế biến phát triển theo. Hơn nữa nó còn thể hiện năng lực
sản xuất của chủ hộ đã được cải thiện (vốn, kỹ thuật, trình độ tổ chức quản
lý). Cho nên việc phát tri ển nông nghiệp hàng hoá có ý nghĩa rất quan
trọng thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Tuy nhiên để nông nghiệp phát
triển theo hướng sản xuất hàng hoá cần phải có những điều kiện nhất định.
1.1.2.4. Nh ững điều kiện cơ bản quyết định phát triển nông nghiệp hàng hoá
Thứ nhất, người sản xuất phải dám chuyển hướng sản xuất. Tức là họ
phải dám từ bỏ tập quán phương thức sản xuất tự cấp, tự túc để sản xuất sản
phẩm hàng hoá phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của thị trường (cái mà xã hội

S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

16
cn). Ngha l ngi sn xut sn sng u t cỏc ngun lc sn xut
nhng sn phm thu li nhiu nht, v h cng sn sng b tin ra mua
trờn th trng nhng sn phm ỏp ng nhu cu tiờu dựng ca mỡnh m h
thy bn thõn mỡnh t sn xut s kộm hiu qu.
Th hai, ngi sn xut hng hoỏ phi bit sn phm m ngi tiờu
dựng a thớch, ngha l phi ỏp ng c nhu cu th trng (phi cú ngi
tiờu th, phi cú th trng).
Th ba, sn phm hàng hoá phải đợc lu thông, tức là hàng hoá
phải đợc vận chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Vì thế muốn cho
sản phẩm hàng hoá phát triển đòi hỏi cơ sở hạ tầng: hệ thống giao thông,
thông tin, lới điện phát triển theo nhằm tăng khả năng lu thông hàng
hoá giữa các vùng, quốc gia.
1.1.2.5. Cỏc giai on phỏt trin nụng nghip hng hoỏ

Nghiờn cu quỏ trỡnh phỏt trin nn nụng nghip hng hoỏ, nhiu nh
kinh t cho rng quỏ trỡnh ú gm ba giai on[39, 18 - 19],[49, 30]:
- Giai on nụng nghip t cung, t cp: sn xut nụng nghip ch phc
v cho nhu cu ca chớnh mỡnh, ch yu l sn phm lng thc v mt s
sn phm khỏc. Vỡ th giai on ny cụng c lao ng thụ s, sn xut hon
ton da vo t nhiờn, ri ro cao, quy mụ sn xut nh ch nuụi sng bn
thõn mỡnh, khụng cú sn phm d tha nờn khụng cú sn phm hng hoỏ,
khụng cú sn phm trao i, khụng cú th trng.
- Giai on a dng hoỏ sn xut: nn nụng nghip ó phỏt trin mc
cao hn, cỏc loi sn phm phong phỳ hn, hn ch ri ro, sn xut cú sn
phm d tha, cú nhu cu trao i, th trng bt u phỏt trin.
- Giai on nụng nghip sn xut chuyờn mụn hoỏ: phỏt trin sn xut
trỡnh cao, nn sn xut mang tớnh cht chuyờn mụn hoỏ cao, ngi sn xut

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
chỉ kinh doanh một hoặc một vài sản phẩm. Mục tiêu của người sản xuất
không phải cho mình mà sản xuất để bán, để trao đổi nhằm thu lợi nhuận tối
đa. Hình thức sản xuất này phù hợp với loại hình kinh tế trang trại có quy mô
sản xuất lớn, công nghệ hiện đại, năng suất lao động cao, vốn đầu tư cho
sản xuất lớn, khối lượng sản phẩm nhiều, lượng hàng hoá trao đổi trên
thị trường rất lớn. Phấn đấu để phát triển kinh tế đạt trình độ ở giai đoạn
này là mục tiêu của mỗi quốc gia.
1.1.2.6. Phát triển kinh tế trang trại là hướng đi tất yếu của nền nông
nghiệp hàng hoá
Phân tích ở các nội dung trên cho thấy phát triển lo ại hình kinh tế
trang trại đó là giai đoạn phát triển cao của nền KTHH trong nông nghiệp.
Vì vậy phát triển kinh tế trang trại là hướng đi tất yếu của nông nghiệp
hàng hoá.

