Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Sự phù hợp của chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế vĩ mô đối với nông nghiệp part 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.69 KB, 10 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

11
nghiệp trong những quốc gia đang phát triển, hoạt động thông qua sự đònh giá quá
cao được kích thích của tỷ giá hối đoái thực nói chung là không có chủ ý. Thiên
lệch giá gây bất lợi cho nông nghiệp này không thể bò loại trừ một cách đơn giản
bằng cách điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghóa. Nó có thể được sửa chữa ngay tại
nguồn gây ra nó, có nghóa là hạ thấp rào cản nhập khẩu vốn bảo hộ cho những
ngành công nghiệp nội đòa một cách không hợp lý và khôi phục lại cân bằng trong
cán cân thanh toán.


Tỷ giá ngoại thương đối với bên ngoài và tỷ giá hối đoái thực:

Sự dòch chuyển giá của nước ngoài cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các giá
nội đòa của hàng hóa có thể xuất khẩu, hàng hóa có thể nhập khẩu, và hàng hóa
nội đòa, và vì vậy ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái thực. Ước lượng những tác động
được kích thích bởi chính sách đối với tỷ giá hối đoái thực trong những nghiên cứu
dẫn ra trước đây giả thiết rằng tỷ giá ngoại thương bên ngoài không đổi được xác
đònh một cách ngoại sinh dưới giả thiết một nước nhỏ. Một sự thay đổi ngoại sinh
trong tỷ giá ngoại thương của một quốc gia tác động đến tỷ giá hối đoái thực theo
những cách khác nhau.



Mặc dù nhiều nhà kinh tế đồng ý rằng tỷ giá ngoại thương xấu đi dẫn đến giảm giá
trong tỷ giá hối đoái thực, nhưng mối quan hệ giữa hai biến số phần nào phức tạp.
Khi giá xuất khẩu giảm so với hàng nội đòa (trong khi giá nhập khẩu không đổi)
cung hàng hóa nội đòa gia tăng. Cùng lúc đó cầu hàng hóa nội đòa giảm do cả tác
động thu nhập và tác động thay thế. Vì vậy, tỷ giá hối đoái thực phải giảm giá để
khử dư cung và khôi phục lại cân bằng trong thò trường hàng hóa nội đòa. Nếu sự
xấu đi trong tỷ giá ngoại thương là do gia tăng trong giá hàng nhập khẩu, tác động
thu nhập và tác động thay thế đối với cầu đẩy theo hướng ngược nhau, nếu tác
động thay thế mạnh hơn, tỷ giá hối đoái thực sẽ giảm giá (Dornbush 1980). Sự thay
thế giữa hàng hóa nội đòa và hàng hóa có thể nhập khẩu trong tiêu dùng càng lớn
và ảnh hưởng của giá xuất khẩu đối với tỷ giá ngoại thương càng lớn thì một sự xấu
đi trong tỷ giá ngoại thương càng có khả năng dẫn đến sự giảm giá thực (Bautista
1987b).

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

12
Giá xuất khẩu có tác động lớn đối với tỷ giá ngoại thương bên ngoài ở Ac-hen-ti-na
và Chi-lê, nơi mà mối quan hệ dương giữa tỷ giá hối đoái thực và tỷ giá ngoại
thương được mong đợi (Valdés 1986). Cải thiện 10% trong tỷ giá ngoại thương

của Pakistan dẫn đến gia tăng 2,4%trong tỷ giá hối đoái thực đối với hàng hóa xuất
khẩu (Chương 7). Ở Phi-lip-pin tỷ giá hối đoái thực đáng lẽ đã cao hơn 22% giữa
1975 và 1984 nếu tỷ giá ngoại thương đã được giữ cùng mức của thập niên 70
(Bautisa 1987b, 52).

