Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Sử dụng các thị trường đề quản trị quốc gia tốt hơn ở Singapore part 2 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.34 KB, 9 trang )

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 10 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
thơng và sở hữu và sử dụng xe ơtơ; thuế đối với lao động người nước ngồi; cơng nghệ của
những cơng ty có liên kết với chính phủ và phát triển chuỗi xí nghiệp; và các thị trường bên
trong các cơ quan chính phủ. Ta sẽ thấy rõ thêm vấn đề khi tìm hiểu những chính sách này đã
được xây dựng như thế nào, và lưu ý việc sử dụng các ngun tắc thị trường trong từng loại
chính sách.

Bảo hiểm xã hội - Quỹ Tiết kiệm Trung ương
Quỹ Tiết kiệm Trung ương (CPF) là chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc tiết kiệm khi có thu
nhập, dựa trên ngun tắc tiết kiệm, tự lực và cá nhân tự chịu trách nhiệm. CPF được thành
lập năm 1955 nhằm khuyến khích tiết kiệm để có thu nhập cơ bản khi nghỉ hưu. Đây là quỹ
tiết kiệm bắt buộc đối với tất cả người lao động ăn lương của chính phủ và tư nhân, nhưng
được phép tùy chọn đối với các cá nhân làm nghề tự do.
Hiện nay CPF có 2,8 triệu thành viên, và chỉ có 40.000 người Singapore ở độ tuổi
trưởng thành khơng có tài khoản CPF.
Ý định ban đầu chỉ thuần túy là tiết kiệm cho nghỉ hưu, CPF từ đó đã tiến triển thành
một chương trình tiết kiệm tồn diện giúp tài trợ cho thành viên CPF về y tế, nhà ở, giáo dục
và các nhu cầu khi nghỉ hưu. Tuy nhiên, tính chất quan trọng nhất của nó đã khơng thay đổi
kể từ 1955. Suất sinh lợi trên số dư tài khoản CPF của các thành viên phản ánh lãi suất thị
trường,


8
và có mối liên kết trực tiếp giữa tiền đóng vào và lợi ích tích lũy, vì tất cả tiền đóng
vào đều được ghi vào tài khoản riêng của cá nhân, khơng có tái phân phối giữa các thành
viên, điều này ngăn chặn những ý nghĩ cho rằng tiền hưu trí là một hàng hóa cho khơng.
Mọi người lao động ăn lương phải đóng góp 20% thu nhập của mình vào CPF, và
người sử dụng lao động phải góp thêm một khoản tương đương.
9
Chính phủ khơng đóng góp
gì cho CPF ngồi tiền phải đóng với vai trò là người sử dụng lao động trong khu vực cơng,
và các ưu đãi về thuế – với CPF tiền đóng góp, tiền tích lũy và tiền rút ra đều được miễn
thuế. Mặc dù tỷ lệ đóng góp CPF tổng cộng cho thấy một khoản chênh lệch lớn giữa chi phí
lao động và tiền lương người lao động mang về nhà, nó vẫn được thực hiện thành cơng với
sự bóp méo rất nhỏ đối với thị trường lao động do được chấp nhận rộng rãi bởi người sử
dụng lao động và người lao động ăn lương. Ngồi ra, tính linh hoạt của thị trường lao động
được bảo đảm bằng các biện pháp khác như áp dụng lương trọn gói khả biến và thành lập
Hội đồng Tiền lương Quốc gia vào năm 1973 – một cơ quan gồm ba bên để củng cố những
mối quan hệ giữa chính phủ, người lao động và người sử dụng lao động (giới chủ) và đưa ra
các chỉ đạo về điều chỉnh tiền lương hàng năm.
Ngồi việc tạo ra một cơ chế để khuyến khích tiết kiệm cho nghỉ hưu, thiết kế của
CPF còn bảo đảm rằng các nhu cầu cơ bản như nhà ở, y tế và giáo dục được đáp ứng. Các
thành viên được tự do rút tiền tiết kiệm CPF của mình cho mục đích mua nhà, đầu tư tài

8
Lãi suất trên tài khoản của thành viên được tính dựa trên trung bình với trọng số 20% là lãi suất tiết
kiệm và 80% là lãi suất tiền gửi kỳ hạn 12 tháng của ngân hàng thương mại.

9
Phần đóng góp CPF từ người sử dụng lao động đã được cắt giảm còn 10% vào tháng 01 năm 1999
để đáp ứng với sự trì trệ kinh tế trong giai đoạn 1997-1999, nhưng đã được phục hồi một phần lên
12% vào tháng 4 năm 2000 và sau đó lên 16% vào tháng 01 năm 2001. Nó sẽ được phục hồi hồn