- Vai trò của kinh tế trang trại trong nền kinh tế xã hội, cho tới nay
ngay cả những nước phát triển thì kinh tế trang trại vẫn là loại hình chủ yếu
của nông nghiệp, nông thôn [43], [53]. ở Mỹ, trang trại gia đình chiếm tới
87% tổng số trang trại, 65% đất đai và gần 70% giá trị nông sản của cả nước.
ở Tây Âu, hầu hết là trang trại gia đình. Nước Pháp với 98000 trang trại đã
sản xuất nông sản nhiều gấp 2,2 lần so với nhu cầu trong nước, với tỷ suất
hàng hoá về ngũ cốc là 95%, thịt, sữa 70 - 80%, rau quả trên 70%. Hà Lan có
128000 trang trại trong đó 1500 trang trại trồng hoa chiếm 70% sản lượng hoa
sản xuất. ở các nước châu á mặc dù trang trại gia đình chưa phát triển như ở
các nước Tây Âu nhưng cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Nhật Bản với trên 4 triệu lao động ở các trang trại (3,7% dân số cả nước)
đã đảm bảo lương thực và thực phẩm cho 125 triệu người (về gạo 107%; thịt
81%; trứng 98%, sữa 89%, rau quả 76 - 95%, đường 94% nhu cầu của xã
hội). Malaysia các trang trại trồng cây công nghiệp hàng năm sản xuất 4 triệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
tấn dầu cọ bằng 75% sản lượng thế giới, 1,6 - 1,8 triệu tấn mủ cao su, 240.000
tấn ca cao, 72.000 tấn dừa quả và 23.000 tấn hồ tiêu [26].
- Điều kiện để phát triển kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, để mô hình kinh tế này phát
triển cần phải có những điều kiện nhất định. Ngoài những điều kiện chung để
phát triển KTHH của nông hộ thì phát triển kinh tế trang trại còn phải có thêm
những điều kiện cụ thể sau:
+ Đất đai: là điều kiện cơ bản, là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể
thiếu được để phát triển kinh tế trang trại. Song tuỳ theo tính chất và phương
hướng sản xuất khác nhau mà yêu cầu quy mô đất đai khác nhau. Nhưng dù
loại hình trang trại nào chăng nữa đều phải có quy mô diện tích lớn hơn nhiều
so với nông hộ cùng phương hướng sản xuất. Thực tế của nhiều nước cho

thấy diện tích bình quân một trang trại rất khác nhau (bảng 1.1), có thể một
vài héc - ta cho tới hàng trăm héc - ta, hàng ngàn héc - ta [26].
Bảng 1.1. Quy mô đất đai bình quân một trang trại ở một số nước
Châu Á
Châu Âu
Tên nước Diện tích (ha) Tên nước Diện tích (ha)
Nhật Bản
Hàn Quốc
Ấn Độ
Philippin
Indonexia
Thái Lan
1,2
1,1
2,0
3,6
3,7
4,2
Italia
Hà Lan
Đức
Pháp
Đan Mạch
Anh
7,9
16,0
27,7
29,2
31,7
63,9

(Nguồn: [26], [82])
+ Vốn: Là nguồn lực quan trọng để mọi doanh nghiệp tiến hành sản
xuất kinh doanh, song đối với trang trại nó có ý nghĩa quyết định phát triển
kinh tế trang trại. Vì trang trại cần có lượng vốn đủ để cho quy mô sản xuất
lớn, đảm bảo khả năng áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất (khoảng
20 triệu đồng) [5 8]. Vì thế để tạo nguồn vốn, Chính phủ cần có những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
chính sách khuyến khích đầu tư, cho vay vốn tạo khả năng tích tụ vốn cho
các chủ trang trại tạo dựng và phát triển kinh tế trang trại.
+ Lao động: Do sản xuất của kinh tế trang trại có quy mô lớn, sản xuất
hàng hoá để bán là chủ yếu; vì thế cần phải có lao động thuê mướn (thường
xuyên, thời vụ) [58]. Điều này đòi hỏi người quản lý phải có trình độ, năng
lực để tổ chức điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, tức là họ phải có
nghệ thuật "dám kinh doanh và biết làm giàu". ở nhiều nước, muốn trở thành
chủ trang trại được Nhà nước công nhận trình độ quản lý và tư cách pháp
nhân thì phải tốt nghiệp các trường lớp đào tạo kỹ thuật và quản lý nông
nghiệp, có kinh nghiệm từ lao động sản xuất kinh doanh một năm ở các trang
trại khác hoặc ngoài nước, có bằng tốt nghiệp về nông học, bằng lái ô tô, máy
kéo, có kiến thức về kỹ thuật, kinh tế, thị trường, pháp luật [26].
+ Phải có sự trợ giúp của Nhà nước, tức là Nhà nước phải tạo ra môi
trường kinh doanh ổn định: thực thi đồng bộ các chính sách đảm bảo cho
trang trại phát triển ổn định, hạn chế rủi ro.
- Đặc trưng của kinh tế trang trại: phát triển kinh tế của trang trại cũng
giống như các doanh nghiệp khác là nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Tuy
nhiên để phát triển kinh tế trang trại đạt hiệu quả cao, cần hiểu rõ đặc trưng
của kinh tế trang trại.
Thứ nhất, sản xuất quy mô lớn mang tích chất chuyên môn hoá, tập

