Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Những hướng mới trong điều trị đột qụy não potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.52 KB, 6 trang )

Những hướng mới trong điều
trị đột qụy não


Quan niệm đột quỵ não là một kiểu kết thúc cuộc đời của người
già nay đã lỗi thời. Từ những năm 80 của thế kỷ trước đến nay, tỷ lệ tử
vong ở các nước phát triển đã giảm nhờ chẩn đoán sớm và với các
phương tiện hồi sức tích cực, các đơn vị đột quỵ não cũng như các trung
tâm đột quỵ não đã điều trị bệnh có hiệu quả.
Đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ hai trên thế giới
sau ung thư, đứng hàng đầu về nguyên nhân gây tàn phế ở người trưởng
thành. Hằng năm, ở Mỹ có khoảng 700.000 - 750.000 bệnh nhân mới và tái
phát, chi phí 30 tỷ USD cho điều trị nội trú và phục hồi chức năng. Nguy cơ
xảy ra đột quỵ gia tăng theo tuổi, tăng gấp đôi cứ mỗi 10 năm sau 55 tuổi,
xấp xỉ 28% đột quỵ xảy ra dưới 65 tuổi. Nguyên nhân chủ yếu của đột quỵ
não là tăng huyết áp.
Đột quỵ não gồm hai thể bệnh chính: chảy máu não và thiếu máu não
cục bộ (thiếu máu não). Theo thống kê, đột quỵ thiếu máu não chiếm khoảng
80-85%, đột quỵ chảy máu não chiếm từ 10-15%.
Các biện pháp điều trị củng cố và dự phòng tái phát sau đột quỵ
Để giảm nguy cơ tái phát của các trường hợp thiếu máu não thoảng
qua và đột quỵ thiếu máu não cục bộ do huyết khối vữa xơ động mạch, các
tác giả đã đi đến thống nhất gồm 3 chiến lược hành động sau:
- Khai thông sớm của bất kỳ các trường hợp hẹp nào có nguồn gốc từ
động mạch cảnh trong bởi phẫu thuật khai thông động mạch.
- Giảm dần các yếu tố nguy cơ nguyên nhân mạch máu (tăng huyết áp,
tăng cholesterol, kiểm soát tốt bệnh đái tháo đường, bỏ hút thuốc lá ).
- Điều trị chống kết tập tiểu cầu để ngăn chặn sự tạo thành mảng vữa
xơ động mạch mới và các biến chứng huyết khối vữa xơ động mạch do đứt
vỡ các mảng này.
Các biện pháp cụ thể bao gồm:


+ Thay đổi phong cách sống cố định, nhàm chán, ít vận động và các
thói quen có hại (không hút thuốc lá, chống lạm dụng rượu, hạn chế các
stress), tập luyện thân thể thường xuyên.
+ Duy trì huyết áp tối đa và tối thiểu (< 140/90mmHg).
+ Điều chỉnh các yếu tố nguy cơ (đái tháo đường, tăng huyết áp, vữa
xơ động mạch ).
+ Dùng thuốc chống kết tập tiểu cầu (aspirin, dipiridamol,
clopidogrel ) theo chỉ dẫn.
Sử dụng thuốc điều trị dự phòng đột quỵ
Các thuốc Tây y: Các thuốc chống đông và thuốc chống kết tập tiểu
cầu do ức chế sự tổng hợp thromboxan A2 của tiểu cầu (chất làm dính các
tiểu cầu với nhau và với thành mạch) đồng thời giúp ổn định màng tế bào
làm ADP không giải phóng ra được khỏi màng tế bào để tham gia vào quá
trình kết dính tiểu cầu nên đã được dùng phổ biến trong thời kỳ cấp để ngăn
chặn huyết khối tiến triển và tái phát. Chúng có lợi ích dự phòng lâu dài cho
nhiều nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ đột quỵ bao gồm rung nhĩ, tình
trạng tăng đông Tuy vậy, các thuốc này không làm tiêu cục máu đông và
không thể tái lập nhanh tưới máu não trong giai đoạn cấp. Các thuốc chống
kết tập tiểu cầu chủ yếu bao gồm:
Aspirin
- Với các bệnh nhân có tiền sử gia đình có nguy cơ mạch máu cao
(tiền sử đột quỵ, nhồi máu cơ tim, bệnh động mạch ngoại vi, đái tháo đường)
dùng aspirin giảm được nguy cơ xảy ra đột quỵ não và tim xấp xỉ 19%.
- Với các bệnh nhân có cơn thiếu máu não thoảng qua hoặc đột quỵ
thiếu máu não trước đó, dùng aspirin giảm được xấp xỉ 19-23% đột quỵ tái
phát trong 3 năm (placebo là 13%), tỷ lệ giảm tuyệt đối xấp xỉ (30/1.000/3
năm và 10/1.000/năm). Tác dụng không mong muốn chủ yếu của aspirin là
gây biến chứng chảy máu đường tiêu hóa (0,5%/năm).
Dypiridamol: Giảm nguy cơ đột quỵ ở các bệnh nhân có tiền sử gia
đình có nguy cơ mạch máu khoảng 10% và ở các bệnh nhân có cơn thiếu