tồn về mức 20% khi nền kinh tế phục hồi.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 11 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
chính, chửa bệnh, và học đại học hay cao hơn.
10
Quyền đầu tư đã được tự do hóa đến mức
theo đó nếu các thành viên tin họ có thể, bằng nỗ lực của riêng mình, thu được suất sinh lợi
cao hơn cho số dư của mình trong CPF thì hiện nay được phép đầu tư rộng rãi vào nhiều loại
sản phẩm tài chính được quản lý một cách chun nghiệp, kể cả tài khoản tiền gửi có kỳ hạn,
những loại hợp đồng bảo hiểm được phê duyệt, tài khoản trong các quỹ tín thác và quỹ quản
lý vốn đầu tư. Tóm lại, ngồi những qui định cụ thể của nhà nước, CPF thực chất là một quỹ
hưu trí tự lực cánh sinh.
Để duy trì mục tiêu dài hạn hơn là bảo đảm an tồn về tài chính lúc tuổi già, Chương
trình Tổng số Tối thiểu được đưa ra vào năm 1987 nhằm bảo đảm rằng tất cả mọi người nghỉ
hưu đều có đủ tiền tiết kiệm để duy trì một mức sống khiêm tốn suốt tuổi già. Theo chương
trình này, các thành viên khi bước vào tuổi 55 phải cắt riêng một Tổng số Tối thiểu là 38.200
USD, trong đó 14.700 USD phải được giữ bằng tiền và số 23.500 USD
11
còn lại có thể được

thế chân bằng một căn hộ/nhà. Tổng số Tối thiểu có thể được sử dụng để phát tiền hưu bổng
thơng qua CPF, hoặc dùng để mua một đẳng niên kim (một dòng tiền cố định) thuộc loại
được phê duyệt hoặc tiền hưu bổng từ một ngân hàng thương mại. Điều này bảo đảm rằng ít
nhất một phần của tiền tích lũy hưu trí được tách ra dưới hình thức tiền hưu bổng và khơng
thể bị tiêu xài một cách nhanh chóng.

Chương trình Nhà ở Chung cư
Chương trình nhà ở chung cư của Singapore có thể được mơ tả như một hệ thống phối hợp
chính phủ với thị trường, nhằm mục đích cung cấp nhà ở rộng rãi cho dân chúng, mà khơng
phải nâng nó lên đến mức quyền hay đặc quyền. Chương trình của Singapore được khởi
xướng vào năm 1960, một năm sau khi giành quyền tự quản nội bộ từ Phủ Thuộc địa Anh
Quốc. Chương trình bắt đầu rất khiêm tốn, cung cấp những căn hộ thơ sơ để cho người nghèo
th, những người đang sống trong những khu chen chúc tồi tệ. Một năm sau ngày thành lập,
cơ quan quản lý nhà chung cư, Hội đồng Xây dựng Phát triển Nhà (HDB), chứng kiến sự
hồn thành của hơn 7.000 căn hộ thơ sơ. Hoạt động xây dựng tiến triển nhanh chóng. Chất
lượng của căn hộ cải thiện rất nhanh. Ngày nay các căn căn hộ khơng còn một tí gì để gọi là
thơ sơ nữa và trên 90% người dân Singapore sở hữu nhà chung cư mua bằng tài khoản tiết
kiệm CPF. Thực sự, chương trình nhà ở chung cư thành cơng của Singapore nổi bật lên như
một tương phản sắc nét so với nhiều trường hợp thất bại về nhà chung cư ở những nước khác.
HDB được giao phó sứ mệnh cung cấp nhà ở chất lượng cao và vừa túi tiền cho đại
đa số dân cư. Mức trần thu nhập tiêu chuẩn để th mua nhà HDB được xem xét và tăng lên
theo định kỳ, theo bước mức tăng trưởng kinh tế, để bao gồm đến 90% hộ gia đình.
12
HDB
phân bổ căn hộ trên cơ sở đến trước, mua trước. Giá bán căn hộ của HDB dựa trên những cân

10
Rút trước thời hạn cho các hình thức tiêu dùng khác lại bị cấm, và tiền rút để đầu tư khơng được
phép sử dụng cho mục đích tiêu dùng trước tuổi 55.


11
Qui đổi từ 65.000 đơ la Singapore (25.000 đơ la tiền mặt và 40.000 đơ la bằng nhà ở) với tỷ giá hối
đối 1 USD = 1,7 $ SIN. Mức tỷ giá này sẽ được dùng trong suốt phần còn lại của bài nghiên cứu
này.

12
Hiện nay, mức thu nhập để một hộ gia đình hội đủ điều kiện mua nhà chung cư là 10.000 USD mỗi
tháng.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 12 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
nhắc về khả năng chi trả. Ví dụ, căn hộ mới có 4 phòng của HDB được định mức giá để 70%
hộ gia đình có đủ tiền để mua.
13
Các loại phòng lớn hơn được trợ giá với tỷ lệ lũy lùi. Ở mức
đỉnh của thang giá, ‘Villa của Sếp’, được tính giá trọn chi phí, được chào bán để đáp ứng ước
vọng mới và kỳ vọng ngày càng cao của thế hệ trẻ. Villa của Sếp là tương đương về thiết kế
và tiện nghi với ‘villa’ tư nhân, và được xây dựng và bán bởi các cơng ty tư nhân.
Cơ chế thị trường đi vào hệ thống nhà ở theo cách việc tiêu dùng nhà ở được gắn chủ
yếu với túi tiền (khả năng chi trả). Loại căn hộ được mua là phụ thuộc hồn tồn vào mức mà

