Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Sự phù hợp của chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế vĩ mô đối với nông nghiệp pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.88 KB, 29 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2003-2004
Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés 1 Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng


SỰ PHÙ HP CỦA CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ
CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ ĐỐI VỚI NÔNG NGHIỆP
.


Tiềm năng kinh tế nông nghiệp chưa được biến thành hiện thực trong nhiều quốc
gia có mức thu nhập thấp rất lớn. Những khả năng công nghệ ngày càng thuận lợi
hơn, nhưng những cơ hội kinh tế cần phải có để nông dân tại các quốc gia này có
thể biến tiềm năng này thành hiện thực vẫn còn xa vời.

- Theodore W. Schultz, sự biến dạng những động cơ khuyến khích nông nghiệp

Cho tới gần đây, các tác phẩm về phát triển chưa quan tâm nhiều đến tác động
của chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế vó mô đối với những cơ hội kinh
tế có sẵn cho các nhà sản xuất nông nghiệp. Một lý do cho vấn đề này là sự đònh
hướng theo từng khu vực và hạn hẹp của phép phân tích chính sách nông nghiệp
trong thời gian qua; một lý do khác là quan niệm sai lầm phổ biến cho rằng nông
nghiệp chỉ đóng một vai trò hạn chế trong phát triển kinh tế.


Mục tiêu chính của chính sách phát triển kinh tế trong hầu hết những quốc gia đang
phát triển là tiến hành công nghiệp hóa một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, trong
việc thúc đẩy nền công nghiệp nội đòa một cách tích cực, nhiều quốc gia đã làm
biến dạng các động cơ khuyến khích về giá cả gây bất lợi cho nông nghiệp, làm
giảm đáng kể những tác động tích cực của chính sách đầu tư công cộng có chủ đònh
hỗ trợ nghiên cứu nông nghiệp và khuyến nông, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn,
những hoạt động tiếp thò hàng xuất khẩu nông sản. Kết quả là sản lượng nông
nghiệp thấp hơn mức đáng lẽ đã đạt được trong một cơ cấu khuyến khích trung hoà
hơn, sức mua thực của dân cư khu vực nông thôn giảm xuống, và đa số trong những
quốc gia này đã trải qua một ràng buộc đáng kể về phía cầu đối với tăng trưởng
kinh tế.

Chính sách phát triển và những động cơ khuyến khích trong nông nghiệp:

Trong nhiều năm, tỷ phần của nông sản trong tổng sản lượng của những quốc gia
đang phát triển đã giảm xuống. Mặc dù sự dòch chuyển cơ cấu này là kết quả tất
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

2
nhiên của phát triển kinh tế, nhưng các chính sách nhấn mạnh đến công nghiệp hóa
một cách nhanh chóng- thường là bằng những công cụ thay thế nhập khẩu, ít nhất

là ban đầu - đã thúc đẩy tiến trình dòch chuyển cơ cấu này. Những quốc gia đang
phát triển đã thúc đẩy những ngành công nghiệp cạnh tranh với nhập khẩu thông
qua thuế nhập khẩu cao và các biện pháp hạn chế nhập khẩu đònh lượng. Họ cũng
đã cung cấp ngoại tệ cho việc nhập khẩu những hàng hóa tư bản và nguyên liệu
liên quan với các điều kiện rất thuận lợi.

Chính sách thay thế nhập khẩu của những quốc gia đang phát triển khác nhau về
thời hạn, tính toàn diện và cường độ. Trong một vài nơi, đáng chú ýù nhất là Hàn
Quốc và Đài Loan, chiến lược phát triển trở thành hướng ngoại ở giai đoạn ban đầu
của quá trình công nghiệp hoá và khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm chế tạo
công nghiệp thâm dụng lao động. Vào thập niên 70, sự nhấn mạnh dòch chuyển
sang những hàng hóa xuất khẩu thâm dụng kỹ năng, vốn và công nghệ, và chính
phủ bắt đầu giảm việc bảo hộ công nghiệp, chấp nhận tỷ giá hối đoái thực tế hơn,
và phát triển cơ sở hạ tầng xuất khẩu. Tuy nhiên, nói chung chế độ ngoại thương
vẫn còn mang tính bảo hộ mạnh những ngành công nghiệp cạnh tranh nhập khẩu.
Trong giai đoạn đầu tiên của quá trình thay thế nhập khẩu, những quốc gia này
hướng về bảo hộ những ngành công nghiệp nhẹ. Sau đó, họ tập trung vào những
ngành công nghiệp thượng nguồn đòi hỏi lao động có kỹ năng , vốn đầu tư lớn, và
công nghệ tiên tiến hơn. Đây là trường hợp ở hầu hết các nước Châu Mỹ La Tinh
trong suốt những thập niên 50 và 60 và ở nhiều nước châu Á vào thập niên 60 và
70.

Vào thập niên 70 những quốc gia đang phát triển đã bắt đầu nhận ra giá trò của
việc xuất khẩu hàng chế tạo công nghiệp và đã trợ cấp đối với một số hàng công
nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên, các khoản trợ cấp này không bù đắp được một cách
đầy đủ những thiên lệch chung bất lợi cho xuất khẩu, và một vài khoản khuyến
khích chỉ được thực hiện nếu những nhà sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nhập
lượng nhập khẩu.

Những nhà sản xuất hàng nông sản xuất khẩu ở trong tình trạng thậm chí còn xấu

hơn. Họ không nhận được bất kỳ một khoản trợ cấp nào, và hầu hết nông sản phải
chòu thuế xuất khẩu (được áp dụng một cách rõ ràng hoặc ngầm ẩn thông qua
chính sách giá của các hội đồng tiếp thò nhà nước)
1
. Thiên lệch ưu đãi đô thò trong
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

3
các chính sách của các quốc gia đang phát triển cũng có xu hướng giữ giá thực
phẩm thấp (Lipton,1982), với kết quả là mức tiền lương chung được duy trì ở mức
thấp và các xí nghiệp công nghiệp có thể thu hút lao động từ nông nghiệp với chi
phí thấp. Thêm nữa, những nhà sản xuất nông sản phải trả giá cao hơn cho các
nhập lượng từ công nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, và những công cụ canh tác
do chúng được bảo hộ nhờ sản xuất trong nước. Trợ cấp cho những nhập lượng
trong nông nghiệp chỉ bù đắp một phần nhỏ cho những nhà sản xuất nông nghiệp
do những mức giá nông sản được đònh thấp một cách nhân tạo.

Ngoài những tác động trực tiếp đối với những động cơ khuyến khích sản xuất nông
nghiệp, các biện pháp hạn chế nhập khẩu hàng công nghiệp làm giảm cầu đối với
hàng nhập khẩu và vì vậy giảm giá ngoại tệ. Điều này làm cho giá những hàng hóa
có thể ngoại thương tính theo nội tệ giảm so với giá của những hàng hóa không thể

ngoại thương và một cách gián tiếp không khuyến khích sản xuất hàng hóa có thể
ngoại thương . Trợ cấp xuất khẩu hàng chế tạo công nghiệp có cùng tác động về
mặt đònh tính giống đối với tỷ giá hối đoái (vì rằng chúng có xu hướng gia tăng
cung xuất khẩu ); thuế xuất khẩu nông sản có tác động ngược lại. Khu vực nông
nghiệp đặc biệt dễ bò tổn thương bởi các biến dạng trong tỷ giá hối đoái thực bởi vì
sản lượng nông nghiệp của những quốc gia đang phát triển có xu hướng có thể
ngoại thương cao, cho dù nó được sản xuất bởi những quốc gia đang phát triển có
thu nhập cao như Chilê ( được thảo luận trong chương 9 của tài liệu này) hoặc là
những quốc gia có thu nhập thấp như Zaire (chương 5). Không có gì đáng ngạc
nhiên, tự do hóa ngoại thương và quản lý tỷ giá hối đoái thực dường như là có tác
động tích cực đối với sản xuất nông nghiệp hơn là sản xuất phi nông nghiệp (như
đã được chỉ ra trong chương 8 bàn về Ac-hen-ti-na).

Tỷ giá hối đoái thực cũng có thể bò ảnh hưởng bởi sự mất cân bằng trong tài khoản
đối ngoại của quốc gia. Thành phần không thể bền vững trong thâm hụt tài khoản
vãng lai – ví dụ do việc vay mượn nước ngoài quá nhiều – được dùng làm cơ sở để
bảo vệ tỷ giá hối đoái được đònh giá cao, được minh họa bởi kinh nghiệm của Phi
lip pin sau cú sốc giá dầu năm 1973-1974 và năm 1978-1980 (chương 6).

Một yếu tố nữa có thể làm cho tỷ giá hối đoái tăng lên là căn bệnh Hà lan – nó
được mang tên này do kinh nghiệm của Hà lan với việc phát hiện ra khí đốt tự
nhiện. Căn bệnh này xuất hiện khi có sự phát triển bùng nổ trong một hàng hóa có
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp


R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

4
thể ngoại thương làm giảm khả năng sinh lợi của việc sản xuất những hàng hóa có
thể ngoại thương khác bằng cách trực tiếp đặt giá cao để thu hút nguồn lực khỏi
chúng. Căn bệnh Hà lan thường đề cập đến cách thức theo đó việc chi tiêu và sự
dòch chuyển nguồn lực liên quan đến sự phát triển một tài nguyên thiên nhiên ảnh
hưởng đến nền kinh tế quốc gia (Corden và Neary 1982). Chương 4 thảo luận sự
bùng nổ dầu lửa vào thập niên 70 ảnh hưởng đến nền kinh tế Ni-giê-ri như thế nào,
trong khi chương 3 xem xét kinh nghiệm của Cô-lum-bia với sự phát triển nhanh
chóng cà phê trong thời kỳ 1975-1979.