máu não thoảng qua hoặc đột quỵ trước đó xấp xỉ 13%. Dypiridamol không
gây biến chứng chảy máu tiêu hóa nhưng gây đau đầu (xấp xỉ 8%), trong
một số trường hợp người bệnh không tiếp tục điều trị thuốc này được.
Aggrenox: Là thuốc kết hợp aspirin + dypiridamol (25mg + 200mg)
làm giảm tác dụng không mong muốn của aspirin và tăng hiệu quả điều trị
dự phòng gấp 2 lần dùng aspirin đơn độc (xấp xỉ 37%). Nghiên cứu dự
phòng đột quỵ châu Âu (ESPS-2) cho rằng phác đồ kết hợp giữa aspirin và
dypiridamol là sự lựa chọn dược lý hứa hẹn để giảm nguy cơ tái phát đột
quỵ.
Clopidogrel: Clopidogrel làm giảm nguy cơ tái phát đột quỵ ở các
bệnh nhân có tiền sử thiếu máu não thoảng qua hoặc đột quỵ thiếu máu não
cục bộ trước đây đạt xấp xỉ 30% và ít gây biến chứng chảy máu tiêu hóa so
với aspirin. Hiện nay thuốc thường dùng là plavix.
Các thuốc y học cổ truyền:
Hoa đà tái tạo hoàn (Huatuozaizao pilis): Liều dùng 8g/lần x 2 lần/24
giờ, một đợt điều trị 30 ngày, có thể uống 3 đợt liên tục và không có tai biến.
Thuốc có tác dụng khu phong khai khiếu, hoạt huyết hóa ứ, tiêu sưng tán
kết. Thuốc đã được nghiên cứu thực nghiệm trên động vật (thỏ, chó, mèo,
chuột) nhận thấy thuốc làm tăng lưu lượng động mạch cảnh gốc và động
mạch cảnh trong, làm tăng cường tính co bóp của cơ tim. Thuốc cũng đã
được nghiên cứu thử nghiệm trên lâm sàng ở nhiều bệnh viện của Trung
Quốc để điều trị cho các bệnh nhân sau đột quỵ não (cả đột quỵ chảy máu và
đột quỵ thiếu máu não) và đã được xác định có sự cải thiện rõ lưu lượng máu
não của bệnh nhân, giảm độ quánh máu, giảm chỉ số kết tập tiểu cầu, cải
thiện khả năng biến dạng hồng cầu.
Luotai: Là panax notogingseng saponin (dạng bột pha tiêm, viên nén,
dung dịch tiêm) dùng để điều trị đột quỵ thiếu máu cục bộ não cấp và bán
cấp do có tác dụng làm bền vững thành mạch máu, cải thiện vi tuần hoàn,
tác động vào quá trình đông máu, giảm đau và chống viêm. Thuốc cũng đã
được sử dụng rộng rãi ở Trung Quốc và được Trung tâm đột quỵ não - Bệnh

viện Trung ương Quân đội 108 nghiên cứu sử dụng có hiệu quả.
Hoạt huyết dưỡng não: Được giới thiệu có tác dụng cải thiện lưu
lượng máu não.
Viên kỷ cúc địa hoàng và tứ vật đào hồng: Được chiết xuất từ mật bò
đã được nghiên cứu điều trị phục hồi sau đột quỵ não có kết quả tại Viện Y
học cổ truyền quân đội.

×