hộ gia đình đó sẵn sàng chi trả. Điều này thúc đẩy các gia đình nên đời nhà ở của mình khi
mức thu nhập của họ tăng lên, dẫn đến việc sàng lọc những căn hộ cũ hơn xuống các nhóm
thu nhập thấp hơn.
Qui trình lên đời này đã phát triển đều đặn kể từ những năm 1970, phản ánh thành
cơng kinh tế và sự giàu có ngày càng tăng của Singapore. Một phần nó cũng là hậu quả của
chính sách bán lại nhà của HDB. Chủ sở hữu căn hộ HDB, sau năm năm cư trú, có quyền bán
lại căn hộ cho bất cứ ai hội đủ điều kiện mua nhà chung cư (với mức giá do hai bên thỏa
thuận, hồn tồn khơng có sự can thiệp của HDB) và nộp đơn xin mua một căn hộ HDB mới
cao cấp hơn bằng số tiền bán căn hộ. Chính phủ cho phép sức mạnh thị trường tác động hồn
tồn lên việc xác định giá trị bán lại của các căn hộ. Thơng qua cơ chế bán lại này, nhà ở
chung cư đáp ứng một cách hiệu quả vai trò như một tài sản đầu tư cho người dân Singapore.
HDB có thể thu được lợi nhuận khá lớn từ chương trình nhà ở chung cư của mình, với
thu nhập xuất phát từ bán các căn hộ, tiền cho th các cơ sở thương mãi và cơng nghiệp, và
doanh thu từ các dịch vụ ngoại vi như chợ và bãi đổ xe. Lợi nhuận được tái đầu tư vào những
vòng quay tiếp theo của chương trình xây dựng nhà. Điều này giúp giới hạn lượng tiền trợ
cấp của chính phủ cần thiết để tài trợ cho hoạt động của HDB. Ví dụ trong tài khóa 2000, vốn
của chính phủ cấp cho HDB là chưa đến 3% của ngân sách chính phủ hàng năm.

Y tế
Dịch vụ y tế có các ngoại tác tích cực đáng kể, và thường được nêu lên làm cơ sở để chính
phủ can thiệp và chi tiêu. Hệ thống tài trợ y tế, tuy thế, lại khác nhau rất nhiều từ nước này
sang nước khác, khi các chính phủ vật lộn tìm giải pháp cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao
và hiệu quả về chi phí. Ở một đầu thái cực là hệ thống chăm sóc sức khỏe phổ qt được trợ
cấp hồn tồn bằng tiền thuế theo đó bệnh nhân chịu tiền rất ít hoặc khơng cùng-chi trả khi
tiêu dùng dịch vụ này – Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh Quốc là một trường hợp điển hình. Tuy
nhiên, hệ thống này có xu hướng khuyến khích tiêu dùng q mức, hậu quả là phân phối giới
hạn bằng cách xếp hàng chờ đợi. Ở đầu phía bên kia là hệ thống y tế Mỹ với nhà nước tham
gia rất ít. Ngược lại, điều này dẫn đến các vấn đề như chi phí cao, khơng bao trùm hết dân cư
và khơng đồng nhất về chất lượng chăm sóc y tế.
Giải pháp tài trợ cho y tế của Singapore dựa trên hai ngun tắc thị trường chính yếu:

cá nhân tự chịu trách nhiệm, với cộng đồng và chính phủ hỗ trợ cho những ai gặp khó khăn,
và chế độ bệnh nhân cùng-chi trả để ngăn chặn tiêu dùng q mức và để tránh các khó khăn
khơn lường của hệ thống y tế hồn tồn miễn phí.


13
Số lượng phòng chỉ bao gồm phòng khách/phòng ăn và phòng ngủ; khơng tính nhà bếp và phòng
tắm.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 13 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
Thực hiện theo các ngun tắc trên, chương trình tiết kiệm y tế bắt buộc được triển
khai vào năm 1984 như một bộ phận của CPF để giúp người dân Singapore tích lũy đủ tiền
tiết kiệm để trả chi phí khám chữa bệnh của mình. Theo chương trình này, một phần của tiền
đóng góp CPF hàng tháng của cá nhân (6-8 phần trăm tùy theo độ tuổi) được cắt riêng sang
tài khoản tiết kiệm y tế cá nhân. Cách tiếp cận này gán trách nhiệm trên cá nhân phải tiết
kiệm và sử dụng tiền tiết kiệm y tế của mình một cách cẩn trọng. Nó còn giúp ngăn chặn việc
sử dụng q mức các dịch vụ y tế, bởi vì các cá nhân có thể giữ lại tiền tiết kiệm của mình
cho đến lúc nghỉ hưu nếu họ khơng rút tiền tiết kiệm y tế.
Tiết kiệm y tế bảo đảm quyền tự do chọn lựa của cá nhân về nhà cung cấp dịch vụ y

