Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Liệu pháp hóa trị mới với ung thư trực tràng doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.34 KB, 5 trang )

Liệu pháp hóa trị mới với ung
thư trực tràng

Gần đây, hiểu biết về bệnh ung thư đã có một bước đột phá nhờ
các tiến bộ về sinh học. Tiến trình sinh học ung thư ngày càng hiểu rõ
hơn ở mức độ phân tử, làm cơ sở cho một liệu pháp hóa trị mới: Liệu
pháp nhắm đích phân tử (Moleculaly Targeted Therapies) hay liệu
pháp trúng đích (LPTĐ).
LPTĐ là dùng các loại thuốc để khóa sự tăng trưởng và lan tràn của
ung thư, can thiệp vào các phân tử đặc hiệu trong cơ chế sinh ung thư và sự
tăng trưởng của khối u. Đa số các liệu pháp này còn ở giai đoạn thử nghiệm
tiền lâm sàng, hoặc ở giai đoạn thử nghiệm lâm sàng và một số thuốc đã
được phê chuẩn, đặc biệt do Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ
(US Food & Drug Administration - FDA) phê chuẩn để tung ra thị trường.
LPTĐ được nghiên cứu để dùng riêng lẻ hoặc kết hợp với nhau, hoặc kết
hợp với các liệu pháp khác như hóa trị.
Các đích phân tử (Molecular targets) bao gồm: Oncogen Ras; các
Tyrosin Kinaz, các thụ thể yếu tố tăng trưởng, sự sinh mạch: Telomeraz
Khi khóa các tín hiệu báo cáo, các tế bào ung thư tăng trưởng và sinh
sản vô tổ chức. LPTĐ giúp làm dừng sự tăng trưởng và phân đôi của các tế
bào ung thư. Các đích phân tử khác là sự biểu hiện gen, sự sinh mạch, sự
chết tế bào.
Các thuốc LPTĐ ứng dụng trong điều trị ung thư trực tràng
Phân tử nhỏ ức chế dẫn truyền
Herceptin (trastuzumab): được FDA công nhận là loại LPTĐ đầu tiên
(1998). Hiện đang được thử nghiệm lâm sàng đối với ung thư trực tràng
(UTTT)
Gliver hay Gleevec sử dụng trong điều trị UTTT không mổ được hoặc
đã di căn xa.
Ertitux (Cetuximab) có vai trò trong UTTT di căn, đã thất bại với
phác đồ hóa trị khác.


Các thuốc kháng tăng sinh mạch:
Avastin là loại thuốc kháng tăng sinh mạch đầu tiên, dùng điều trị
UTTT di căn khi các phác đồ hóa trị khác thất bại.
Thuốc kháng tăng sinh mạch cản trở sự phát triển các mạch máu mới
nuôi dưỡng khối ung thư. Nghĩa là phương pháp này có thể “bỏ đói” các
khối u bằng cách cắt đứt đường dẫn máu đến nuôi chúng. Sự sinh mạch
trong một khối u được điều hòa vài hóa chất do cơ thể sinh sản để kích thích
tế bào sửa chữa các mạch máu bị hư hại hoặc tạo ra mạch máu mới. Thuốc
kháng tăng sinh mạch ức chế các chất này. Kết quả là các khối u sẽ tan dần
đến kích thước thật nhỏ và ngủ yên.
Xạ trị
Năm 1890, thế giới bắt đầu ứng dụng tia X của Rơn-ghen và tia gam-
ma của Marie Curie vào điều trị ung thư. Từ 1983-1987, thử nghiệm tia xạ
lâm sàng trước - sau mổ của Tổ chức Nghiên cứu điều trị ung thư châu Âu
(Europeene Orgnization Sur La Recherche De Traitement Du Cancer -
EORTC) đã xác nhận hiệu quả của tia xạ trong điều trị UTTT.
Xạ trị trước mổ với mục đích:
Làm giảm tỷ lệ di căn và tái phát chậu hông.
Làm giảm kích thước khối u và di căn hạch vùng trước mổ.
Làm giảm tỷ lệ viêm ruột do ruột non ít dính vào chậu hông hơn.
Lợi dụng tính chất đáp ứng tia xạ tốt hơn do tế bào ung thư được cung
cấp ôxy đầy đủ.
Có thể phối hợp xạ trị cả trước và sau mổ làm giảm tỷ lệ tái phát tại
chỗ. Tuy vậy, tia xạ trước mổ bệnh nhân chịu đựng tốt hơn tia xạ sau mổ.
Ngoài ra, ở những trung tâm lớn, xạ trị trong khi mổ cũng đã được ứng dụng
cho khối u lớn. Xạ trị trong mổ có thể tránh được tổn hại các cơ quan bằng
cách xạ chọn lọc. Kết hợp với xạ trị trước mổ làm giảm tỷ lệ tái phát và tăng
thời gian sống thêm sau 5 năm.
Liệu pháp miễn dịch
Một phương pháp điều trị đầy hứa hẹn được thêm vào kho vũ khí

chống bệnh ung thư là liệu pháp miễn dịch hay liệu pháp sinh học. Ngày
nay, liệu pháp miễn dịch được xem như là “mô thức thứ tư” hay là vũ khí
thứ tư chống ung thư. 3 mô thức kia là phẫu trị, xạ trị và hóa trị. Liệu pháp
này dùng cả khả năng miễn dịch của cơ thể để chống lại bệnh ung thư. Liệu
pháp miễn dịch có khi được dùng riêng lẻ nhưng thường được sử dụng như
một biện pháp hỗ trợ (nghĩa là dùng cùng lúc hoặc tiếp sau các liệu pháp
khác) để giúp thêm tác dụng chống ung thư của liệu pháp chính. Lĩnh vực
này trong vài năm trở lại đây đã có những bước tiến đáng kể.
Phẫu thuật cắt toàn bộ mạc treo trực tràng (TME) và bảo tồn
thần kinh tự động vùng chậu (ANP)
Năm 1979, Heald - người có công đầu tiên phát hiện ra trực tràng có
mạc treo. Bằng nghiên cứu của mình, ông đã mô tả mạc treo trực tràng gồm
2 lá ôm lấy phần bóng trực tràng và ống hậu môn như 2 mông của trẻ con.
Những kết quả nghiên cứu của ông và các tác giả khác sau này đã khẳng
định có sự hiện diện của tế bào ung thư trong mạc treo trực tràng. Đây là
nguyên nhân dẫn đến việc tái phát ung thư sau mổ. Từ năm 1982-1987, luận
điểm của ông được thế giới công nhận và nhiều tác giả khác đi sâu nghiên
cứu tìm hiểu về vấn đề này.

×