Ở đây cần phân biệt giữa tỷ giá hối đoái danh nghóa, tỷ giá hối đoái hiệu dụng và
tỷ giá hối đoái thực. Tỷ giá hối đoái danh nghóa đề cập đến giá tương đối của hai
đồng tiền- thí dụ , số đơn vò nội tệ trên mỗi đơn vò ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái hiệu
dụng là mức tỷ giá hối đoái danh nghóa (hay chính thức) được điều chỉnh thuế và
trợ cấp liên quan đến ngoại thương, đó là số đơn vò nội tệ thực sự được trả bởi nhà
nhập khẩu hoặc nhận được bởi nhà xuất khẩu cho mỗi đơn vò ngoại tệ. Bằng cách
điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghóa hoặc thuế hoặc trợ cấp trong ngoại thương,
chính phủ có thể thay đổi tỷ giá hối đoái hiệu dụng cho bất kỳ loại hàng hóa có thể
ngoại thương nào so với các loại hàng hóa có thể ngoại thương khác và vì vậy ảnh
hưởng đến khả năng sinh lợi tương đối (thí dụ, xem chương 6 về Phi-lip-pin và
chương 7 về Pakistan).

Tỷ giá hối đoái thực là giá tương đối của hai hàng hóa, được biểu hiện bằng tỷ lệ
giá nội đòa của hàng hóa có thể ngoại thương trên giá của hàng hóa không thể
ngoại thương. Tỷ giá này thường được sử dụng để đo lường lợi nhuận tương đối
trong việc sản xuất hàng hóa có thể ngoại thương so với hàng hóa không thể ngoại
thương. Thông thường chính phủ thay đổi tỷ giá danh nghóa để điều chỉnh tỷ giá hối

đoái thực (Valdés và Siamwalla 1988). Tuy nhiên hai tỷ giá này không tương ứng
1-1. Nếu giá ở nước ngoài và các biện pháp hạn chế ngoại thương được giữ không
đổi, tác động của một sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái danh nghóa đối với tỷ giá hối
đoái thực sẽ phụ thuộc vào cách giá của hàng hóa không thể ngoại thương thay đổi
đáp lại những chính sách kinh tế vó mô được thực hiện. Vì vậy, chính sách tiền tệ
và chính sách thu chi ngân sách của một quốc gia, việc vay mượn nước ngoài, và
việc quản lý tỷ giá hối đoái danh nghóa có thể ảnh hưởng đáng kể đến tỷ giá hối
đoái thực và do đó ảnh hưởng đến khả năng mang lại lợi nhuận của việc sản xuất
hàng hóa có thể ngoại thương.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

5




Tác động trực tiếp của chính sách ngoại thương đối với giá tương đối:

Như những thảo luận trước đây chỉ ra, bất kỳ phân tích nào về tác động của chính
sách ngoại thương đối với giá tương đối đều phải phân biệt giữa hàng hóa có thể
nhập khẩu và hàng hóa có thể xuất khẩu, và giữa hàng chế tạo công nghiệp có thể

xuất khẩu và hàng nông sản có thể xuất khẩu . Ở mức tổng gộp, thiên lệch về giá
của một chế độ ngoại thương tạo thuận lợi hoặc gây bất lợi cho sản xuất hàng hóa
có thể xuất khẩu so với hàng hóa có thể nhập khẩu có thể được thể hiện bởi tỷ lệ
của tỷ giá hối đoái hiệu dụng của hàng xuất so với tỷ giá đó của hàng nhập. Nếu tỷ
lệ này nhỏ hơn 1, quốc gia này đang thúc đẩy sản xuất hàng hóa có thể nhập khẩu
so với hàng hóa có thể xuất khẩu, mà điều này có xu hướng làm giảm quy mô
ngoại thương. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 1, giá đang ưu đãi đối với sản xuất hàng xuất
khẩu và bất lợi cho hàng thay thế nhập khẩu, và vì vậy khả năng ngoại thương gia
tăng. Tỷ lệ bằng 1 cho thấy rằng không khuyến khích xuất khẩu cũng như nhập
khẩu và động cơ khuyến khích tương đối cho việc bán hàng nội đòa và xuất khẩu là
“trung hòa” (Bhagwati 1987). Thước đo của mức thiên lệch ngoại thương tổng hợp
này được sử dụng trong chương 6 để chứng minh bằng tư liệu về sự phân biệt giá
yếu dần trong chính sách ngoại thương ở Phi-lip-pin bất lợi cho những nhà sản xuất
hàng xuất khẩu trong suốt giai đoạn 1950-1980.

Trong việc thể hiện những tác động trực tiếp của chế độ ngoại thương đối với các
động cơ khuyến khích sản xuất giữa những hàng hóa có thể ngoại thương, những
ước lượng về tỷ lệ bảo hộ danh nghóa được sử dụng một cách rộng rãi trong những
tài liệu thực nghiệm. Tỷ lệ này chỉ mức độ mà giá nội đòa của một sản phẩm vượt
quá giá trò ngoại thương tự do của nó (đó là giá trò của nó khi không có các biện
pháp hạn chế ngoại thương) hoặc là giá biên giới, được đánh giá theo tỷ giá hối
đoái chính thức. Tỷ lệ bảo hộ hiệu dụng sẽ cung cấp một thước đo chính xác hơn, vì
nó có tính đến việc bảo hộ hoặc trừng phạt do việc đònh giá những nhập lương
trung gian , nhưng rất khó ước lượng tỷ lệ này với các dữ liệu hạn chế có sẵn ở hầu
hết các quốc gia đang phát triển. Dẫu sao, cơ cấu bảo hộ sẽ không thay đổi đáng kể
nếu chi phí cho những nhập lượng trung gian được bao gồm trong phân tích, bởi vì
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc

Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

6
những nhập lượng như vậy chiếm tỷ phần nhỏ trong giá trò của sản lượng nông
nghiệp và bởi vì “hầu hết trợ cấp nhập lượng nông nghiệp” là dưới mức biên tế
( Krueger, Schiff, và Valdés 1988,258).

Chính sách thay thế nhập khẩu của các quốc gia đang phát triển dẫn đến một cơ
cấu khuyến khích vốn phân biệt chống lại những nhà sản xuất hàng xuất khẩu và
sản xuất sản phẩm sơ cấp. Trong số những quốc gia đang phát triển ở Châu Á,
Băng- la- đét và Phi-lip-pin có tỷ lệ bảo hộ danh nghóa đối với việc sản xuất cạnh
tranh nhập khẩu cao hơn nhiều so với sản xuất xuất khẩu; và kể từ đầu thập niên
70, các sản phẩm chế tạo công nghiệp xuất khẩu của họ được hưởng mức bảo hộ
trực tiếp lớn hơn sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu (chương 10).

Tác động giá trực tiếp của chính sách ngoại thương của các quốc gia đang phát
triển cũng khác nhau trong phạm vi nông nghiệp .Theo những kết quả nghiên cứu
gần đây của Ngân Hàng Thế Giới ( Krueger, Schiff, và Valdés 1988), các nông sản
xuất khẩu quan trọng nhất thì “không được bảo hộ” (bò đánh thuế) nặng hơn những
lương thực thực phẩm chủ yếu – có lẽ do mong muốn tự túc về lương thực thực
phẩm và sự dễ dàng về mặt chính trò và hành chính của việc đánh thuế vào cây
trồng xuất khẩu thương mại so với cây lương thực để tồn tại. Nhiều quốc gia đang
phát triển - đặc biệt là những quốc gia có mức thu nhập cao như Chi lê, Hàn Quốc,
và Ma-lai-xi-a- đã bảo hộ sản xuất lương thực thực phẩm thông qua các biện pháp
hạn chế ngoại thương.


Hai biến số mà các nhà kinh tế chính trò học thường sử dụng để giải thích sự khác
nhau trong việc bảo hộ nông nghiệp giữa các quốc gia đang phát triển là thu nhập
bình quân đầu người và tỷ phần của nông nghiệp trong tổng sản lương nội đòa
(GDP) (Anderson 1986).
2
Người ta nhận thấy rằng những quốc gia đang phát triển
thu nhập thấp, mà những khu vực kinh tế khác đóng góp chỉ một lượng nhỏ đối với
tổng số sản xuất, có nhu cầu đánh thuế nông nghiệp nhiều hơn. Trên chính trường
đối với việc bảo hộ, tầng lớp những nhà công nghiệp tập trung ở thành thò, được
giáo dục tốt hơn và với số lượng ít hơn, có thể vận động hành lang đối với chính
phủ một cách có hiệu quả hơn so với những nhà nông tuy đông hơn nhưng sống
phân tán. Khi quốc gia trở nên giàu hơn và những ngành công nghiệp nội đòa được
mở rộng, thì thuế nông nghiệp trở nên ít cần thiết, và việc tổ chức một cuộc vận
động chính trò nhằm đề xuất nguyện vọng của nông dân trở nên dễ dàng hơn.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

7
Thêm nữa, người công nhân thành thò ít có khả năng chống đối giá nông sản cao
hơn khi thu nhập của họ gia tăng.


Mối quan hệ dài hạn này chỉ được khẳng đònh một phần trong nghiên cứu của Ngân
Hàng Thế Giới, nghiên cứu này so sánh mức bảo hộ danh nghóa cho hai nhóm cây
lương thực cạnh tranh nhập khẩu chính và sản phẩm được xuất khẩu trong 16 quốc
gia đang phát triển suốt giai đoạn 1975-1979 và 1980-1984. Chỉ có 9 trong số 16
sản phẩm trong 2 nhóm thể hiện mức bảo hộ bình quân vào năm 1980-1984 cao
hơn 1975-1979. Trên tổng thể, dường như chính sách giá cả chuyên biệt trong từng
khu vực suốt nửa đầu thập niên 80 đã không cải thiện được “cơ hội kinh tế”, như
giáo sư Schultz đề cập chúng trong lời tựa đầu chương này.