tế và ngay cả loại phòng/khu trong một bệnh viện. Các dịch vụ y tế cơ bản tại các phòng
khám đa khoa được chính phủ trợ cấp 50% chi phí. Phòng/khu trong bệnh viện được trợ cấp
tùy theo mức độ tiện nghi mà người bệnh nhân chọn. Nói chung, tỷ lệ phần trăm của trợ cấp
chính phủ tăng theo tỷ lệ nghịch với mức độ tiện nghi thoải mái. Ví dụ, phòng/khu Hạng-A
chỉ có một giường bệnh, có TV, phòng tắm riêng, và điều hòa khơng khí được tính giá trọn
chi phí, trong khi phòng/khu Hạng-C cửa mở nằm chung nhiều giường lại được trợ cấp
khoảng 80% chi phí. Tuy nhiên, dù có chênh lệch về mức trợ cấp, mức độ chăm sóc là giống
nhau cho mọi hạng và được chăm sóc bởi cùng đội ngũ nhân viên y tế như nhau. Tóm lại,
bệnh nhân có thể “tự mình chọn” phòng/khu có hạng thích hợp tùy theo độ sẵn lòng chi trả
của mình, mà khơng bị bắt buộc phải vào một nhóm trợ cấp cụ thể nào.
‘Lá chắn y tế’ – chương trình bảo hiểm quốc gia với giá rẽ – được triển khai năm
1990 để cung cấp bảo vệ tài chính cho người dân Singapore trước chi phí cao khi gặp phải
bệnh tật nghiêm trọng hay kéo dài. Lá chắn y tế tự động bù đắp cho tất cả những người có tài
khoản Tiết kiệm y tế dưới 75 tuổi trừ khi tự họ chọn khơng dùng đến. Khơng giống như hầu
hết các chương trình bảo hiểm y tế quốc gia, Lá chắn y tế hoạt động trên ngun tắc phí rủi
ro, chứ khơng phải ngun tắc xã hội, theo đó tiền đóng bảo hiểm và quyền lợi bảo hiểm
được xác định dựa trên các nhân tố rủi ro sức khỏe thực tế trong dân cư. Như thế, người nào
có rủi ro cao hơn phải đóng tiền bảo hiểm cao hơn. Điều này giúp hạn chế tối thiểu trợ cấp
chéo ngấm ngầm giữa người mạnh khỏe và người bệnh hoạn. Cũng khơng có trợ cấp chéo
giữa các nhóm độ tuổi khác nhau.
Dù có Tiết kiệm y tế và Lá chắn y tế, vẫn còn một số ít người Singapore, chủ yếu là
người nghèo và người già cả, khơng có khả năng chi trả tiền chữa bệnh. Trong những trường
hợp đó, chính phủ là cánh tay cứu vớt cuối cùng với Quỹ y tế, một quỹ ký thác được thành
lập như lưới an tồn để giúp người Singapore nghèo khổ chi trả tiền chữa bệnh. Quỹ y tế
được thành lập vào tháng 4 năm 1993 với số vốn ban đầu là 118 triệu USD. Tổng vốn hiện
nay lên đến 412 triệu USD. Chỉ có phần thu nhập lãi từ tổng vốn này được sử dụng. Bệnh
nhân ở các bệnh viện cơng khơng có khả năng trả tiền bệnh viện ngay cả sau khi đã tận dụng
Tiết kiệm y tế và Lá chắn y tế có thể nộp đơn xin Hội đồng Quỹ y tế trợ giúp.

Giáo dục

Giáo dục được thừa nhận rộng rãi, nhất là phổ thơng cơ sở và trung học, là một hàng hóa gần
như là cơng, bởi vì xã hội nhận biết những lợi ích rõ ràng của giáo dục tốt vượt xa hơn những
lợi ích của cá nhân, tư nhân như được phản ánh qua định giá thị trường. Thơng qua đầu tư
của chính phủ vào giáo dục, trình độ giáo dục của người dân Singapore đã cải thiện đáng kể
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 14 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
trong thập niên vừa qua. Ngày hơm nay, 56% những người thuộc độ tuổi từ 25 đến 34 có
trình độ giáo dục trên trung học. Tăng gần ba lần so với thập niên trước đó, xem


Trong khi chính phủ vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng như một nhà cung cấp
dịch vụ giáo dục, chính phủ cũng đã sử dụng các cơ chế thị trường để nâng cao hệ thống
trường cơng lập. Đặc biệt, cơ chế cùng-chi trả được thực hiện nhằm nhấn mạnh thực tế tốn
kém nhiều chi phí cho giáo dục cơng lập. Mức độ cùng-chi trả của cá nhân tăng lên cùng với
cấp học. Mức tiền tối thiểu cùng-chi trả được qui định cho học sinh cấp hai và cấp ba trung
học, vì giáo dục cơ sở hầu như được chính phủ trợ cấp 100%. Ở những cấp học cao hơn, giáo
dục đóng vai trò khơng chỉ là một lợi ích cơng mà còn là một hình thức nâng cao dòng thu
nhập tương lai của cá nhân. Vì thế, tỷ lệ cùng-chi trả là cao hơn đối với sinh viên đại học và
cao đẳng kỹ thuật (bách khoa) – Chính phủ trợ cấp khoảng 83% của chi phí hoạt động cho
các trường cao đẳng kỹ thuật và 75-84% cho các chương trình cử nhân của đại học. Kế hoạch