trung hoá các sản phẩm và dịch vụ theo nhu cầu của thị trường. Đây là đặc
trưng cơ bản thể hiện sự khác biệt giữa kinh tế trang trại và kinh tế nông hộ.
Vì vậy giá trị sản xuất và giá trị sản phẩm hàng hoá là chỉ tiêu đánh giá quy
mô trang trại, và tỷ suất hàng hoá đánh giá tính chất chuyên môn hoá của
trang trại. Thường các trang trại có tỷ suất hàng hoá khoảng 70% [58].
Thứ hai, có khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật mới tốt hơn kinh tế
nông hộ. Bởi vì kinh tế trang trại có lượng vốn đầu tư lớn, có khả năng cạnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
tranh với thị trường. Do đó các trang trại luôn luôn thể hiện tính hơn hẳn kinh
tế nông hộ về khoa học và công nghệ sản xuất, năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, có sử dụng lao động làm thuê (thường xuyên và thời vụ). Do
đó chủ trang trại phải là người có năng lực có trình độ tổ chức để bố trí sản
xuất và sử dụng lao động hợp lý.
Thứ tư, các chủ trang trại là những người có ý chí làm giàu, biết làm
giàu và có đủ những điều kiện cần thiết để làm giàu. Tức là chủ trang trại phải
tinh thông thị trường có "tầm nhìn xa" những diễn biến của thị trường để ứng
xử linh hoạt, kịp thời.
- Các loại hình kinh tế trang trại. Tuỳ theo đặc thù của mỗi quốc gia mà
kinh tế trang trại phát triển cũng rất đa dạng và phong phú. Có nhiều tiêu thức
để phân loại trang trại, song chủ yếu vẫn dựa vào những tiêu thức (tham khảo
một số cách phân loại của Mỹ trên bảng 1.2).
Bảng 1.2. Các hình thức tổ chức quản lý trang trại ở Mỹ
Loại trang trại
Số lượng Diện tích
Giá trị nông
sản

1000 trang
trại
Tỷ lệ(%) 1000ha
Tỷ
lệ(%)
Tr.
USD
Tỷ
lệ(%)
Trang trại gia đình
1945,6
86,88
260000
74,7
77907
59,27
Trang trại liên doanh
223,3
9,97
61500
17,67
21520
16,37
Trang trại hợp doanh
59,8
2,67
51,5
0,02
31340
23,84

Các loại khác
10,6
0,48
26500
7,61
683
0,52
Tổng số
2239,3 100
348051,
5
100
13145
0
100
(Nguồn: [61])

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
Số liệu trên bảng 1.2 cho thấy trang trại gia đình chiếm tỷ trọng lớn
(86,88%), trang trại liên doanh và hợp doanh phát triển mạnh (liên doanh là
9,97%, hợp doanh 2,67%).
Có thể nói, có rất nhiều cách để phân loại trang trại, do đó tuỳ thuộc
mục tiêu phân tích mà lựa chọn cách phân loại thích hợp. Song dù cách
phân loại nào chăng nữa thì chỉ tiêu giá trị sản lượng và giá trị sản phẩm
hàng hoá có ý nghĩa quyết định để đánh giá quy mô cũng như trình độ
chuyên môn hoá của trang trại.
Tóm lại, để phát triển nông nghiệp hàng hoá
Một là, phải dựa trên những điều kiện sản xuất nhất định: người chủ hộ