Dù rằng chính sách không thể ảnh hưởng một cách trực tiếp đến tỷ giá ngoại
thương, nhưng thay đổi trong tỷ giá ngoại thương có thể ảnh hưởng lớn đến tỷ giá
hối đoái thực và nên tính đến thay đổi này trong khi đánh giá động cơ khuyến
khích tổng hợp đối với sản xuất nông nghiệp.


Những tác động đối với sản lượng, phân phối thu nhập và sự di chuyển nguồn
lực giữa các khu vực kinh tế:

Những tác động về giá tương đối của chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế
vó mô có những ảnh hưởng khác nhau đối với sản lượng nông nghiệp và thu nhập.
Khi nông sản bò đònh giá thấp, sản lượng nội đòa chòu thiệt hại – không những do
hiệu quả tónh của việc sử dụng nguồn lực giảm mà quan trọng hơn còn do có những
tác động bất lợi đối với cung lao động trong nông nghiệp, sự tích lũy vốn, và sự
thay đổi công nghệ trong dài hạn.

Trong ngắn hạn, sự đáp ứng theo giá của sản lượng nông nghiệp giảm theo sự gia
tăng tổng gộp sản lượng, vì khả năng tái phân bổ nguồn lực giảm khi sản phẩm trở
nên phân biệt hơn. Rõ ràng là sự dòch chuyển nguồn lực trong ngắn hạn từ sản
xuất nông nghiệp đến sản xuất phi nông nghiệp khó hơn là dòch chuyển chúng từ
cây lương thực sang cây trồng xuất khẩu, và còn khó hơn là dòch chuyển chúng từ
lúa gạo sang bắp. Quy mô tổn thất sản lượng có thể quy cho hiệu quả tónh thấp hơn
dó nhiên phụ thuộc không những vào độ co dãn cung trong ngắn hạn mà còn vào
giá nông sản bò kéo xuống như thế nào so với các mức giá biên giới - mà nó có thể
khác biệt rất lớn từ quốc gia này sang quốc gia khác.


Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

13
Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới gần đây về tự do hóa ngoại thương trong
19 quốc gia cho thấy rằng trong giai đoạn trước khi tự do hóa, chế độ ngoại thương
của họ thường phân biệt đối xử bất lợi cho nông nghiệp Michaely, Choksi, và
Papageorgiou 1989). Đáng kể hơn, “một khi chính sách này được đảo ngược, tự do
hóa ngay lúc bắt đầu đã mang lại tăng trưởng tăng tốc của khu vực nông nghiệp, và
làm tăng tỷ phần của khu vực nông nghiệp trong GDP của quốc gia” (trang 4). Kết
quả nghiên cứu này cho thấy rằng sản xuất nông nghiệp rất nhạy bén đối với sự
thay đổi của hoàn cảnh.

Ngoài tác động này đối với sản lượng trong ngắn hạn, độ co giãn theo giá của cung
nông nghiệp có những ảnh hưởng động gắn với những thay đổi được tạo ra trong
cung yếu tố sản xuất và trong công nghệ qua thời gian. Thí dụ, mọi người đều biết
rằng tốc độ di dân nông thôn - thành thò là một hàm số của sự khác biệt thu nhập
giữa các khu vực, mà sự khác biệt này được quyết đònh một phần bởi giá nông sản.
Những động cơ khuyến khích về giá dường như cũng thúc đẩy đầu tư tư nhân, và
suất sinh lợi trong trồng trọt cao hơn sẽ thu hút nhiều vốn hơn, cả vốn vật chất và
nhân lực, vào trong nông nghiệp. Giá tương đối ngay cả có thể ảnh hưởng đến đầu

tư công cộng trong một chừng mực nhất đònh. Hơn nữa, những nhà nông sẽ chấp
nhận sử dụng những công nghệ mới và mua những nhập lượng vật chất chứa đựng
công nghệ mới chỉ khi họ kỳ vọng thu nhập của họ sẽ được cải thiện. Điều đó có
nghóa là động cơ khuyến khích về giá cũng ảnh hưởng đến sự phổ biến công nghệ
nông nghiệp và mức năng suất. Mặc dù nghiên cứu về lúa ở Ấn độ tiếp diễn trong
nhiều thập niên, nhưng các giống lúa thích hợp với phân bón hóa học đã bò lãng
quên trong thời gian dài do giá phân bón thường là cao và giá lúa thấp (Schultz
1978).