Những quốc gia đang phát triển đã theo đuổi những kiểu bảo hộ nông nghiệp khác
nhau. Thí dụ, Hàn quốc phân biệt đối xử gây bất lợi cho nông nghiệp vào đầu thập
niên 70, nhưng rồi chuyển sang bảo hộ vào suốt giai đoạn giữa thập niên 80. Sự
dòch chuyển này được quy là do “những khó khăn xã hội và chính trò liên quan đến
sự điều chỉnh nguồn lực giữa các khu vực” cùng với sự dòch chuyển nhanh chóng
trong lợi thế so sánh ở Hàn quốc từ nông nghiệp sang công nghiệp (Honma và
Hayami 1987,59).

Ngược lại, Ma-lai-xi-a đánh thuế rất nặng những nhà sản xuất cây trồng xuất khẩu
(cao su và dầu cọ), họ chủ yếu không phải gốc người Malai ( Jenkins và Lai
1989), nhưng lại bảo hộ những nhà nông sản xuất gạo có quyền lực chính trò người
Mã-lai. Những chính sách giá nông sản ở Sri-Lan-ka ban đầu tương tự với những
chính sách giá ở Ma-lai-xi-a. Cho tới giữa những năm 70, Sri-Lanka đánh thuế vào
những nhà sản xuất cây trồng công nghiệp rất thành đạt (trà và cao su) để tài trợ
cho những chi tiêu xã hội lớn của nó. Chi phí chính trò tương đối nhỏ bởi vì những
đồn điền trà và cao su sử dụng một số lượng ít công nhân, chủ yếu là người Tamil.
Cùng lúc nước này bảo hộ sản xuất gạo, được thống trò bởi người Sin-ha-li có ảnh
hưởng lớn về mặt chính trò. Khi thặng dư từ các vụ trà bắt đầu giảm và nguồn lực từ
những bộ phận khác của nền kinh tế không đủ bù đắp sự sút giảm này, những nhà
chính trò ở Sri-Lanka phải “dựa vào chi tiêu bằng cách chòu thâm hụt và những
cách thu xếp nhanh khác” (Bhalla 1988,90). Cuối cùng một cuộc khủng hoãng kinh

tế xảy ra tiếp theo và vào năm 1997 Sri-Lan-ka phải chấp nhận một chiến lược tự
do hóa.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

8

Những tác động gián tiếp của giá có thể quy là do sự biến dạng tỷ giá hối đoái:

Như đã đề cập trước đây, chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế vó mô cũng
có thể có tác động gián tiếp đến những động cơ khuyến khích nông nghiệp do sự
rối loạn mà các chính sách này tạo ra trong tỷ giá hối đoái thực. Dù thường không
có chủ đònh , những tác động gián tiếp có thể có ảnh hưởng đến động cơ khuyến
khích sản xuất lớn hơn các biện pháp can thiệp chuyên biệt theo khu vực của chính
phủ, nhưng người ta hiểu biết rất ít về chúng.

Một số những nghiên cứu trên phạm vi quốc gia trong tài liệu này sử dụng phân
tích cân bằng tổng quát dựa vào mô hình nền kinh tế mở nhỏ
3
để chứng minh rằng
thuế nhập khẩu đánh trên hàng nhập khẩu dẫn đến một sự gia tăng theo tỷ lệ trong
giá nội đòa của hàng hóa có thể nhập khẩu so với hàng hóa nội đòa và một cách

gián tiếp dẫn đến sụt giảm trong tỷ giá hối đoái thực và trong giá tương đối nội đòa
của hàng hóa có thể xuất khẩu. Tương tự , thuế xuất khẩu không những làm giảm
một cách trực tiếp giá nội đòa của hàng hóa có thể xuất khẩu, mà còn gián tiếp gia
tăng tỷ giá hối đoái thực và giá nội đòa của hàng hóa có thể nhập khẩu (Lerner
1936), trong khi đó trợ cấp xuất khẩu có tác động ngược lại. Quy mô của những tác
động gián tiếp này phụ thuộc vào mức độ có thể thay thế giữa hàng hóa có thể
ngoại thương và hàng hóa nội đòa trong sản xuất và trong tiêu dùng. Yếu tố này
được gọi là thông số mức độ tác động. Ở Ác-hen-ti-na, Chi-lê, Cô -lum-bia, Ni-giê-
ri-a, Pê-ru, Phi-lip-pin và Zai-re, mức bảo hộ mạnh những sản phẩm công nghiệp
đã đánh một mức thuế gián tiếp đáng kể lên hàng nông nghiệp cạnh tranh nhập
khẩu và sản xuất xuất khẩu (Valdés).

Thuế quan và các biện pháp hạn chế đònh lượng đối với hàng nhập khẩu công
nghiệp, cũng như trợ cấp đối với hàng xuất khẩu công nghiệp, cũng dẫn đến sự
đònh giá quá cao tỷ giá hối đoái thực, trong khi thuế xuất khẩu nông sản có tác
động bù đắp, ngoại trừ trường hợp cầu nước ngoài không co giãn. Kinh nghiệm của
Phi-lip-pin cho thấy ảnh hưởng quan trọng của các biện pháp hạn chế ngoại thương
đối với tỷ giá hối đoái thực ( chương 6).

Sự thâm hụt không thể bền vững trong tài khoản đối ngoại là một nguồn nữa của sự
đònh giá quá cao tỷ giá hối đoái trong các quốc gia đang phát triển. Vì thế các
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh

Hiệu đính: Quang Hùng

9
chính sách kinh tế vó mô có ảnh hưởng đến cán cân thanh toán thì cũng ảnh hưởng
đến tỷ giá hối đoái thực. Khi doanh thu xuất khẩu dầu ở Ni-giê-ri-a gia tăng vào
thập niên 70, chi tiêu của chính phủ gia tăng mạnh, chính sách tiền tệ trở nên có
tính mở rộng và lạm phát bám theo sát gót. Vì tỷ giá hối đoái danh nghóa được giữ
cố đònh hoặc thậm chí cho tăng dần dần (chương 4), tỷ giá hối đoái thực của đồng
naira của Ni-giê-ri-a lên giá đáng kể.


Suốt thập niên 70, nhiều quốc gia nhập khẩu dầu hỏa trong phần của thế giới đang
phát triển chủ yếu dựa vào vốn nước ngoài để bù đắp cho những khoản thâm hụt
lớn trong tài khoản vãng lai trong suốt thập niên 70. Đối với một số quốc gia,
nguồn tài trợ từ bên ngoài với số lượng lớn dẫn đến vấn đề khó khăn trong việc trả
gốc và lãi nợ vay rất nghiêm trọng. Ở Phi-lip-pin, sự gia tăng quan trọng vay mượn
nước ngoài cùng với chính sách kinh tế vó mô mở rộng kèm theo đã là nguyên nhân
tạo ra khoảng một phần ba mức đònh giá quá cao được ước tính của tỷ giá hối đoái
thực trong suốt giai đoạn từ 1975-1980 (chương 6).

Cô-lum-bia cũng trải qua một sự lên giá đáng kể tỷ giá hối đoái thực, trường hợp
này do hậu quả của căn bệnh Hà lan mà đất nước này không thể chế ngự được từ
năm 1975 đến 1983. Căn bệnh này gắn với sự phát triển bùng nổ cà phê trong giai
đoạn 1975-1979, mang lại sự gia tăng đáng kể trong thâm hụt chính phủ, trong
cung tiền tệ và một sự sụt giảm mạnh trong giá nội đòa của hàng hóa có thể ngoại
thương không phải cà phê so với giá của hàng hóa không thể ngoại thương. Chính
phủ có thiên hướng chi tiêu biên tế cao đối với hàng hóa phi ngoại thương, hậu quả
là chi tiêu của chính phủ tăng lên nhanh chóng, đặc biệt từ năm 1978 đến năm
1983 và giúp tạo ra dư cầu đối với hàng hóa không thể ngoại thương làm cho giá
tương đối của chúng tăng lên.


Sự đònh giá quá cao tỷ giá hối đoái do cả các biện pháp hạn chế ngoại thương
chuyên biệt theo khu vực lẫn do thâm hụt không thể bền vững trong tài khoản đối
ngoại, đã tạo ra tác động gián tiếp tiêu cực đối với giá của nông sản có thể ngoại
thương chủ yếu trong những quốc gia đang phát triển (Kruger , Schiff, và Valdés
1988). Những ước lượng của các tác động giá này thay đổi từ giá trò trung bình thấp
4,3% và 9,5% cho giai đoạn 1975-1979 và 1980-1984 của Ma-lai-xi-a đến giá trò
cao nhất là 66% và 89% cho cùng các giai đoạn tương ứng ở Gha-na. Nhiều quốc
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

10
gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia có mức thu nhập thấp, đã duy trì
những mức không bảo hộ tổng thể cao (những tác động gián tiếp và trực tiếp) cho
cả các cây trồng xuất khẩu và thực phẩm cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Thật
đáng ngạc nhiên, trong vài trường hợp, những tác động giá gián tiếp lớn hơn rất
nhiều so với mức bảo hộ danh nghóa trực tiếp. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp
mức bảo hộ trực tiếp dương đối với cây lương thực thấp hơn tác động về giá gián
tiếp âm có thể quy cho sự đònh giá quá cao tỷ giá hối đoái.