hiện nay là sẽ tăng học phí đại học trong vòng hai năm tới, phù hợp với chủ trương chính
sách để cho sinh viên đại học chịu 25% của chi phí đào tạo.
Đồng thời, nhiều chương trình cho vay và hỗ trợ tài chính được triển khai để bảo đảm
rằng khơng một sinh viên nào phải đánh mất cơ hội học lên cao do khó khăn về tài chính. Ví
dụ, Chương trình Giáo dục là một chương trình cho vay, theo đó các thành viên CPF có thể
sử dụng tiền tiết kiệm CPF của mình để tài trợ tiền học đại học cho cho con cái hay cho chính
mình.
Về phía bên cung, giáo dục ở Singapore được tự do hóa dần dần với những sáng kiến
mới như Trường học Tự quản. Nó cho trường học quyền tự chủ lớn hơn trong hoạt động, để
các trường có thể tối đa hóa việc sử dụng các nguồn lực và thử nghiệm những ý tưởng và
sáng kiến mới trong giáo dục vì lợi ích của học sinh trường mình. Tất cả trường học ở
Sơ đồ 3:
Trình độ giáo dục của người dân Singapore (độ tuổi 25-34)
Cấp đại học
Bách khoa
Cấp
trung học
Cấp
cơ sở
Cấp tiểu học
Khơng có
trình độ
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore






John W. Thomas và Lim Siong Guan 15 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
Singapore đều chịu sự đánh giá theo “Mơ hình Trường học Xuất sắc” gắn liền với Giải
thưởng Chất lượng Singapore giành cho Tổ chức Xuất sắc, một giải thưởng quốc gia hồn
tồn tương đương với giải thưởng Malcolm Baldridge Award của Hoa Kỳ.

Tắt nghẽn giao thơng và Sở hữu và sử dụng xe ơtơ
Đất là một nguồn lực rất khan hiếm ở Singapore, ở đó xấp xỉ 4 triệu người chia sẻ khoảng
660 km vng đất (Singapore rộng khoảng bốn phần năm diện tích của đảo Mahattan của
thành phố New York, và một phần ba diện tích của Tokyo). Ngồi cơ sở hạ tầng giao thơng,
đất còn cần dùng cho các mục đích nhà ở, thương mại, và cơng nghiệp, huấn luyện qn sự,
hứng nước mưa, và các mục đích giải trí. Hơn nữa, khơng có những khu riêng biệt cho các
mục đích sử dụng đất khác nhau – khu thương mãi và khu dân cư thường nằm sát nhau. Điều
này có nghĩa là đường bộ phải đáp ứng tất cả các loại xe di chuyển quanh đảo này. Vì thế, tắt
nghẽn giao thơng có thể gây ra trở ngại nghiêm trọng cho nền kinh tế.
Với diện tích mặt đường giới hạn, sẽ có ngoại tác tiêu cực đáng kể cứ mỗi lần có một
người quyết định lái ơtơ ra đường, nhất là vào giờ cao điểm. Tổng chi phí có thể gán cho
người lái xe khơng chỉ bao gồm các chi phí tư nhân của việc lái xe (như tiền xăng, tiền bãi đổ
xe và chi phí bảo trì xe) mà người đó chi trả trực tiếp, mà còn cả những chi phí cơng cộng do
tắt nghẽn giao thơng và hậu quả tổn thất hiệu năng trong nền kinh tế. Nếu khơng có sự can
thiệp của chính phủ, sẽ tồn tại thị trường khơng hiệu quả, vì các nguồn lực (trong trường hợp
này, diện tích mặt đường) được định giá q thấp, sử dụng q mức và phân bổ khơng tối ưu.
Hiện nay chính phủ đang áp dụng một loạt các biện pháp hạn chế việc sở hữu và sử
dụng các loại xe ơtơ để quản lý cầu đối với diện tích mặt đường và kiểm sốt tắt nghẽn giao
thơng:

Các Biện pháp Hạn chế Sử dụng Ơtơ
Tính giá phí cầu đường điện tử (ERP): Tính giá phí cầu đường, khi được thực hiện dưới hình

thức áp đặt tiền phí cao hơn trên những người lái xe đi lại vào những thời điểm và những vị
trí nơi mà hệ thống đường đơng nghẹt xe, khuyến khích người lái xe tìm cách giảm bớt tắt
nghẽn giao thơng bằng cách thay đổi phương tiện đi lại, thời gian, lộ trình, hoặc tần suất của
mình. Nó tối ưu hóa việc sử dụng mạng lưới đường và giúp trải mỏng lưu lượng xe vào giờ
cao điểm. Vì thế, tính giá phí cầu đường mang lại một giải pháp phía-cầu cho vấn đề diện
tích mặt đường hạn chế.
14