Hầu hết những nghiên cứu về đáp ứng tổng hợp của nông nghiệp đối với những sự
thay đổi trong giá tương đối đã không tính đến những ảnh hưởng động này, đấy là
chưa nói đến những ảnh hưởng sản lượng và thu nhập bên ngoài khu vực nông
nghiệp. Để nắm bắt một cách đầy đủ những tác động trong phạm vi toàn bộ nền
kinh tế của những thiên lệch giá cả do chính sách gây ra bất lợi cho nông nghiệp,
người ta cần phải nghiên cứu trong khuôn khổ kinh tế vó mô, khuôn khổ này kết
hợp cơ cấu giá cả nội đòa, mô thức sản xuất, và phân phối thu nhập.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

14
Đó là những gì mà tác giả của chương 8 và 9 đã cố gắng làm trong khi xây dựng

các mô hình cân bằng tổng quát động của họ cho Ác-hen-ti-na và Chi-lê. Họ giả
đònh rằng phân bổ đầu tư giữa các khu vực phụ thuộc vào mức sinh lời khác nhau
giữa các khu vực và sự dòch chuyển lao động giữa các khu vực phụ thuộc vào mức
tiền lương giữa các khu vực; và bản thân những mức này bò ảnh hưởng bởi giá sản
phẩm theo khu vực. Họ cũngï giả đònh rằng năng suất lao động trong mỗi khu vực
sản xuất được quyết đònh một cách sinh sôi bởi các “biến số trạng thái” (“state
variables”), như mức đầu tư bình quân đầu lao động của khu vực (thể hiện không
những bởi sự tăng cường vốn mà còn ở công nghệ mới được hàm chứa trong những
nhập lượng vật chất) và giá tương đối. Đây là một sự cải thiện quan trọng đối với
giả đònh được sử dụng khá phổ biến về những sự gia tăng ngoại sinh trong mức
năng suất ở các khu vực sản xuất qua thời gian.

Mô hình mô phỏng được sử dụng để điều tra mức độ đáp ứng theo giá của cung
nông sản ở Chi-lê đã tính đến mức tăng trưởng lòch sử của lực lượng lao động và
tích lũy vốn . Kết quả mô phỏng cho thấy độ co giãn tổng cung (sau 19 năm) 1,4 là
rất cao. Chúng cũng cho thấy mức gia tăng 11,2% giá trò gia tăng trong nông
nghiệp đáp ứng lại mức giảm giới hạn là 10% trong tỷ giá hối đoái thực. Trong
trường hợp Ac-hen-ti-na, thành quả kinh tế, đặc biệt trong nông nghiệp, lẽ ra đã tốt
hơn một cách đáng kể dưới chế độ ngoại thương tự do hơn, bắt đầu vào năm 1950,
cùng với kỷ cương ngân sách và tiền tệ. Vào năm 1984, sản lượng nông nghiệp
đáng lẽ là tăng thêm 174%, sản xuất trong khu vực phi nông nghiệp không tính
khu vực chính phủ, tăng thêm 9% và GDP tăng thêm 46%.

Những kết quả nầy ở Chi-lê và Ác-hen-ti-na gợi ý một cách mạnh mẽ rằng những
nghiên cứu sử dụng những thông số phương trình đơn của hành vi cung động dựa
vào giá dự đoán thích nghi (phỏng theo) (adaptive price expectation) hoặc là điều
chỉnh sản lượng từng phần có khả năng ước lượng không đủ sự đáp ứng của tổng
cung dài hạn của nông nghiệp trong các quốc gia đang phát triển.