Ở Phi-lip-pin, sự kiểm soát nhập khẩu và ngoại hối thònh hành có tác động trực tiếp

đối với giá của sản phẩm nông nghiệp nội đòa lớn hơn tác động đối với giá của sản
phẩm phi nông nghiệp trong suốt giai đoạn 1950-1961 (chương 6). Cùng lúc đó, tác
động gián tiếp của sự đònh giá quá cao tỷ giá hối đoái thực góp phần đáng kể vào
sự giảm giá của nông sản so với giá của hàng hóa nội đòa. Khi chính sách ngoại
thương trở nên tự do hơn vào những thập niên 1960 và 1970, tác động gây biến
dạng đối với động cơ khuyến khích nông nghiệp giảm một cách tương ứng. Tuy
nhiên những thiên lệch gây bất lợi cho sản xuất nông nghiệp thúc đẩy bởi chính
sách vẫn còn cao trong giai đoạn 1975 đến 1980, làm giảm giá sản phẩm nông
nghiệp nội đòa 20 % so với hàng phi nông nghiệp và 12% so với hàng hóa nội đòa.
Thiên lệch này là do sự thâm hụt ngoại thương nhiều nhằm bảo vệ sự đònh giá quá
cao tỷ giá hối đoái, điều này tăng cường tác động giảm giá hàng hóa quốc tế vào
cùng thời điểm. Kết quả là giá nông sản tương đối ở Phi-lip-pin giảm một cách
mạnh từ giữa thập niên 70 đến đầu thập niên 80.

Ở Pê-ru, những tác động gián tiếp và trực tiếp của việc bảo hộ công nghiệp gia
tăng và sự kiểm soát giá nông sản trong suốt giai đoạn 1969-1970 (so với 1964-
1968) đã làm giảm chỉ số giá sản xuất đối với nông sản xuất khẩu và cây lương
thực cạnh tranh nhập khẩu lần lượt là 38% và 28% (chương 2). Tuy nhiên các biện
pháp tự do hóa ngoại thương được chấp nhận vào 1970-1982 hạ thấp thuế quan
tương đương đồng nhất từ 133% xuống 91% và làm lợi cho những nhà sản xuất
nông nghiệp bằng cách gia tăng giá nội đòa của sản phẩm xuất khẩu của họ (34%)
và cây lương thực cạnh tranh nhập khẩu (22%).

Như chúng ta đã chỉ ra, những tác động giá gián tiếp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với những động cơ khuyến khích sản xuất nông
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương

và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

11
nghiệp trong những quốc gia đang phát triển, hoạt động thông qua sự đònh giá quá
cao được kích thích của tỷ giá hối đoái thực nói chung là không có chủ ý. Thiên
lệch giá gây bất lợi cho nông nghiệp này không thể bò loại trừ một cách đơn giản
bằng cách điều chỉnh tỷ giá hối đoái danh nghóa. Nó có thể được sửa chữa ngay tại
nguồn gây ra nó, có nghóa là hạ thấp rào cản nhập khẩu vốn bảo hộ cho những
ngành công nghiệp nội đòa một cách không hợp lý và khôi phục lại cân bằng trong
cán cân thanh toán.


Tỷ giá ngoại thương đối với bên ngoài và tỷ giá hối đoái thực:

Sự dòch chuyển giá của nước ngoài cũng ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các giá
nội đòa của hàng hóa có thể xuất khẩu, hàng hóa có thể nhập khẩu, và hàng hóa
nội đòa, và vì vậy ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái thực. Ước lượng những tác động
được kích thích bởi chính sách đối với tỷ giá hối đoái thực trong những nghiên cứu
dẫn ra trước đây giả thiết rằng tỷ giá ngoại thương bên ngoài không đổi được xác
đònh một cách ngoại sinh dưới giả thiết một nước nhỏ. Một sự thay đổi ngoại sinh
trong tỷ giá ngoại thương của một quốc gia tác động đến tỷ giá hối đoái thực theo
những cách khác nhau.

Mặc dù nhiều nhà kinh tế đồng ý rằng tỷ giá ngoại thương xấu đi dẫn đến giảm giá
trong tỷ giá hối đoái thực, nhưng mối quan hệ giữa hai biến số phần nào phức tạp.
Khi giá xuất khẩu giảm so với hàng nội đòa (trong khi giá nhập khẩu không đổi)

cung hàng hóa nội đòa gia tăng. Cùng lúc đó cầu hàng hóa nội đòa giảm do cả tác
động thu nhập và tác động thay thế. Vì vậy, tỷ giá hối đoái thực phải giảm giá để
khử dư cung và khôi phục lại cân bằng trong thò trường hàng hóa nội đòa. Nếu sự
xấu đi trong tỷ giá ngoại thương là do gia tăng trong giá hàng nhập khẩu, tác động
thu nhập và tác động thay thế đối với cầu đẩy theo hướng ngược nhau, nếu tác
động thay thế mạnh hơn, tỷ giá hối đoái thực sẽ giảm giá (Dornbush 1980). Sự thay
thế giữa hàng hóa nội đòa và hàng hóa có thể nhập khẩu trong tiêu dùng càng lớn
và ảnh hưởng của giá xuất khẩu đối với tỷ giá ngoại thương càng lớn thì một sự xấu
đi trong tỷ giá ngoại thương càng có khả năng dẫn đến sự giảm giá thực (Bautista
1987b).

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

12
Giá xuất khẩu có tác động lớn đối với tỷ giá ngoại thương bên ngoài ở Ac-hen-ti-na
và Chi-lê, nơi mà mối quan hệ dương giữa tỷ giá hối đoái thực và tỷ giá ngoại
thương được mong đợi (Valdés 1986). Cải thiện 10% trong tỷ giá ngoại thương
của Pakistan dẫn đến gia tăng 2,4%trong tỷ giá hối đoái thực đối với hàng hóa xuất
khẩu (Chương 7). Ở Phi-lip-pin tỷ giá hối đoái thực đáng lẽ đã cao hơn 22% giữa
1975 và 1984 nếu tỷ giá ngoại thương đã được giữ cùng mức của thập niên 70
(Bautisa 1987b, 52).


Dù rằng chính sách không thể ảnh hưởng một cách trực tiếp đến tỷ giá ngoại
thương, nhưng thay đổi trong tỷ giá ngoại thương có thể ảnh hưởng lớn đến tỷ giá
hối đoái thực và nên tính đến thay đổi này trong khi đánh giá động cơ khuyến
khích tổng hợp đối với sản xuất nông nghiệp.


Những tác động đối với sản lượng, phân phối thu nhập và sự di chuyển nguồn
lực giữa các khu vực kinh tế:

Những tác động về giá tương đối của chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế
vó mô có những ảnh hưởng khác nhau đối với sản lượng nông nghiệp và thu nhập.
Khi nông sản bò đònh giá thấp, sản lượng nội đòa chòu thiệt hại – không những do
hiệu quả tónh của việc sử dụng nguồn lực giảm mà quan trọng hơn còn do có những
tác động bất lợi đối với cung lao động trong nông nghiệp, sự tích lũy vốn, và sự
thay đổi công nghệ trong dài hạn.

Trong ngắn hạn, sự đáp ứng theo giá của sản lượng nông nghiệp giảm theo sự gia
tăng tổng gộp sản lượng, vì khả năng tái phân bổ nguồn lực giảm khi sản phẩm trở
nên phân biệt hơn. Rõ ràng là sự dòch chuyển nguồn lực trong ngắn hạn từ sản
xuất nông nghiệp đến sản xuất phi nông nghiệp khó hơn là dòch chuyển chúng từ
cây lương thực sang cây trồng xuất khẩu, và còn khó hơn là dòch chuyển chúng từ
lúa gạo sang bắp. Quy mô tổn thất sản lượng có thể quy cho hiệu quả tónh thấp hơn
dó nhiên phụ thuộc không những vào độ co dãn cung trong ngắn hạn mà còn vào
giá nông sản bò kéo xuống như thế nào so với các mức giá biên giới - mà nó có thể
khác biệt rất lớn từ quốc gia này sang quốc gia khác.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn

Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

13
Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới gần đây về tự do hóa ngoại thương trong
19 quốc gia cho thấy rằng trong giai đoạn trước khi tự do hóa, chế độ ngoại thương
của họ thường phân biệt đối xử bất lợi cho nông nghiệp Michaely, Choksi, và
Papageorgiou 1989). Đáng kể hơn, “một khi chính sách này được đảo ngược, tự do
hóa ngay lúc bắt đầu đã mang lại tăng trưởng tăng tốc của khu vực nông nghiệp, và
làm tăng tỷ phần của khu vực nông nghiệp trong GDP của quốc gia” (trang 4). Kết
quả nghiên cứu này cho thấy rằng sản xuất nông nghiệp rất nhạy bén đối với sự
thay đổi của hoàn cảnh.