Hệ thống ERP là một cơ chế tính giá phí cầu đường nhằm tối ưu hóa lưu lượng xe cộ
bằng giá cả “do thị trường thúc đẩy”. Các bảng thu tín hiệu ERP đầu tiên đã được gắn tại
những đường cao tốc chính và tại các điểm ra vào Quận Thương mãi Trung tâm. Sau đó,
ERP đã mở rộng dần để giảm bớt áp lực giao thơng trên những tuyến đường vành đai, nơi mà
tình trạng giao thơng đã trở nên căng thẳng. Theo hệ thống ERP, người lái xe bị tính tiền cứ

14
Các giải pháp phía bên cung, ví dụ xây dựng thêm đường mới, có tính ít bền vững hơn. Theo thời
gian, “cầu tiềm tàng” – những người vẫn thường đi lại bằng các phương tiện giao thơng khác, vào
những thời điểm hay địa điểm khác do tắt nghẽn giao thơng trước đây – sẽ nhanh chóng tham gia sử
dụng mạng lưới đường một khi mật độ giảm, đẩy mức độ tắt nghẽn lên mức cũ một lần nữa. Tính giá
phí cầu đường làm nản lòng khơng chỉ cầu hiện hữu, mà còn cả cầu tiềm tàng.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore






John W. Thomas và Lim Siong Guan 16 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
mỗi lần lái xe ngang qua điểm kiểm sốt ERP có gắn bảng thu tín hiệu trong những giờ hoạt
động. Giá phí ERP được điều chỉnh hàng q dựa trên tình trạng giao thơng để giữ cho tốc
độ ở trong khoản tối ưu 45 đến 65 km/giờ đối với đường cao tốc và 20 đến 30 km/giờ đối với
các trục đường chính. Kể từ ngày thực hiện, lưu lượng xe trên những tuyến đường có tính giá
phí ERP đã giảm đáng kể. Nói chung, lưu lượng giao thơng đã giảm bớt 15% và tốc độ giao
thơng được giữ trong khoản tốc độ tối ưu.
Thuế xăng dầu được đánh ở mức 40% trên giá và được sử dụng chủ yếu như một
cơng cụ quản lý giao thơng.

Các Biện pháp Hạn chế Sở hữu Ơtơ
Thuế Ơtơ: Các biện pháp giới hạn sở hữu ơtơ gồm có tiền phí đăng ký xe, phí đăng ký bổ
sung, và thuế nhập khẩu. Ngồi ra, người sở hữu ơtơ còn phải đóng thuế cầu đường hàng
năm dựa trên cơng suất máy của xe. Phí đăng ký có mức cố định 82 USD. Phí đăng ký bổ
sung và thuế nhập khẩu là những loại thuế lũy tiến tính theo tỷ lệ phần trăm của giá trị xe
trên thị trường tự do. Mức thuế là 31% và 140% tương ứng. Điều này có nghĩa là xe càng đắt
tiền chịu thuế càng cao hơn nhiều so với xe rẽ tiền hơn. Cơ cấu thuế lũy tiến phục vụ một
chức năng hữu ích theo quan điểm cơng bằng xã hội.
Hệ thống Hạn ngạch Ơtơ được áp dụng vào tháng 5 năm 1990. Hệ thống này khống
chế sự gia tăng số lượng xe ở một mức độ bền vững. Hạn ngạch ơtơ được xem xét lại hàng
năm, có tính đến diễn biến của lượng xe hủy đăng ký và tính bền vững của tốc độ gia tăng.
Hiện nay, chỉ tiêu là giữ tốc độ gia tăng của ơtơ khoảng 3% mỗi năm cho đến năm 2005
nhằm kiểm sốt được tắt nghẽn giao thơng. Chỉ tiêu này được điều chỉnh 5 năm một lần.
Hệ thống này có các tính chất chủ yếu như sau: Bất cứ ai có ý định đăng ký một chiếc
xe ơtơ đều phải trước tiên bỏ thầu tranh một Chứng chỉ Đặc quyền (COE) trong một cuộc đấu
thầu cơng khai. Phương pháp này được chọn bởi vì định giá là phương thức hữu hiệu nhất để
phân phối hạn chế các nguồn lực khan hiếm, trong trường hợp này là quyền sở hữu một chiếc
ơtơ. Những người thắng thầu chỉ cần chi trả ở mức giá bỏ thầu thành cơng thấp nhất. Qui