Cách làm thông thường là ước lượng tác động của chính sách ngoại thương và chính

sách kinh tế vó mô đối với phân phối thu nhập qua những ảnh hưởng thu nhập khác
nhau của các chính sách này đối với các nông trại lớn và nhỏ, qua loại cây trồng,
và qua mô thức chi tiêu tiêu dùng. Một lần nữa, khuôn khổ cân bằng từng phần
không tính đến những gì xảy ra đối với thu nhập của từng khu vực khi đối mặt với
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

15
những điều chỉnh như sự đáp ứng lại của tiền lương ở đô thò đối với chi phí lương
thực thực phẩm chủ yếu và những dòch chuyển trong cầu của người tiêu dùng
hướng về những sản phẩm thay thế. Vì hầu hết các hộ gia đình vừa tiêu dùng vừa
sản xuất, điều thực sự quan trọng là những tác động ròng đối với họ với tư cách vừa
là người tiêu dùng vừa là nhà sản xuất.

Adelman và Robinson (1978) xây dựng một mô hình cân bằng tổng quát động ở
Hàn quốc để mô phỏng những tác động của các biện pháp chính sách khác nhau,
hầu hết các chính sách này hướng vào khu vực nông thôn, để cải thiện phân phối
thu nhập. Họ tìm thấy rằng nền kinh tế điều chỉnh theo các biện pháp can thiệp
chính sách phần lớn thông qua sự thay đổi của giá và rằng thay đổi trong tỷ giá
ngoại thương nông nghiệp có tác động lớn nhất đến quy mô phân phối thu nhập.
Một mô hình cân bằng tổng quát đa khu vực được sử dụng để cho thấy rằng tự do
hoá ngoại thương ở Phi-lip-pin sẽ dẫn đến sự mở rộng sản xuất nông nghiệp nhiều

hơn sự mở rộng sản xuất phi nông nghiệp và thu nhập nông thôn gia tăng nhiều hơn
thu nhập thành thò (Bautista 1986b) . Những kết quả này phù hợp với giả thiết
chung rằng sản lượng nông nghiệp trong những quốc gia đang phát triển “có thể
ngoại thương” hơn - và vì vậy nhạy cảm hơn đối với thay đổi trong tỷ giá hối đoái
thực - so với sản lượng phi nông nghiệp.

Ở Pê-ru, tự do hóa ngoại thương trong suốt giai đoạn 1979-1982 lẽ ra đã cải thiện
dần dần phân phối thu nhập đối với dân cư thành thò; trong dân cư ở nông thôn,
những người ở các vùng rừng và duyên hải tương đối khấm khá hơn lẽ ra đã có lợi
hơn so với dân cư vùng cao nguyên (chương 2). Từ quan điểm về dinh dưỡng, tất
cả các nhóm dân cư lẽ ra đều có lợi.

Bởi vì khu vực nông nghiệp ở Cô-lôm-bia chủ yếu sản xuất những hàng hóa có thể
xuất khẩu, một chế độ mậu dòch tự do hơn ở đó sẽ gia tăng giá nông sản và tiền
cộng thực và qua đó cải thiện thu nhập trong nông nghiệp và giảm nghèo đói trong
khu vực nông thôn ( chương 3). Ngược lại, những chính sách hạ thấp giá lương thực
thực phẩm nội đòa một cách nhân tạo hoặc trợ cấp cho lương thực thực phẩm nhập
khẩu sẽ làm tăng thu nhập thực của dân cư thành thò và làm cho phân phối thu nhập
của quốc gia xấu hơn.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng


16
Thiên lệch giá cả gây bất lợi cho nông nghiệp trong chính sách ngoại thương và
chính sách kinh tế vó mô thực chất là chuyển nguồn lực ra khỏi khu vực nông
nghiệp. Các chính phủ ở các nước đang phát triển bù đắp phần nào cho sự tháo
chạy của nguồn lực này thông qua chi tiêu công trong nông nghiệp. Chuyển giao
ròng ở Phi-lip-pin từ năm 1970 đến 1982 trung bình hàng năm vào khoảng 25% của
giá trò gia tăng trong nông nghiệp, trong khi ở Ma-lai-xi-a (nơi mà tỷ giá hối đoái
thực không bò đònh giá cao đáng kể) con số này chỉ là 5% (chương 10).