Ngoài tác động này đối với sản lượng trong ngắn hạn, độ co giãn theo giá của cung
nông nghiệp có những ảnh hưởng động gắn với những thay đổi được tạo ra trong
cung yếu tố sản xuất và trong công nghệ qua thời gian. Thí dụ, mọi người đều biết
rằng tốc độ di dân nông thôn - thành thò là một hàm số của sự khác biệt thu nhập
giữa các khu vực, mà sự khác biệt này được quyết đònh một phần bởi giá nông sản.
Những động cơ khuyến khích về giá dường như cũng thúc đẩy đầu tư tư nhân, và
suất sinh lợi trong trồng trọt cao hơn sẽ thu hút nhiều vốn hơn, cả vốn vật chất và
nhân lực, vào trong nông nghiệp. Giá tương đối ngay cả có thể ảnh hưởng đến đầu
tư công cộng trong một chừng mực nhất đònh. Hơn nữa, những nhà nông sẽ chấp
nhận sử dụng những công nghệ mới và mua những nhập lượng vật chất chứa đựng
công nghệ mới chỉ khi họ kỳ vọng thu nhập của họ sẽ được cải thiện. Điều đó có
nghóa là động cơ khuyến khích về giá cũng ảnh hưởng đến sự phổ biến công nghệ

nông nghiệp và mức năng suất. Mặc dù nghiên cứu về lúa ở Ấn độ tiếp diễn trong
nhiều thập niên, nhưng các giống lúa thích hợp với phân bón hóa học đã bò lãng
quên trong thời gian dài do giá phân bón thường là cao và giá lúa thấp (Schultz
1978).

Hầu hết những nghiên cứu về đáp ứng tổng hợp của nông nghiệp đối với những sự
thay đổi trong giá tương đối đã không tính đến những ảnh hưởng động này, đấy là
chưa nói đến những ảnh hưởng sản lượng và thu nhập bên ngoài khu vực nông
nghiệp. Để nắm bắt một cách đầy đủ những tác động trong phạm vi toàn bộ nền
kinh tế của những thiên lệch giá cả do chính sách gây ra bất lợi cho nông nghiệp,
người ta cần phải nghiên cứu trong khuôn khổ kinh tế vó mô, khuôn khổ này kết
hợp cơ cấu giá cả nội đòa, mô thức sản xuất, và phân phối thu nhập.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

14
Đó là những gì mà tác giả của chương 8 và 9 đã cố gắng làm trong khi xây dựng
các mô hình cân bằng tổng quát động của họ cho Ác-hen-ti-na và Chi-lê. Họ giả
đònh rằng phân bổ đầu tư giữa các khu vực phụ thuộc vào mức sinh lời khác nhau
giữa các khu vực và sự dòch chuyển lao động giữa các khu vực phụ thuộc vào mức
tiền lương giữa các khu vực; và bản thân những mức này bò ảnh hưởng bởi giá sản

phẩm theo khu vực. Họ cũngï giả đònh rằng năng suất lao động trong mỗi khu vực
sản xuất được quyết đònh một cách sinh sôi bởi các “biến số trạng thái” (“state
variables”), như mức đầu tư bình quân đầu lao động của khu vực (thể hiện không
những bởi sự tăng cường vốn mà còn ở công nghệ mới được hàm chứa trong những
nhập lượng vật chất) và giá tương đối. Đây là một sự cải thiện quan trọng đối với
giả đònh được sử dụng khá phổ biến về những sự gia tăng ngoại sinh trong mức
năng suất ở các khu vực sản xuất qua thời gian.

Mô hình mô phỏng được sử dụng để điều tra mức độ đáp ứng theo giá của cung
nông sản ở Chi-lê đã tính đến mức tăng trưởng lòch sử của lực lượng lao động và
tích lũy vốn . Kết quả mô phỏng cho thấy độ co giãn tổng cung (sau 19 năm) 1,4 là
rất cao. Chúng cũng cho thấy mức gia tăng 11,2% giá trò gia tăng trong nông
nghiệp đáp ứng lại mức giảm giới hạn là 10% trong tỷ giá hối đoái thực. Trong
trường hợp Ac-hen-ti-na, thành quả kinh tế, đặc biệt trong nông nghiệp, lẽ ra đã tốt
hơn một cách đáng kể dưới chế độ ngoại thương tự do hơn, bắt đầu vào năm 1950,
cùng với kỷ cương ngân sách và tiền tệ. Vào năm 1984, sản lượng nông nghiệp
đáng lẽ là tăng thêm 174%, sản xuất trong khu vực phi nông nghiệp không tính
khu vực chính phủ, tăng thêm 9% và GDP tăng thêm 46%.

Những kết quả nầy ở Chi-lê và Ác-hen-ti-na gợi ý một cách mạnh mẽ rằng những
nghiên cứu sử dụng những thông số phương trình đơn của hành vi cung động dựa
vào giá dự đoán thích nghi (phỏng theo) (adaptive price expectation) hoặc là điều
chỉnh sản lượng từng phần có khả năng ước lượng không đủ sự đáp ứng của tổng
cung dài hạn của nông nghiệp trong các quốc gia đang phát triển.

Cách làm thông thường là ước lượng tác động của chính sách ngoại thương và chính
sách kinh tế vó mô đối với phân phối thu nhập qua những ảnh hưởng thu nhập khác
nhau của các chính sách này đối với các nông trại lớn và nhỏ, qua loại cây trồng,
và qua mô thức chi tiêu tiêu dùng. Một lần nữa, khuôn khổ cân bằng từng phần
không tính đến những gì xảy ra đối với thu nhập của từng khu vực khi đối mặt với

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

15
những điều chỉnh như sự đáp ứng lại của tiền lương ở đô thò đối với chi phí lương
thực thực phẩm chủ yếu và những dòch chuyển trong cầu của người tiêu dùng
hướng về những sản phẩm thay thế. Vì hầu hết các hộ gia đình vừa tiêu dùng vừa
sản xuất, điều thực sự quan trọng là những tác động ròng đối với họ với tư cách vừa
là người tiêu dùng vừa là nhà sản xuất.

Adelman và Robinson (1978) xây dựng một mô hình cân bằng tổng quát động ở
Hàn quốc để mô phỏng những tác động của các biện pháp chính sách khác nhau,
hầu hết các chính sách này hướng vào khu vực nông thôn, để cải thiện phân phối
thu nhập. Họ tìm thấy rằng nền kinh tế điều chỉnh theo các biện pháp can thiệp
chính sách phần lớn thông qua sự thay đổi của giá và rằng thay đổi trong tỷ giá
ngoại thương nông nghiệp có tác động lớn nhất đến quy mô phân phối thu nhập.
Một mô hình cân bằng tổng quát đa khu vực được sử dụng để cho thấy rằng tự do
hoá ngoại thương ở Phi-lip-pin sẽ dẫn đến sự mở rộng sản xuất nông nghiệp nhiều
hơn sự mở rộng sản xuất phi nông nghiệp và thu nhập nông thôn gia tăng nhiều hơn
thu nhập thành thò (Bautista 1986b) . Những kết quả này phù hợp với giả thiết
chung rằng sản lượng nông nghiệp trong những quốc gia đang phát triển “có thể
ngoại thương” hơn - và vì vậy nhạy cảm hơn đối với thay đổi trong tỷ giá hối đoái

thực - so với sản lượng phi nông nghiệp.

Ở Pê-ru, tự do hóa ngoại thương trong suốt giai đoạn 1979-1982 lẽ ra đã cải thiện
dần dần phân phối thu nhập đối với dân cư thành thò; trong dân cư ở nông thôn,
những người ở các vùng rừng và duyên hải tương đối khấm khá hơn lẽ ra đã có lợi
hơn so với dân cư vùng cao nguyên (chương 2). Từ quan điểm về dinh dưỡng, tất
cả các nhóm dân cư lẽ ra đều có lợi.

Bởi vì khu vực nông nghiệp ở Cô-lôm-bia chủ yếu sản xuất những hàng hóa có thể
xuất khẩu, một chế độ mậu dòch tự do hơn ở đó sẽ gia tăng giá nông sản và tiền
cộng thực và qua đó cải thiện thu nhập trong nông nghiệp và giảm nghèo đói trong
khu vực nông thôn ( chương 3). Ngược lại, những chính sách hạ thấp giá lương thực
thực phẩm nội đòa một cách nhân tạo hoặc trợ cấp cho lương thực thực phẩm nhập
khẩu sẽ làm tăng thu nhập thực của dân cư thành thò và làm cho phân phối thu nhập
của quốc gia xấu hơn.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

16
Thiên lệch giá cả gây bất lợi cho nông nghiệp trong chính sách ngoại thương và
chính sách kinh tế vó mô thực chất là chuyển nguồn lực ra khỏi khu vực nông

nghiệp. Các chính phủ ở các nước đang phát triển bù đắp phần nào cho sự tháo
chạy của nguồn lực này thông qua chi tiêu công trong nông nghiệp. Chuyển giao
ròng ở Phi-lip-pin từ năm 1970 đến 1982 trung bình hàng năm vào khoảng 25% của
giá trò gia tăng trong nông nghiệp, trong khi ở Ma-lai-xi-a (nơi mà tỷ giá hối đoái
thực không bò đònh giá cao đáng kể) con số này chỉ là 5% (chương 10).

Khái niệm di chuyển nguồn lực giữa các khu vực kinh tế được giới thiệu trong tài
liệu này khác với khái niệm đó được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu không xem sự
khác nhau giữa giá trong nước và giá nước ngoài là một hình thức ngầm ẩn của
thuế hoặc trợ cấp nông nghiệp (thí dụ, xem Ishikawa 1967). Những gì mà họ gọi là
nguồn “vô hình” của chuyển giao từ nông nghiệp qua thời gian thực ra là độ sai
biệt của tỷ giá ngoại thương trong nông nghiệp so với năm gốc. Rõ ràng, trong việc
đánh giá tác động gây biến dạng của chính sách đònh giá trong nông nghiệp, sự
thay đổi qua thời gian của tỷ giá trao đổi thương mại nội đòa không quan trọng
bằng cơ cấu giá nội đòa so với giá nước ngoài (hoặc doanh thu biên, nếu độ co giãn
của cung nhập khẩu và cầu xuất khẩu không phải là vô hạn). Các mức giá trong
quá khứ không đặc biệt hữu ích trong các đánh giá như vậy vì chúng không đại
diện cho một tập hợp thay thế của các mức giá có sẵn hiện hành mà phạm vi của
hành động chính sách có thể liên quan .

