Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Dopping: Thủ phạm gây hội chứng tim to, nghẽn mạch? pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.07 KB, 5 trang )

Dopping: Thủ phạm gây hội chứng
tim to, nghẽn mạch?

Dopping bao gồm các chất làm tăng cường sự chuyển hóa, tăng
trưởng (trong đó có các loại hormon tăng trưởng) nhằm làm tăng cường
độ và hiệu quả của vận động. Lâu nay, người ta cấm vận động viên
dùng dopping trong thi đấu, nhấn mạnh nhiều đến yếu tố đạo đức vì
dopping giúp vận động viên tạo ra những thành tích thắng lợi giả tạo
mà nếu không có dopping thì không thể có được.
Dopping là thủ phạm
Dopping bao gồm các chất làm tăng cường sự chuyển hóa, tăng
trưởng (trong đó có các loại hormon tăng trưởng) nhằm làm tăng cường độ
và hiệu quả của vận động. Lâu nay, người ta cấm vận động viên dùng
dopping trong thi đấu, nhấn mạnh nhiều đến yếu tố đạo đức vì dopping giúp
vận động viên tạo ra những thành tích thắng lợi giả tạo mà nếu không có
dopping thì không thể có được. Nhưng những nghiên cứu trong những năm
gần đây chỉ ra rằng dopping còn đem lại những tác hại khủng khiếp về sức
khỏe.
Nhiều vận động viên từ trước vốn khỏe mạnh nhưng sau những chặng
đua xe đường dài, đấu bóng, chơi quần vợt lăn ra chết đột ngột. Một hội
chứng gần giống hệt nhau của các vận động viên này là tim to đột biến gọi là
hội chứng tim bò tót (corbovinu) và nghẽn mạch.
Bình thường tim có thể tích nhỏ, khối lượng trên dưới 300g. Khi dùng
dopping kích thích sự chuyển hóa và tăng trưởng thì tim phát triển đột biến
to lên gấp đôi, thường 500-600g, có khi vượt quá 800g. Trong khi đó việc
cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ tim từ mạch máu (trước hết động mạch
vành) lại không đáp ứng kịp. Khi cơ tim phát triển quá nhanh mà chất dinh
dưỡng từ mạch máu đưa vào lại không tương thích thì sẽ nảy sinh sự trục
trặc về hệ thống tuần hoàn. Các sợi cơ tim giãn mà không được điều phối
một cách thống nhất dẫn đến việc bơm máu vào cơ tim bị suy giảm. Vì tim
nói riêng, hệ thống tuần hoàn nói chung đảm nhận một trong những chức


năng có tính quyết định cho sự sống còn, nên khi chúng có những rối loạn
như thế thì toàn bộ cấu trúc cơ thể cũng đứng trước bờ vực sụp đổ.
Một trong tính chất của dopping là làm tăng hồng cầu dẫn tới tăng thu
nhận cung cấp ôxy, tăng vận động. Chất dopping có tên Epo dùng trong thể
thao cách đây hơn 10 năm là một ví dụ điển hình. Với chất này, ngay lúc đó
GS. John Adamson - nhà huyết học thuộc Trung tâm Huyết học New York
Mỹ đã cảnh báo về hiệu ứng máu bất thường do nó gây ra. Epo làm tăng
lượng hồng cầu. Khi vận động viên thi đấu, mồ hôi ra nhiều (nhất là trong
điều kiện nóng bức, uống ít nước, thì với lượng hồng cầu tăng lên như thế,
máu của họ sẽ dễ bị cô đặc lại giống như bị “bùn hóa”, “ nhão hóa” dẫn đến
ứ đọng máu, gây nghẽn mạch, đột qụy. Tính chất này của Epo cũng là tính
chất của một số dopping thế hệ mới sau này. Vì lẽ đó Epo cũng như một số
dopping có tính chất này không chỉ bị cấm trong thể thao mà bị cấm dùng
trong các lĩnh vực khác.
Những chứng cớ hiển nhiên
Từ năm 1993 - 2003, người ta ghi nhận được nhiều trường hợp vận
động viên chết đột ngột ngay trên sàn đấu. Những nghiên cứu của các nhà y
học về nguyên nhân cái chết qua phân tích tử thi cho thấy có một mối liên hệ
giữa dopping và chứng tim to, nghẽn mạch. Một vài ví dụ điển hình:
Bác sĩ pháp y Burkhard (Trường đại học Bon, Đức) đã nghiên cứu kỹ
một trường hợp vận động viên thể hình 28 tuổi chết, có quả tim nặng tới
mức kỷ lục 800g. Tại bang Baravia, một vận động viên bóng rổ chết vì tim
phình to quá cỡ; một vận động viên khác lại chết vì nhánh động mạch vành
bên trái bị tắc nghẽn, lục lại hồ sơ mới biết hai vận động viên này thường
xuyên dùng dopping. Gần đây nhất, năm 2003, vận động viên đua xe đạp
nhà nghề Fabrice Salanson, 23 tuổi gục chết trong buồng khách sạn trước
cuộc đua vòng quanh nước Đức. Theo nghiên cứu của các nhà y học thì tay
đua này không chết vì bệnh tim bẩm sinh cũng không chết vì bệnh viêm tim
do virut mà chết vì máu có quá nhiều hồng cầu gây nên sự đọng máu và
nghẽn mạch ở hầu hết các bộ phận của cơ thể. Cho dù không tìm ra vết chích

hay các dấu hiệu dopping do có thể dùng dopping trước đó quá lâu làm cho
vết chích mờ đi và dopping đã bị chuyển hóa. Nhưng sự ứ đọng máu và
nghẽn mạch tìm thấy đã hiển nhiên chứng tỏ rằng trước đó cơ thể của của
Fabrice Salanson đã bị dopping tàn phá dữ dội.
Lời kết
Dopping gồm nhiều loại chất tuy đều kích thích chuyển hóa tăng
trưởng nhưng theo các cơ chế khác nhau và gây ra nhiều tác hại cũng khác
nhau. Hội chứng tim to và ứ máu nghẽn mạch chỉ là một trong số các tác
hại đó. Ở nơi thi đấu, cấm vận động viên dùng dopping và có hội đồng kiểm
tra gắt gao. Song ngoài đó ra, bản thân vận động viên cũng nên tự giác
không dùng trong quá trình luyện tập. Một vài chất dopping hiện nay có
dùng làm thuốc với các chỉ định rất cụ thể (về bệnh, liều lượng, thời gian và
sự theo dõi). Ví dụ: Dùng hormon tăng trưởng chỉ dùng cải thiện chiều cao
của trẻ do thiếu hormon này. Dùng testoste -ron cho người suy giảm tình
dục, tăng chuyển hóa chất đạm. Người bình thường không nên lạm dụng các
số thuốc này để để tăng cường thể lực, chống lão hóa, làm đẹp.

×