Khái niệm di chuyển nguồn lực giữa các khu vực kinh tế được giới thiệu trong tài
liệu này khác với khái niệm đó được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu không xem sự
khác nhau giữa giá trong nước và giá nước ngoài là một hình thức ngầm ẩn của
thuế hoặc trợ cấp nông nghiệp (thí dụ, xem Ishikawa 1967). Những gì mà họ gọi là
nguồn “vô hình” của chuyển giao từ nông nghiệp qua thời gian thực ra là độ sai
biệt của tỷ giá ngoại thương trong nông nghiệp so với năm gốc. Rõ ràng, trong việc
đánh giá tác động gây biến dạng của chính sách đònh giá trong nông nghiệp, sự
thay đổi qua thời gian của tỷ giá trao đổi thương mại nội đòa không quan trọng
bằng cơ cấu giá nội đòa so với giá nước ngoài (hoặc doanh thu biên, nếu độ co giãn
của cung nhập khẩu và cầu xuất khẩu không phải là vô hạn). Các mức giá trong
quá khứ không đặc biệt hữu ích trong các đánh giá như vậy vì chúng không đại
diện cho một tập hợp thay thế của các mức giá có sẵn hiện hành mà phạm vi của
hành động chính sách có thể liên quan .

Một yếu tố quan trọng nữa cần xem xét là các quốc gia đang phát triển sử dụng
“thặng dư” nông nghiệp được chuyển giao như thế nào. (Myint 1988). Nhiều nước
thực hiện chính sách thay thế hàng nhập khẩu được bảo hộ cao và sử dụng những
nguồn biến dạng giá nội đòa khác đã đạt được các mức hiệu quả thấp trong việc sử
dụng nguồn lực vào sản xuất công nghiệp. Trừ khi sự biến dạng như vậy được sữa
chữa, chuyển giao nguồn lực từ nông nghiệp không có khả năng mang lại lợi ích xã

hội lớn. Có những cơ hội để gia tăng nhanh năng suất nông nghiệp và tăng trưởng
thu nhập nếu nhu cầu về vốn để cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn và để phổ biến
công nghệ mới được đáp ứng đầy đủ. Tuy nhiên, những cơ hội này đã bò bỏ quên
khi các quốc gia tiếp tục phân biệt đối xử bất lợi cho nông nghiệp trong các chính
sách ngoại thương và kinh tế vó mô và cho phép những nguồn lực liên quan chuyển
sang khu vực sản xuất phi nông nghiệp

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

17
Những nghiên cứu quốc gia và khảo sát khu vực:

Những nghiên cứu trong phạm vi quốc gia bắt đầu từ chương 2 với phần thảo luận
về chính sách ngoại thương ở Peru và mức độ tác động của chúng vào cơ cấu
khuyến khích. Franklin và Valdés xây dựng một khuôn khổ đònh lượng để xem xét
tác động của chính sách đối với sản lượng của nông trại và thu nhập thực của các
hộ gia đình ở nông thôn và thành thò. Họ cho thấy rằng sự sụt giảm lớn và dai dẵng
trong tỷ giá hối đoái của Peru vào cuối những năm 1960 đã làm cho sản xuất hàng
hóa có thể ngoại thương thu ít lợi nhuận hơn so với hàng hóa không thể ngoại
thương. Các tác giả đã quy sự sụt giảm này phần lớn là do tăng cường mạnh các
biện pháp hạn chế ngoại thương, như được đo lường bởi thuế quan tương đương

đồng nhất (ước lượng cho mỗi năm từ năm 1949 đến năm 1982), vốn dần dần đóng
cửa nền kinh tế Peru đối với ngoại thương.