Một yếu tố quan trọng nữa cần xem xét là các quốc gia đang phát triển sử dụng
“thặng dư” nông nghiệp được chuyển giao như thế nào. (Myint 1988). Nhiều nước
thực hiện chính sách thay thế hàng nhập khẩu được bảo hộ cao và sử dụng những
nguồn biến dạng giá nội đòa khác đã đạt được các mức hiệu quả thấp trong việc sử
dụng nguồn lực vào sản xuất công nghiệp. Trừ khi sự biến dạng như vậy được sữa
chữa, chuyển giao nguồn lực từ nông nghiệp không có khả năng mang lại lợi ích xã
hội lớn. Có những cơ hội để gia tăng nhanh năng suất nông nghiệp và tăng trưởng
thu nhập nếu nhu cầu về vốn để cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn và để phổ biến
công nghệ mới được đáp ứng đầy đủ. Tuy nhiên, những cơ hội này đã bò bỏ quên
khi các quốc gia tiếp tục phân biệt đối xử bất lợi cho nông nghiệp trong các chính

sách ngoại thương và kinh tế vó mô và cho phép những nguồn lực liên quan chuyển
sang khu vực sản xuất phi nông nghiệp

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

17
Những nghiên cứu quốc gia và khảo sát khu vực:

Những nghiên cứu trong phạm vi quốc gia bắt đầu từ chương 2 với phần thảo luận
về chính sách ngoại thương ở Peru và mức độ tác động của chúng vào cơ cấu
khuyến khích. Franklin và Valdés xây dựng một khuôn khổ đònh lượng để xem xét
tác động của chính sách đối với sản lượng của nông trại và thu nhập thực của các
hộ gia đình ở nông thôn và thành thò. Họ cho thấy rằng sự sụt giảm lớn và dai dẵng
trong tỷ giá hối đoái của Peru vào cuối những năm 1960 đã làm cho sản xuất hàng
hóa có thể ngoại thương thu ít lợi nhuận hơn so với hàng hóa không thể ngoại
thương. Các tác giả đã quy sự sụt giảm này phần lớn là do tăng cường mạnh các
biện pháp hạn chế ngoại thương, như được đo lường bởi thuế quan tương đương
đồng nhất (ước lượng cho mỗi năm từ năm 1949 đến năm 1982), vốn dần dần đóng
cửa nền kinh tế Peru đối với ngoại thương.

Sử dụng một mô hình thông số mức độ tác động không tổng gộp lấy từ Dornbusch

(1974) và Sjaastad (1980), Franklin và Valdés tìm thấy rằng gia tăng thuế quan
đồng nhất đối với hàng chế tạo công nghiệp 10% (với điều kiện thuế quan đối với
hàng hóa nông nghiệp không thay đổi) sẽ áp đặt một mức thuế tiềm ẩn 5,6% (đối
với hàng hóa nội đòa) đối với hàng hóa có thể nhập khẩu như gạo và một mức thuế
tiềm ẩn 6,7% đối với nông sản có thể xuất khẩu như bông và đường. Khi giá nông
sản được đem so với giá của hàng hóa có thể nhập khẩu phi nông nghiệp, tác động
thuế tiềm ẩn đối với cả hai loại hàng hóa nông sản trên là 10%. Những kết quả này
chỉ ra rằng Peru cho phép mức độ thay thế cao giữa hàng hóa nội đòa và hàng hóa
phi nông nghiệp có thể nhập khẩu và rằng hàng hóa xuất khẩu chòu một phần lớn
(hơn một nửa) gánh nặng của thuế quan đối với nhập khẩu.

Ba thành phần của công cụ phân tích là mức độ tác động của chính sách ngoại
thương đối với giá tương đối, cung nông sản, và chi tiêu của hộ gia đình. Các tác
giả đã sử dụng mô hình mô phỏng để đánh giá sự điều chỉnh ngắn hạn và trung hạn
của một sự thay đổi trong mức bảo hộ toàn bộ. Những kết quả thực nghiệm của họ
cho thấy rằng (1) những chính sách ngoại thương trong công nghiệp có tính hạn chế
chứ không phải là những chính sách giá trực tiếp đối với nông nghiệp đã có tác
động lớn nhất đối với mức tiêu dùng thực phẩm và phân phối thu nhập ở Pêru; (2)
như là hậu quả của sự thay đổi trong giá tương đối, có một sự dòch chyển rõ nét
trong khẩu phần (đặc biệt nhất là những người sống ở vùng cao nguyên) bỏ thực
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng


18
phẩm truyền thống để sử dụng thực phẩm nhập khẩu, cùng với việc giảm động cơ
khuyến khích sản xuất các loại hàng hóa này, một sự dòch chuyển làm chậm đi quá
trình tăng trưởng sản xuất hàng nông nghiệp có thể ngoại thương và làm cho Pêru
càng phụ thuộc vào thực phẩm nhập khẩu; và (3) như là người tiêu dùng thực
phẩm, những người sống ở thành thò có mức thu nhập cao được lợi nhiều hơn cả xét
về số tuyệt đối và tương đối so với những người sống ở các khu vực khác của quốc
gia, đặc biệt là những người sống ở khu vực miền duyên hải nông thôn.

Trong chương 3 García García giải thích sự phát triển bùng nổ cà phê của Cô-lôm-
bia và chính sách ngân sách mở rộng đóng góp như thế nào vào thành quả nông
nghiệp sụt giảm từ giữa những năm 1970 đến đầu những năm 1980 (cà phê chiếm
vào khoảng 44% tổng số xuất khẩu chính thức của Cô-lôm-bia). Sự gia tăng đáng
kể trong giá cà phê thế giới từ năm 1975 đến 1979 và chính sách ngân sách mở
rộng và chính sách tiền tệ mở rộng tiếp theo dẫn tới một sự gia tăng mạnh trong giá
tương đối của hàng hóa nội đòa. Đến lượt sự gia tăng tỷ giá hối đoái thực làm cho
việc sản xuất hàng hóa có thể ngoại thương thu được lợi nhuận tương đối ít hơn và
thúc đẩy việc tiêu dùng hàng hóa có thể ngoại thương, điều này mở rộng nhập
khẩu và giảm thặng dư xuất khẩu. Như thế sự phát triển bùng nổ cà phê và chính
sách kinh tê vó mô mở rộng đã làm thiên lệch các động cơ khuyến khích sản xuất
bất lợi cho toàn bộ bộ phận hàng hóa có thể ngoại thương của nông nghiệp.

Sự dao động lớn và không thể tiên đoán được trong giá hàng xuất khẩu ở Cô-lôm-
bia gây khó khăn trong việc duy trì tỷ giá hối đoái thực phù hợp với mức tăng
trưởng dài hạn và sự đa dạng hóa xuất khẩu. Nghòch lý đối với quốc gia này - mà
nó gắn với hiện tượng căn bệnh Hà lan - là ngay cả một phát triển tạm thời đầy hứa
hẹn, ví dụ như một sự gia tăng đột ngột trong giá thế giới của một số hàng hóa có
thể xuất khẩu nào đó, có thể có một tác động tiêu cực đối với phần còn lại của khu
vực hàng hóa có thể ngoại thương, bao gồm nông nghiệp, trong một số năm.


García García cũng tìm thấy rằng sụt giảm trong giá tương đối của nông sản ở Cô-
lôm-bia, có thể quy cho sự phát triển bùng nổ cà phê và sự thâm hụt ngân sách liên
tục, đã làm giảm đáng kể đầu tư trong nông nghiệp và giảm tiền công thực trong
nông nghiệp.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

19
Như tư liệu mà Oyejide đưa ra trong chương 4, chính phủ Ni-giê-ri theo đuổi một
chiến lược thay thế hàng nhập khẩu vào những năm 1960 và đầu những năm 1970
để thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp nhanh chóng. Sự bùng nổ dầu lửa tiếp sau đó
và chính sách ngoại thương, chính sách tỷ giá hối đoái, và các chính sách kinh tế vó
mô khác đi kèm theo đã củng cố xu hướng hướng về công nghiệp hóa này. Đáp
ứng lại - như ở Cô-lôm-bia trong suốt thời kỳ cà phê phát triển mạnh-tỷ giá hối
đoái thực lên giá một cách đáng kể, và khả năng cạnh tranh, sản lượng, và việc làm
trong khu vực hàng hóa có thể ngoại thương không phát triển bùng nổ, đáng kể
nhất là nông nghiệp, đã sụt giảm .

Ni-giê-ri là một trường hợp lý thú bởi vì số thu gia tăng từ dầu hỏa giúp cho chính
phủ có thể đưa ra những cải cách chính sách ưu tiên cho nông nghiệp. Thí dụ, họ

bỏ thuế xuất khẩu đối với nông sản, tổ chức lại ủy ban tiếp thò, trợ cấp phân bón, và
bảo đảm giá tối thiểu đối với nông sản. Mức bảo hộ với tỷ giá hối đoái chính thức
đã làm tăng cả cây lương thực và cây trồng xuất khẩu. Năm 1982, sản xuất cây
trồng nhận được bảo hộ quan trọng đi từ 18% đối với cao su đến 14% đối với bắp.
Chỉ có bông là bò đánh thuế rõ ràng. Dù cho có sự cải cách này, tăng trưởng trong
sản lương nông nghiệp thực vẫn đình trệ hoặc giảm sút.

