Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Con trâu trong ca dao ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.47 KB, 7 trang )

Con trâu trong dân ca, ca dao



Trong lịch sử can chi đã quen dùng ở phương Đông số thứ tự thứ 2 là Sửu
tượng trưng bằng con trâu. Giờ Sửu được tính từ 1 đến 3h đêm, là thời gian
yên tĩnh nhất, mọi người ngủ say, thế nhưng con trâu lại thức lặng lẽ nhai lại.
Tháng Sửu là tháng Chạp, là tháng mà mọi người hân hoan đón Tết. Trong
12 con vật thời gian, trâu là con vật to nhất, khỏe nhất. Trâu sớm được thuần
hóa, gần gũi với con người, giúp con người trong việc đồng áng nên người
nông dân coi trâu như người bạn thân.Trong ca dao dân ca, trâu được nói
đến nhiều vì trâu đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt ở nông thôn. Từ
việc ví von về tuổi tác đến việc đồng áng, tình yêu nam nữ đều có mặt trâu.
Trâu gần gũi thân thiết với con người như hình với bóng. Thế nên trong cơ
nghiệp nhà nông con trâu được xếp hạng nhất 'Con trâu là đầu cơ nghiệp'.

Tuổi Sửu con trâu kềnh càng,

Cày chưa đúng buổi lại mang cày về.

Trâu thay sức người làm công việc đồng áng nên việc mua sắm trâu là việc hệ
trọng. Nhà nghèo thường khó sắm được trâu để làm mùa, phần nhiều là mướn trâu.

Tậu trâu, lấy vợ, cất nhà

Trong ba việc ấy thật là khó thay

Từ buổi đầu lịch sử, khi dân ta biết trồng cây lúa nước con trâu đã là người bạn
thân thiết gắn bó với nông dân. Tất cả đều phải cần cù làm lụng, hỗ trợ cho nhau
để có miếng ăn.


Trâu ơi ta bảo trâu này

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta

Cấy cày vốn nghiệp nông gia

Ta đây trâu đấy ai mà quản công

Bao giờ ngọn lúa còn bong

Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn



Đôi khi người nông dân cũng tâm tình thì thầm to nhỏ cùng trâu như nói chuyện
với một đứa trẻ con:

Nghé ơi ta bảo nghé này

Nghé ăn cho béo nghé cày cho sâu

Ở đời khôn khéo chi đâu

Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần

Tuy bận rộn vất vả trong những ngày mùa nhưng trâu cũng có ngày thong thả
đứng bên bờ ruộng ăn cỏ tươi hoặc nằm trong chuồng nhỏ nhẹ nhấm bó rơm khô.
Số phận của con trâu và người nông dân gắn bó đồng cam cộng khổ:

Rủ nhau đi cấy đi cày


Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu



Nông dân rất quý con trâu, nó là một phần tài sản của họ. Nó đã được đưa ra so
sánh đánh giá sự giàu nghèo:

Thằng bờm có cái quạt mo

Phú ông xin đổi ba bò chín trâu

Và hình ảnh thằng Cuội chăn trâu cũng thật thà đáng thương:

Chú Cuội ngồi gốc cây đa

Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời

Cha còn cắt cỏ trên trời

Mẹ còn cưỡi ngựa đi chơi cầu vồng

Hình ảnh con trâu cũng được dùng để phê phán những kẻ lừa đảo chỉ biết vì quyền
lợi cá nhân:

Lái trâu, lái lợn, lái bò

Trong ba anh ấy chớ nghe anh nào

Hoặc tỏ thái độ mỉa mai, châm biếm:


Thật thà như thể lái trâu,

Yêu nhau như thể nàng dâu mẹ chồng.



Ai cũng biết buôn bán thì không thể có sự thật thà, quan hệ mẹ chồng, nàng dâu
cũng rất phức tạp, khó có sự dung hòa được. Lại có câu ca dành cho người thích
lấy vợ dại, ngoan hiền:

Vợ dại thì đẻ con khôn

Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm

Bởi vậy ta nên trở về với cái vốn có không nên quá mộng tưởng. Cái gì của mình
có sẵn quý hơn vì nó là có thực:

Trâu ta ăn cỏ đồng ta

Tuy rằng cỏ cụt nhưng là cỏ thơm

Và rất nhiều người bằng lòng với cuộc sống hiện tại, cho như thế là sung sướng
hơn người. “Ai bảo chăn trâu là khổ / Không, chăn trâu sướng lắm chứ?”. Ngồi
lưng trâu ta hát nghêu ngao Con trâu cũng là đề tài để người ta trêu chọc nhau
một cách tình tứ trong những lúc lao động để quên đi nỗi mệt nhọc, vất vả:

Trâu kia kén cỏ bờ ao

Anh kia không vợ đời nào có con


Người ta có trước có sau

Thân anh không vợ như cau không buồng

Cau không buồng như tuồng cau đực

Trai không vợ cực lắm anh ơi

Người ta đi đón, về đôi

Thân anh đi lẻ, về loi một mình.



Hoặc để gợi chuyện làm quen nhau:

Hỡi cô cắt cỏ bên đồng

Nuôi trâu cho béo làm giàu cho cha

Giàu thì chia bảy chia ba

Thân em là gái được là bao nhiêu?

Các cô gái cũng hóm hĩnh, đáo để không kém:

Cưới em tám vạn trâu bò

Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm


Đến khi có vợ rồi nên một lòng một dạ không nên bắt chước những người đi trước
năm thê bảy thiếp để rồi gặp phải cảnh:

Ba vợ n ăm bảy nàng hầu

Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi.

Trâu anh con cưỡi con dòng

Có con đi trước lòng thòng theo sau.

Và đôi khi là những hình ảnh ẩn dụ về những ngang trái mà con trâu phải gánh
chịu:

Con trâu có một hàm răng

Ăn cỏ đồng bằng uống nước bờ ao

Thời sống mày đã thương tao

Bây giờ mày chết cầm dao xẻ mày…



Thịt mày tao nấu linh đình

Da mày bịt trống tụng kinh trong chùa

Sừng mày tao tiện con cờ


Làm dao, cán mác, lược dày, lược thưa…

Thời gian dần qua đi. Theo đó, hình ảnh mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu, hát ngêu
ngao những bài đồng dao cũng đã dần mất đi. Thế nhưng hình ảnh làng quê, đồng
ruộng, cây lúa, con trâu vẫn thấm sâu vào tâm hồn người dân Việt.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×