Sử dụng một mô hình thông số mức độ tác động không tổng gộp lấy từ Dornbusch
(1974) và Sjaastad (1980), Franklin và Valdés tìm thấy rằng gia tăng thuế quan
đồng nhất đối với hàng chế tạo công nghiệp 10% (với điều kiện thuế quan đối với
hàng hóa nông nghiệp không thay đổi) sẽ áp đặt một mức thuế tiềm ẩn 5,6% (đối
với hàng hóa nội đòa) đối với hàng hóa có thể nhập khẩu như gạo và một mức thuế
tiềm ẩn 6,7% đối với nông sản có thể xuất khẩu như bông và đường. Khi giá nông
sản được đem so với giá của hàng hóa có thể nhập khẩu phi nông nghiệp, tác động
thuế tiềm ẩn đối với cả hai loại hàng hóa nông sản trên là 10%. Những kết quả này
chỉ ra rằng Peru cho phép mức độ thay thế cao giữa hàng hóa nội đòa và hàng hóa
phi nông nghiệp có thể nhập khẩu và rằng hàng hóa xuất khẩu chòu một phần lớn
(hơn một nửa) gánh nặng của thuế quan đối với nhập khẩu.

Ba thành phần của công cụ phân tích là mức độ tác động của chính sách ngoại
thương đối với giá tương đối, cung nông sản, và chi tiêu của hộ gia đình. Các tác
giả đã sử dụng mô hình mô phỏng để đánh giá sự điều chỉnh ngắn hạn và trung hạn
của một sự thay đổi trong mức bảo hộ toàn bộ. Những kết quả thực nghiệm của họ
cho thấy rằng (1) những chính sách ngoại thương trong công nghiệp có tính hạn chế
chứ không phải là những chính sách giá trực tiếp đối với nông nghiệp đã có tác
động lớn nhất đối với mức tiêu dùng thực phẩm và phân phối thu nhập ở Pêru; (2)
như là hậu quả của sự thay đổi trong giá tương đối, có một sự dòch chyển rõ nét
trong khẩu phần (đặc biệt nhất là những người sống ở vùng cao nguyên) bỏ thực
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông

nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

18
phẩm truyền thống để sử dụng thực phẩm nhập khẩu, cùng với việc giảm động cơ
khuyến khích sản xuất các loại hàng hóa này, một sự dòch chuyển làm chậm đi quá
trình tăng trưởng sản xuất hàng nông nghiệp có thể ngoại thương và làm cho Pêru
càng phụ thuộc vào thực phẩm nhập khẩu; và (3) như là người tiêu dùng thực
phẩm, những người sống ở thành thò có mức thu nhập cao được lợi nhiều hơn cả xét
về số tuyệt đối và tương đối so với những người sống ở các khu vực khác của quốc
gia, đặc biệt là những người sống ở khu vực miền duyên hải nông thôn.

Trong chương 3 García García giải thích sự phát triển bùng nổ cà phê của Cô-lôm-
bia và chính sách ngân sách mở rộng đóng góp như thế nào vào thành quả nông
nghiệp sụt giảm từ giữa những năm 1970 đến đầu những năm 1980 (cà phê chiếm
vào khoảng 44% tổng số xuất khẩu chính thức của Cô-lôm-bia). Sự gia tăng đáng
kể trong giá cà phê thế giới từ năm 1975 đến 1979 và chính sách ngân sách mở
rộng và chính sách tiền tệ mở rộng tiếp theo dẫn tới một sự gia tăng mạnh trong giá
tương đối của hàng hóa nội đòa. Đến lượt sự gia tăng tỷ giá hối đoái thực làm cho
việc sản xuất hàng hóa có thể ngoại thương thu được lợi nhuận tương đối ít hơn và
thúc đẩy việc tiêu dùng hàng hóa có thể ngoại thương, điều này mở rộng nhập
khẩu và giảm thặng dư xuất khẩu. Như thế sự phát triển bùng nổ cà phê và chính
sách kinh tê vó mô mở rộng đã làm thiên lệch các động cơ khuyến khích sản xuất
bất lợi cho toàn bộ bộ phận hàng hóa có thể ngoại thương của nông nghiệp.