Người ta tìm ra lý do đình trệ nằm ở cách thức những khu vực khác phản ứng lại
với những động cơ khuyến khích này. Từ năm 1970 đến năm 1984, giá nhà sản
xuất thực giảm đột ngột và sau đó giữ cố đònh. Trong suốt quá trình đó, hàng nông
sản xuất khẩu giảm vào khoảng hơn 20%, xuống đến mức ít hơn 3% tổng số doanh
thu xuất khẩu, và tỷ phần của nông nghiệp trong GDP không tính dầu hỏa giảm từ
60% trong giai đoạn 1960-1965 đến 30% vào giai đoạn 1978-1981. Lao động và
vốn dòch chuyển đến khu vực dòch vụ và cơ sở hạ tầng với mức độ đáng kể. Chi
tiêu của chính phủ gia tăng nhanh hơn GDP (tỷ phần của nó gia tăng từ 6% của
GDP vào năm 1960 đến 30% vào năm 1980) và gây ra sự tích tụ to lớn nợ trong
nước và nợ nước ngoài.

Một trong những biểu hiện gây ấn tượng nhất của tác động kết hợp của hiện tượng
căn bệnh Hà lan và bảo hộ công nghiệp là luồng lao động lớn dòch chuyển ra khỏi
khu vực nông nghiệp. Bởi vì khu vực sản xuất nông nghiệp của Ni-giê-ri rất thâm
dụng lao động, sự thiếu hụt lao động trong nông nghiệp ở vào thời kỳ cao điểm và
năng suất lao động thấp có lẽ là hạn chế ràng buộc đối với sản xuất và là lý do
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp


R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

20
chính đối với thành quả nông nghiệp yếu kém của quốc gia này. Đồng thời, khi
những khu vực khác đã phát triển, chúngï tạo những cơ hội việc làm ngoài nông
trại tốt hơn, đẩy tiền lương ở khu vực nông nghiệp lên cao: chỉ số của chúng từ 100
trong năm 1970 đến 232 trong năm 1982.

Tác động bất lợi của sự bùng nổ dầu hỏa đối với hàng hóa có thể ngoại thương
không phải dầu hỏa nghiêm trọng đối với nông nghiệp hơn là đối với công nghiệp
chế tạo, do các hạn chế lao động đặc biệt của nông nghiệp và bởi vì công nghiệp
chế tạo nhận được mức độ bảo hộ nhập khẩu quan trọng hơn nông nghiệp. Vì vậy,
cả căn bệnh Hà lan gắn với sự bùng nổ dầu hỏa lẫn các chính sách ngoại thương
tổng quát và chính sách tỷ giá đã đánh thuế vào nông nghiệp ở Ni-giê-ri.

Chương 5 đề cập đến Zaire, mà cho đến nay là chủ đề của rất ít nghiên cứu chính
sách kinh tế và có cơ sở dữ liệu nghèo nàn. Nông nghiệp sử dụng 80% lực lượng
lao động và tạo ra 40% GDP, nó chiếm chỉ vào khoảng 16% tổng số xuất khẩu từ
năm 1971 đến 1981. Đồng là sản phẩm xuất khẩu chủ yếu.

Sử dụng một mô hình thông số mức độ tác động đơn giản, Tshibaka xem xét một số
tác dụng của chính sách ngoại thương và chính sách tỷ giá hối đoái đối với nông
nghiệp ở Zaire trong bối cảnh những thay đổi cơ cấu và đònh chế quan trọng vốn
theo sau nền độc lập vào năm 1960. Ông ta kết luận rằng những chính sách này đã
đánh thuế tiềm ẩn cao vào những hàng hóa nông nghiệp có thể xuất khẩu và một
số cây lương thực cạnh tranh với nhập khẩu . Ông ta cho rằng sản xuất hàng hóa có
thể xuất khẩu như dầu cọ, bông, và đậu lạc có thể cạnh tranh với lương thực chính
như gạo và bắp, đây là một cơ hội quan trọng cho Zaire, đất nước chỉ có một thò

trường thế giới nhỏ bé đối với gạo và bắp trắng.

Trong chương 6, Bautista cung cấp một phân tích đònh lượng những tác động của
chính sách ngoại thương và chính sách tỷ giá hối đoái đối với những động cơ
khuyến khích tương đối ở nền kinh tế Phi-lip-pin, đặc biệt trong lónh vực nông
nghiệp. Bautista chứng minh rằng chính sách ngoại thương và chính sách tỷ giá hối
đoái có tác dụng từ năm 1950 đến năm 1980 hầu hết đã ưu tiên cho những nhà sản
xuất hàng hoá cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu so với hàng hóa xuất khẩu. Ông
tính tỷ giá hối đoái hiệu dụng bình quân theo phân loại sản phẩm để nêu bật sự
khác nhau trong các tác động đến các loại hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa nhập
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

21
khẩu khác nhau, và những ước lượng của ông ta cho thấy một sự thiên lệch dai
dẳng gây bất lợi cho sản xuất hàng xuất khẩu nông nghiệp truyền thống như đường,
dừa, dứa, và thuốc lá.

Bautista cũng sử dụng mô hình thông số mức độ tác động tổng gộp để mô phỏng
một kòch bản ngoại thương tự do. Kết quả ở đây cũng chỉ ra một thiên lệch lớn bất
lợi cho sản xuất hàng hóa có thể xuất khẩu tương đối so với hàng hóa nội đòa và
những họạt động cạnh tranh với hàng nhập . Hàng hoá xuất khẩu truyền thống chòu

đựng gánh nặng lớn hơn so với hàng hóa xuất khẩu không phải truyền thống.

Nghiên cứu phân tích hai nguồn dao động của tỷ giá hối đoái thực ở Phi-lip-pin, đó
là các biện pháp hạn chế ngoại thương và sự thâm hụt ngoại thương kéo dài. Nói
chung, chính sách ngoại thương là một yếu tố nổi bật trong thiên lệch giá cả bất lợi
cho nông nghiệp. Cùng lúc, tác động của thâm hụt ngoại thương đối với tỷø giá hối
đoái thực giải thích tại sao, ngay cả sau khi tự do hoá những hạn chế ngoại thương
ở Phi-lip-pin vào những năm 1970, sản xuất hàng hóa nông nghiệp có thể xuất
khẩu tiếp tục bò đánh thuế, dù là tiềm ẩn.

Trong chương 7 đề cập đến Pa-kis-tan, Dorosh xây dựng một khuôn khổ đònh lượng
để đo lường tác động kết hợp của chính sách ngoại thương và chính sách tỷ giáù hối
đoái và các chính sách giá nông sản đối với những động cơ khuyến khích sản xuất
nông nghiệp từ năm 1961 đến năm 1987. Ông ta đưa ra những số đo thuế ngoại
thương tiềm ẩn và tỷ giá hối đoái hiệu dụng đối với hàng hóa nhập khẩu và hàng
hóa xuất khẩu ở Pa-kis-tan và thảo luận sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái thực.

Đây là chương duy nhất sử dụng phân tích hồi quy để xem xét những yếu tố ảnh
hưởng đến tỷ giá hối đoái thực. Tính nội sinh của một vài biến giải thích được
quan tâm đặc biệt (bao gồm chính sách ngoại thương, tỷ giá ngoại thương của nước
ngoài, tiền gởi về nước của công nhân, viện trợ của nước ngoài và khoản vay dài
hạn). Một vài biến số này không phải là ngoại sinh mà chúng được quyết đònh
đồng thời với tỷ giá hối đoái thực. Kết quả của phân tích hồi quy được sử dụng để
xây dựng một chuỗi thời gian cho tỷ giá hối đoái thực cân bằng, nó được so sánh
với các ước lượng dựa vào cách tiếp cận độ co giãn và ngang bằng sức mua.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc

Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

22
Nghiên cứu này cho thấy rằng sự đònh giá quá cao đồng rupee vào những năm
1960 vượt trội mức bảo hộ được tạo ra bởi các chính sách giá khu vực đối với lúa
mì, gạo thường, bông và là tăng thuế của gạo basmati. Vào những năm 1970 và
đầu những năm 1980, các chính sách trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế tăng cường
thuế trực tiếp thông qua các chính sách giá khu vực đối với lúa mì, gao basmati, và
gạo thường , dù rằng ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái thực nhỏ hơn ảnh hưởng đó vào
những năm 1960. Cây mía là một câu chuyện khác: nó được bảo hộ trực tiếp đáng
kể cho tới năm 1982, và dù cho dao động trong tỷ giá hối đoái thực đang lan khắp,
sản xuất đường nhận được mức bảo hộ toàn bộ dương trong suốt giai đoạn này,
ngoại trừ những năm từ 1972 đến 1977.

Hai chương kế tiếp- đề cập đến Ác-hen-ti-na và Chi-lê -xem xét những yếu tố xác
đònh tăng trưởng nông nghiệp trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, nhấn mạnh tính
năng động của điều chỉnh kinh tế. Trong chương 8 đề cập đến Ác-hen-ti-na,
Cavallo, Mundlak, và Domenech kết luận rằng nông nghiệp là một lực lượng rất
mạnh hậu thuẩn cho tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của quốc gia từ 1913
đến vào khoảng 1930. Sau đó, sức sống kinh tế của Ac-hen-ti-na giảm đi rõ rệt .
Dù rằng giá xuất khẩu nông sản thế giới của đất nước này giảm liên tục xét theo
giá thực, nhưng các tác giả quy mức tăng trưởng chậm hơn chủ yếu là do những
chính sách kinh tế nội đòa.