trình đấu thầu cạnh tranh này được tinh chỉnh qua các năm để bảo đảm phân phối hiệu quả.
Đấu thầu trên mạng sẽ được tiến hành thử nghiệm vào q hai năm 2001. Điều này sẽ mang
lại nhiều thơng tin cần thiết cho cơng chúng khi tham gia đấu thầu. COE có giá trị trong 10
năm. Q thời hạn đó, người sở hữu hoặc là phải chấm dứt sử dụng xe hoặc là phải gia hạn
COE đó thêm 10 năm nữa bằng cách đóng tiền hạn ngạch theo mức hiện hành. Nếu người đó
hủy đăng ký chiếc xe, Cơ quan Giao thơng Đường bộ sẽ tái sử dụng COE đó và nhập nó vào
chung cho những người mua mới đấu thầu. Thực sự, đây là một hệ thống quyền sử dụng có
thể gia hạn.
Bằng cách ấn định hạn ngạch ơtơ và định giá hạn ngạch thơng qua đấu thầu, chính
phủ thu hồi một cách hiệu quả tiền tơ kinh tế thay vì để nó trở thành lợi nhuận của những
người mua bán xe (trong khi một hệ thống bốc thăm/xổ số sẽ chỉ chuyển giao tơ kinh tế cho
những cá nhân may mắn). Tiền thu thuế liên quan đến ơtơ và COE trở thành một phần của
nguồn thu hoạt động của chính phủ và được tái phân phối trở lại cho cơng chúng thơng qua
chi tiêu của chính phủ.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 17 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
Thuế đối với Lao động Người nước ngồi
Singapore vẫn ln ln sử dụng đòn bẩy nhân lực nước ngồi ở mọi cấp độ để nâng cao
tăng trưởng kinh tế. Sử dụng nhân lực nước ngồi là một chiến lược có chủ định để giúp

Singapore có thể tăng trưởng vượt xa hơn mức mà nguồn lực bản địa có thể tạo ra. Hệ thống
visa lao động nhắm mục đích thu hút nhiều nhóm nhân lực nước ngồi khác nhau thơng qua
thang đặc quyền giảm dần, với đặc quyền cao hơn giành cho những người có trình độ cao
hơn. Có một chính sách rất thống mở về cấp visa lao động cho những người nước ngồi có
kỹ năng và tài năng nếu họ muốn làm việc ở Singapore, với các biện pháp kiểm sốt chặt chẽ
tăng dần được áp dụng để điều tiết việc tuyển dụng lao động nước ngồi khơng có kỹ năng và
kỹ năng thấp kèm chế độ giấy phép lao động phải được gia hạn sau 2 hoặc 3 năm.
Hiện nay có hơn 500.000 người nước ngồi có giấy phép lao động ở Singapore, kể cả
hơn 100.000 người nước ngồi giúp việc trong gia đình. Trong khi những người lao động này
giúp bổ sung lực lượng lao động trong nước và góp phần vào tăng trưởng kinh tế, vẫn có
những chi phí xã hội nghiêm trọng phát sinh từ sự hiện diện của một lực lượng đơng đảo lao
động nước ngồi khơng có kỹ năng ở Singapore. Vì thế, các cơ chế kiểm sốt được triển khai
để điều tiết dòng người lao động thiếu kỹ năng. Một hình thức kiểm sốt là thuế đối với lao
động người nước ngồi (đưa ra thực hiện vào năm 1980) với mục đích điều tiết dòng người
lao động bằng cơ chế giá cả. Các sức mạnh thị trường được đưa vào theo cách để người lao
động nước ngồi được phân phối vào nhiều ngành cơng nghiệp và khu vực kinh tế khác
nhau, tùy theo khả năng chi trả của người chủ th mướn họ.
Chương trình thuế lao động người nước ngồi nhằm bảo đảm rằng lao động nước
ngồi khơng đè ép một cách giả tạo mức lương trong nước và trở thành một chọn lựa rẽ tiền
hơn trong khi lao động trong nước chịu thiệt hại. Chương trình này rất hiệu quả trong việc
giúp cải thiện mức lương của lao động cấp thấp trong nước.

Các Cơng ty có Liên kết với Chính phủ (GLC)
Đầu thập niên 1960, vào lúc mới độc lập, Singapore gặp tình trạng thất nghiệp tràn lan, thiếu
hụt nhà ở trầm trọng, và sút giảm trong nền kinh tế cảng trung chuyển. Singapore thiếu
nghiêm trọng trình độ chun mơn về quản trị tư nhân, đầu óc kinh doanh và vốn trong nhiều
khu vực của nền kinh tế. Vấn đề cấp bách là phải tái cơ cấu nền kinh tế từ dựa trên sản xuất
thay thế hàng nhập khẩu sang dựa trên cơng nghiệp hóa theo định hướng xuất khẩu, hỗ trợ
bởi vốn, thị trường, và cơng nghệ nước ngồi. Trong hồn cảnh đó, Chính phủ đã chọn cách
tiếp cận can thiệp mạnh để giúp đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế. Các cơng ty đa

quốc gia được mời đón với điều kiện thoải mái. Một số Cơng ty có Liên kết với Chính phủ
(GLC) được thành lập trong một số khu vực cụ thể của nền kinh tế nơi đang thiếu doanh
nghiệp tư nhân như đóng tàu, hàng khơng, vận tải biển và ngân hàng đầu tư phát triển.
Ví dụ, hồi đó ngành ngân hàng còn phơi thai và manh mún. Hiếm có ngân hàng nào ở
Singapore sẵn sàng cho vay với thời hạn q 3 năm hoặc tài trợ vốn cho những cơng ty sản
xuất mới ra đời. Chính phủ đã bước vào để giải quyết sự thất bại thị trường này bằng cách
cung cấp tài trợ phát triển cho những cơng ty sản xuất, kể cả đầu tư vốn chủ sở hữu. Điều này
cuối cùng đã dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng Phát triển Singapore (DBS) vào năm 1968.
Khơng bao lâu sau khi thành lập, DBS được niêm yết bán cổ phiếu trên Thị trường Chứng
khốn, chủ yếu để thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân và buộc ngân hàng này phải
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Tài chính công
Bài đọc
Sử dụng các thò trường đề quản trò quốc
gia tốt hơn ở Singapore