Sự dao động lớn và không thể tiên đoán được trong giá hàng xuất khẩu ở Cô-lôm-
bia gây khó khăn trong việc duy trì tỷ giá hối đoái thực phù hợp với mức tăng
trưởng dài hạn và sự đa dạng hóa xuất khẩu. Nghòch lý đối với quốc gia này - mà

nó gắn với hiện tượng căn bệnh Hà lan - là ngay cả một phát triển tạm thời đầy hứa
hẹn, ví dụ như một sự gia tăng đột ngột trong giá thế giới của một số hàng hóa có
thể xuất khẩu nào đó, có thể có một tác động tiêu cực đối với phần còn lại của khu
vực hàng hóa có thể ngoại thương, bao gồm nông nghiệp, trong một số năm.

García García cũng tìm thấy rằng sụt giảm trong giá tương đối của nông sản ở Cô-
lôm-bia, có thể quy cho sự phát triển bùng nổ cà phê và sự thâm hụt ngân sách liên
tục, đã làm giảm đáng kể đầu tư trong nông nghiệp và giảm tiền công thực trong
nông nghiệp.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

19
Như tư liệu mà Oyejide đưa ra trong chương 4, chính phủ Ni-giê-ri theo đuổi một
chiến lược thay thế hàng nhập khẩu vào những năm 1960 và đầu những năm 1970
để thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp nhanh chóng. Sự bùng nổ dầu lửa tiếp sau đó
và chính sách ngoại thương, chính sách tỷ giá hối đoái, và các chính sách kinh tế vó
mô khác đi kèm theo đã củng cố xu hướng hướng về công nghiệp hóa này. Đáp
ứng lại - như ở Cô-lôm-bia trong suốt thời kỳ cà phê phát triển mạnh-tỷ giá hối
đoái thực lên giá một cách đáng kể, và khả năng cạnh tranh, sản lượng, và việc làm
trong khu vực hàng hóa có thể ngoại thương không phát triển bùng nổ, đáng kể

nhất là nông nghiệp, đã sụt giảm .

Ni-giê-ri là một trường hợp lý thú bởi vì số thu gia tăng từ dầu hỏa giúp cho chính
phủ có thể đưa ra những cải cách chính sách ưu tiên cho nông nghiệp. Thí dụ, họ
bỏ thuế xuất khẩu đối với nông sản, tổ chức lại ủy ban tiếp thò, trợ cấp phân bón, và
bảo đảm giá tối thiểu đối với nông sản. Mức bảo hộ với tỷ giá hối đoái chính thức
đã làm tăng cả cây lương thực và cây trồng xuất khẩu. Năm 1982, sản xuất cây
trồng nhận được bảo hộ quan trọng đi từ 18% đối với cao su đến 14% đối với bắp.
Chỉ có bông là bò đánh thuế rõ ràng. Dù cho có sự cải cách này, tăng trưởng trong
sản lương nông nghiệp thực vẫn đình trệ hoặc giảm sút.

Người ta tìm ra lý do đình trệ nằm ở cách thức những khu vực khác phản ứng lại
với những động cơ khuyến khích này. Từ năm 1970 đến năm 1984, giá nhà sản
xuất thực giảm đột ngột và sau đó giữ cố đònh. Trong suốt quá trình đó, hàng nông
sản xuất khẩu giảm vào khoảng hơn 20%, xuống đến mức ít hơn 3% tổng số doanh
thu xuất khẩu, và tỷ phần của nông nghiệp trong GDP không tính dầu hỏa giảm từ
60% trong giai đoạn 1960-1965 đến 30% vào giai đoạn 1978-1981. Lao động và
vốn dòch chuyển đến khu vực dòch vụ và cơ sở hạ tầng với mức độ đáng kể. Chi
tiêu của chính phủ gia tăng nhanh hơn GDP (tỷ phần của nó gia tăng từ 6% của
GDP vào năm 1960 đến 30% vào năm 1980) và gây ra sự tích tụ to lớn nợ trong
nước và nợ nước ngoài.