Giả thiết của nghiên cứu này là các chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế

vó mô là những yếu tố ảnh hưởng chủ yếu đến thành quả kinh tế. Các tác giả đã
xây dựng mô hình kinh tế lượng để xem xét những ảnh hưởng động của một cuộc
cải cách chính sách giả thiết vào năm 1930. Để mô phỏng những ảnh hưởng của tự
do hóa ngoại thương, họ ước lượng những phương trình hành vi đối với tiêu dùng,
đầu tư tư nhân và phân bổ giữa các khu vực của đầu tư, tỷ trọng các yếu tố, mức thu
dụng lao động, sản lượng, và các dòng ngoại thương. Phân tích thực nghiệm này
tiên đoán mức tăng trưởng cao hơn đáng kể của nông nghiệp so với năm gốc, chủ
yếu là do tích lũy vốn nhanh chóng trong nông nghiệp và mức tăng trưởng sản
lượng phi nông nghiệp nhanh hơn. Trong chừng mực mà những công nghệ mới
được hàm chứa trong hàng hóa tư bản, đầu tư mới trong nông nghiệp có tác động
tích cực đến mức năng suất trong nông nghiệp vượt quá mức có thể quy cho sự tăng
cường vốn. Kết quả mô phỏng cũng chỉ ra sự đánh đổi rất lớn giữa việc bảo vệ tiền
công thực ở nông thôn và thành quả của nền kinh tế.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

23

Trong chương 9 đề cập đến Chi lê, Coeymans và Mundak xây dựng một mô hình
tăng trưởng trong đó những khu vực sản xuất (nông nghiệp, khai khoáng, dòch vụ,
và công nghiệp chế tạo) liên kết rõ ràng thông qua ma trận nhập lượng -xuất lượng.
Mô hình này được xây dựng theo cách cho phép các tác giả phân tích những tác

động của những sự kiện trước mắt đối với tăng trưởng khu vực và vì vậy giống với
mô hình mà họ đã sử dụng để nghiên cứu ở Ác-hen-ti-na. Tuy nhiên trong chương
9 các tác giả đưa ra một cơ cấu cục bộ hơn của các mối liên kết giữa nông nghiệp
và những khu vực khác. Sự thay đổi công nghệ, đầu tư khu vực, cung và cầu lao
động khu vực được quyết đònh một cách nội sinh từ một mô hình ước lượng kinh tế
lượng trong giai đoạn 1962-1982.

Dù đây là giai đoạn bất ổn đònh đối với nền kinh tế Chi lê -do những thay đổi
trong tỷ giá ngoại thương, do bất ổn đònh chính trò, và do những thay đổi trong
chính sách kinh tế - mô hình này có thể nắm bắt được những thay đổi trong việc thu
dụng lao động và sử dụng vốn, di dân giữa các vùng, tiền lương và lợi tức vốn,
trong số các biến nội sinh khác.

Các tác giả trình bày 3 mô phỏng chính sách bao gồm những thay đổi trong giá của
sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp và trong tỷ giá hối đoái thực. Sử dụng những
mức đầu tư gộp và cung lao động trong quá khứ, họ tìm thấy rằng những thay đổi
mang tính giả thiết trong giá tương đối ảnh hưởng đến sự phân bổ nguồn lực một
cách đáng kể: lao động và vốân dòch chuyển đến những khu vực có suất sinh lợi cao
hơn. Trong mô phỏng này, tỷ lệ vốn - lao động trong nông nghiệp giảm liên tục và
độ co giãn của đường tổng cung dài hạn đối với nông nghiệp là 1,4. Ước lượng độ
co giãn này cao hơn một cách đáng kể so với ước lượng thu được từ những quốc gia
khác trong phân tích hồi quy phương trình đơn vốn không tính đến những tác động
của sự thay đổi trong giá nông sản trên thò trường các yếu tố sản xuất (xem Herdt
1970; Reca 1980; và Bond 1983)
4
. Nó cũng cao hơn một cách đáng kể so với
những ước lượng được đưa ra bởi những người theo trường phái cơ cấu vào những
thập niên 1950 và 1960 về mức độ đáp ứng của tổng cung nông nhiệp đối với
những động cơ khuyến khích ở Châu Mỹ La Tinh.


Những cuộc khảo sát toàn khu vực ở chương 10 (Châu Á), 11 (Châu Phi), và 12
(Châu Mỹ La Tinh) tổng kết một số kết quả tìm thấy trong những nghiên cứu khác
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

24
về mức độ chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế vó mô đã ảnh hưởng đến
động cơ khuyến khích nông nghiệp trong các quốc gia đang phát triển. Điểm
chung là nông nghiệp trong các quốc gia đang phát triển, đặc biệt nhất là xuất khẩu
nông sản, đã chòu một gánh nặng thuế tiềm ẩn lớn do bảo hộ công nghiệp, sự lên
giá tỷ giá hối đoái thực, và các chính sách kinh tế vó mô liên quan khác.

Hầu hết các quốc gia trong 3 khu vực đều có nền kinh tế tương đối mở, với ngoại
thương đóng góp 25% hoặc nhiều hơn trong GDP. Ngoại thương của họ chủ yếu là
xuất khẩu nông sản, mà thành quả xuất khẩu này có ý nghóa lớn đối với nguồn thu
ngoại tệ của họ. Tuy nhiên, những mối liên kết giữa các chính sách kinh tế vó mô
và nông nghiệp vượt ra ngoài mức đóng góp của khu vực đối với nguồn thu ngoại
tệ. Chính sách ngoại thương và chính sách kinh tế vó mô ảnh hưởng lên toàn bộ cơ
cấu giá tương đối, chủ yếu thông qua cơ chế tỷ giá hối đoái thực. Tiền đề trung
tâm trong tác phẩm này là, xét mức độ có thể ngoại thương cao của nông sản, tỷ
giá hối đoái thực có lẽ là biến số có ảnh hưỏng lớn nhất đến cơ cấu khuyến khích
giá đối với nông nghiệp. Vì vậy, lý thuyết xác đònh tỷ giá hối đoái thực phù hợp

đặc biệt trong việc đánh giá thực nghiệm những tác động của chính sách trong
phạm vi toàn bộ nền kinh tế và trong từng khu vực chuyên biệt đối với những động
cơ khuyến khích nông nghiệp .

Trong số nhiều tác động chính sách đối với động cơ khuyến khích nông nghiệp,
bảo hộ công nghiệp dường như là phổ biến nhất. Thí dụ, trong trường hợp Phi
Châu, Oyjide thấy rằng xuất khẩu nông sản của Côte d’Ioire và Mauritius chòu
mức thuế hơn 80% của việc bảo hộ đối với khu vực công nghiệp trong những quốc
gia đó suốt những năm 1970 và đầu những năm 1980. Bằng chứng được nêu ra bởi
Bautisa đối với khu vực Châu Á và García García đối với khu vực Châu Mỹ La
Tinh cho thấy rằng những nhà xuất khẩu nông sản trong những khu vực đó, cùng
với những nhà sản xuất sản phẩm cạnh tranh với hàng nhập khẩu không được bảo
hộ, đã phải trả ít nhất là một nửa chi phí của sự bảo hộ cao đối với ngành công
nghiệp nội đòa.

Chi tiêu của chính phủ là một biến số chính sách nữa có ảnh hưởng đến tỷ giá hối
đoái thực. Đặc biệt trong trường hợp của Châu Mỹ La Tinh và vùng Phi châu hạ
Sahara, tỷ giá hối đoái thực thường lên giá do thiếu kỷ cương thu chi ngân sách.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Phát triển Nông thôn
Bài đọc
Sự phù hợp của chính sách ngoại thương
và chính sách kinh tế vó mô đối với nông
nghiệp

R. M. Bautista & A. Valdés Biên dòch: Xinh Xinh
Hiệu đính: Quang Hùng

25

Điều này làm tổn hại đến khả năng sinh lợi tương đối của việc sản xuất ra hàng
hóa có thể ngoại thương và kìm hãm mức tăng sản lượng.

Nông nghiệp đóng một vai trò tương tự nổi bật trong những chiến lược phát triển
của ba khu vực này. Nét chung của ba chiến lược này là sự nhấn mạnh của chúng
vào công nghiệp hóa như là yếu tố then chốt đối với tăng trưởng kinh tế, được tài
trợ một phần thông qua chuyển giao nguồn lực từ nông nghiệp. Thứ nhì, nhiều
quốc gia dựa chủ yếu vào thuế từ ngoại thương như nguồn thu của chính phủ, thực
tế là một gánh nặng thuế không thể tránh khỏi đối với xuất khẩu nông nghiệp.

Một trong những kết quả quan trọng nhất của các cuộc khảo sát ba khu vực này là,
nhìn chung, những tác động gián tiếp của các chính sách trong phạm vi toàn bộ nền
kinh tế mạnh hơn tác động trực tiếp củøa các chính sách chuyên biệt theo khu vực
kinh tế. Những cuộc khảo sát cũng cho thấy rằng có mối liên kết mạnh mẽ giữa
các chính sách kinh tế vó mô và tiền lương (và công việc làm) trong nông nghiệp ở
nhiều quốc gia: ở Ni-giê-ri-a, nơi mà đáp ứng chính sách đối với căn bệnh Hà lan
vào những năm 1970 tạo ra tình trạng khó khăn trong chi phí lao động dẫn đến mất
mát rất lớn khả năng cạnh tranh của khu vực nông nghiệp, và ở Cô-lôm-bia và Chi
lê, nơi mà những chính sách kinh tế vó mô được thực hiện suốt thập niên 1960 và
1970 đã dẫn đến sự giảm sút đáng kể trong tiền công thực ở khu vực nông thôn và
việc làm trong nông nghiệp.

×