John W. Thomas và Lim Siong Guan 18 Biên dòch: Từ Nguyên Vũ
chịu sự khắc nghiệt và kỷ cương của thị trường trong hoạt động kinh doanh của mình. DBS
là GLC đầu tiên được niêm yết trên thị trường chứng khốn và có mức vốn theo cổ phiếu trên
thị trường 59 triệu USD hồi đó. Ngày nay nó là một trong những tập đồn ngân hàng lớn nhất
trong khu vực, và được xếp hạng trong số 100 ngân hàng hàng đầu trên thế giới, với mức vốn
theo thị trường là 14 tỷ USD.
Vì nhiều GLC đã lớn mạnh trở thành những thực thể thương mãi thành cơng hoạt
động trên các thị trường cạnh tranh cả trong nước lẫn nước ngồi, khơng còn các lý do bức
bách để Chính phủ phải nắm giữ cổ phần kiểm sốt trong những cơng ty này. Số liệu thống

kê mới nhất cho thấy rằng các GLC chỉ chiếm khoảng 13% của tổng giá trị gia tăng trong nền
kinh tế. Qua thời gian, Chính phủ đã giảm bớt cổ phần của mình trong những GLC này. Ví
dụ, Chính phủ hiện nắm giữ 37% cổ phần của DBS và sẵn sàng giảm nhiều hơn nữa. Vì có
liên quan đến tài sản cơng, nên cần phải bán khoản đầu tư chỉ khi nào có giá đúng và điều
kiện thị trường thuận lợi.
Nhìn trong bối cảnh rộng hơn, cách tiếp cận chung là ‘cơng ty hóa’ tất cả các hoạt
động nào của chính phủ có dòng kết tốn lãi/lỗ, hoặc dưới dạng các cơng ty bình thường hoạt
động trong khu vực tư nhân hoặc dưới dạng doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trước
các Bộ thuộc Chính phủ.
15
Các GLC thuộc nhóm thứ nhất. Chúng hoạt động khơng có trợ
cấp chính phủ và được điều hành trên cơ sở thương mãi, chịu chung luật và qui định như bất
kỳ cơng ty nào khác trong khu vực tư nhân. GLC có quyền tự chủ hồn tồn đối với các
quyết định kinh doanh và đầu tư. Chúng phải chịu tất cả các qui luật của cạnh tranh, và phải
đáp ứng và phản ứng nhanh chóng trước các thay đổi trong mơi trường kinh doanh. Chính
phủ tin rằng khơng phải quyền sở hữu quyết định việc một cơng ty hoạt động hiệu quả như
thế nào, mà chính là chất lượng của hội đồng quản trị và ban giám đốc cơng ty. GLC phải thu
được suất sinh lợi kỳ vọng bình thường của các cơng ty kinh doanh. GLC là một minh họa rõ
ràng cho việc Chính phủ sử dụng các giải pháp thị trường đã nâng cao tính hiệu quả như thế
nào về phía bên cung. Kỷ cương của thị trường là động lực tốt nhất cho hoạt động hiệu quả.
Các GLC đứng vững giữa những cơng ty có niêm yết chứng khốn của Singapore, và biết
rằng chúng phải đạt đẳng cấp quốc tế thì mới tồn tại và thành cơng. Ba cơng ty niêm yết lớn
nhất trên Thị trường Chứng khốn Singapore là GLC: Singapore Telecom, DBS Bank, và
Singapore Airlines và rõ ràng đạt được vị thế này bằng cách hiệu quả và có lãi.

Cơng nghệ và Phát triển Chuỗi xí nghiệp
Chính phủ đóng một vai trò then chốt trong việc tiên liệu các cơ hội và xu thế trong tương
lai, chọn các nước đi chiến lược trong những lĩnh vực mới và xây dựng năng lực dài hạn.
Khơng giống như khu vực tư nhân, thường bị thúc đẩy bởi các mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận
trong ngắn hạn, Chính phủ có thể đi theo định hướng dài hạn hơn trong cách tiếp cận của

mình đối với đầu tư và lập dự tốn ngân sách cho các tài ngun quốc gia.
Chính phủ đã tiến hành nhiều chương trình đầu tư khác nhau để xây dựng năng lực
kinh tế trong nước và chuẩn bị tốt hơn cho Singapore trước các thay đổi trong nền kinh tế
tồn cầu. Xin nêu hai ví dụ:

15
Có những Ủy ban Nhà nước với chức năng hoặc là điều tiết hoặc là phát triển chung.

×