Một trong những biểu hiện gây ấn tượng nhất của tác động kết hợp của hiện tượng
căn bệnh Hà lan và bảo hộ công nghiệp là luồng lao động lớn dòch chuyển ra khỏi
khu vực nông nghiệp. Bởi vì khu vực sản xuất nông nghiệp của Ni-giê-ri rất thâm
dụng lao động, sự thiếu hụt lao động trong nông nghiệp ở vào thời kỳ cao điểm và
năng suất lao động thấp có lẽ là hạn chế ràng buộc đối với sản xuất và là lý do
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn

Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

20
chính đối với thành quả nông nghiệp yếu kém của quốc gia này. Đồng thời, khi
những khu vực khác đã phát triển, chúngï tạo những cơ hội việc làm ngoài nông
trại tốt hơn, đẩy tiền lương ở khu vực nông nghiệp lên cao: chỉ số của chúng từ 100
trong năm 1970 đến 232 trong năm 1982.

Tác động bất lợi của sự bùng nổ dầu hỏa đối với hàng hóa có thể ngoại thương
không phải dầu hỏa nghiêm trọng đối với nông nghiệp hơn là đối với công nghiệp
chế tạo, do các hạn chế lao động đặc biệt của nông nghiệp và bởi vì công nghiệp
chế tạo nhận được mức độ bảo hộ nhập khẩu quan trọng hơn nông nghiệp. Vì vậy,
cả căn bệnh Hà lan gắn với sự bùng nổ dầu hỏa lẫn các chính sách ngoại thương
tổng quát và chính sách tỷ giá đã đánh thuế vào nông nghiệp ở Ni-giê-ri.

Chương 5 đề cập đến Zaire, mà cho đến nay là chủ đề của rất ít nghiên cứu chính
sách kinh tế và có cơ sở dữ liệu nghèo nàn. Nông nghiệp sử dụng 80% lực lượng
lao động và tạo ra 40% GDP, nó chiếm chỉ vào khoảng 16% tổng số xuất khẩu từ
năm 1971 đến 1981. Đồng là sản phẩm xuất khẩu chủ yếu.

Sử dụng một mô hình thông số mức độ tác động đơn giản, Tshibaka xem xét một số
tác dụng của chính sách ngoại thương và chính sách tỷ giá hối đoái đối với nông
nghiệp ở Zaire trong bối cảnh những thay đổi cơ cấu và đònh chế quan trọng vốn
theo sau nền độc lập vào năm 1960. Ông ta kết luận rằng những chính sách này đã

đánh thuế tiềm ẩn cao vào những hàng hóa nông nghiệp có thể xuất khẩu và một
số cây lương thực cạnh tranh với nhập khẩu . Ông ta cho rằng sản xuất hàng hóa có
thể xuất khẩu như dầu cọ, bông, và đậu lạc có thể cạnh tranh với lương thực chính
như gạo và bắp, đây là một cơ hội quan trọng cho Zaire, đất nước chỉ có một thò
trường thế giới nhỏ bé đối với gạo và bắp trắng.

Trong chương 6, Bautista cung cấp một phân tích đònh lượng những tác động của
chính sách ngoại thương và chính sách tỷ giá hối đoái đối với những động cơ
khuyến khích tương đối ở nền kinh tế Phi-lip-pin, đặc biệt trong lónh vực nông
nghiệp. Bautista chứng minh rằng chính sách ngoại thương và chính sách tỷ giá hối
đoái có tác dụng từ năm 1950 đến năm 1980 hầu hết đã ưu tiên cho những nhà sản
xuất hàng hoá cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu so với hàng hóa xuất khẩu. Ông
tính tỷ giá hối đoái hiệu dụng bình quân theo phân loại sản phẩm để nêu bật sự
khác nhau trong các tác động đến các loại hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa nhập

×