phải năng động, dám nghĩ, dám làm, phải gánh chịu hậu quả trước những
thành công và thất bại; phải có thị trường và cơ sở hạ tầng phát triển. Việc
hoàn thiện những điều kiện chính là mở đường cho kinh tế nông hộ phát triển
theo hướng sản xuất hàng hoá.
Hai là, quá trình phát triển KTHH của nông hộ còn tuỳ thuộc hoàn
cảnh và điều kiện kinh tế của mỗi vùng, quốc gia. Đặc biệt phụ thuộc rất lớn
vào trình độ phát triển công nghiệp hoá của quốc gia đó cùng với việc triển
khai các chính sách có lợi cho phát triển nông nghiệp.
Ba là, phát triển kinh tế trang trại là hướng đi tất yếu của nông nghiệp
hàng hoá, nó phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, là mô hình kinh tế có vai trò quyết định quá trình chuyển từ KTTN lên
KTHH trong nông nghiệp, nông thôn.
1.1.3. Kinh nghi ệm thực tiễn đô thị hoá với hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
1.1.3.1. Trên thế giới
* Quỏ trỡnh đô thị hóa
Trờn thế giới, quỏ trỡnh đô thị hóa đó sẩy ra từ rất sớm cựng với tiến
trỡnh phỏt triển của loài người. Tuy nhiên, cụm từ “đô thị hóa” lại mới chỉ
xuất hiện vào những năm 20 của thế kỷ XX. Thuật ngữ “đô thị hóa” lúc đầu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
xuất hiện ở các tạp chí chuyên đề kinh tế, dần dà phổ cập sang kinh tế học, xó
hội học rồi cuối cùng mới được các nhà kiến trúc đô thị nắm bắt.
Theo một nghiờn cứu khỏc của F. Choay thỡ thuật ngữ “đô thị hóa” đó
ra đời từ năm 1867 trong một tác phẩm của kỹ sư cầu đường người Tây Ban
Nha - Lidefonso Cerda - có tên Teoria General dela Urbanizacion (Lý luận
chung về đô thị hóa). Có một điều thú vị là Lidefonso Cerda đó quan niệm đô
thị hóa không chỉ là sự mở rộng đô thị, sự tăng dân số đô thị mà đó cũn là sự
tiến bộ trong quy hoạch xõy dựng đô thị nữa. Và đó được Cerda dự báo sẽ

nằm trong khuôn khổ của một khoa học và khái niệm về đô thị hóa từ đó đó
được xây dựng.
Quỏ trỡnh đô thị hóa trên thế giới diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là sau
chiến tranh thế giới thứ hai nhờ áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào
việc phát triển kinh tế - xó hội, vỡ vậy mà rất nhiều nước trên thế giới có nền
công nghiệp - dịch vụ - du lịch phát triển mạnh mẽ như: Anh, Mỹ, Pháp,
Đức Hỡnh thành ngày càng nhiều cỏc khu đô thị và ngày càng to đẹp hơn,
hiện đại hơn (New York, Sanchiago, Tokyo, Bắc Kinh ).
Quá trình đô thị hoá của một số nước châu Á: Seoul của Hàn Quốc
được hình thành từ 600 năm trước đây. Song, từ những năm 1990 trở lại đây
đã phát triển nhanh chóng, năm 1990 chỉ có 10 triệu dân chiếm 25% dân số cả
nước; đến năm 1995 đã có 24,4 triệu dân chiếm 45% dân số cả nước. Tokyo
của Nhật Bản từ năm 1960 đô thị hoá diễn ra chóng mặt, với diện tích 2187
km
2
, số dân là 12 triệu người chiếm trên 50% các hoạt động kinh tế xã hội
của cả nước. Bangkok của Thái Lan đô thị hoá phát triển mạnh từ năm 1970,
với diện tích 2400 km
2
, dân số 7 triệu người. Bắc Kinh của Trung Quốc đô thị
hoá phát triển mạnh vào những năm 1977 từ 17,6% dân số đô thị lên 29,04%
năm 1995, với diện tích 17000 km
2
, dân số 7 triệu người [1].
Những số liệu cho thấy, đô thị hoá của các nước châu Á diễn ra mạnh
mẽ trong vòng mấy thập kỷ gần đây. Đồng thời với đô thị hoá là giảm quỹ đất

×