Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

CHẤT LƯỢNG NƯỚC TRONG KHU VỰC PHÂN BỐ CỦA ỐC GẠO (Cipangopaludina lecithoides ) VÀ VẸM SÔNG (Limnoperna fortune) Ở HUYỆN CHỢ LÁCH, TỈNH BẾN TRE

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.78 MB, 39 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

ĐOÀN NGUYỄN MINH TUÂN
CHẤT LƯỢNG NƯỚC TRONG KHU VỰC PHÂN BỐ CỦA ỐC
GẠO (Cipangopaludina lecithoides ) VÀ VẸM SÔNG
(Limnoperna fortune) Ở HUYỆN CHỢ LÁCH,
TỈNH BẾN TRE
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
2012
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

ĐOÀN NGUYỄN MINH TUÂN
CHẤT LƯỢNG NƯỚC TRONG KHU VỰC PHÂN BỐ CỦA ỐC
GẠO (Cipangopaludina lecithoides )VÀ VẸM SÔNG (Limnoperna
fortune) Ở HUYỆN CHỢ LÁCH,
TỈNH BẾN TRE
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
HUỲNH TRƯỜNG GIANG
2012
LỜI CẢM ƠN
Lời nói đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Ban giám hiệu
và quý thầy, cô Khoa thủy sản Trường Đại học Cần Thơ đã tạo điều kiện cho
tôi học tập và thực hiện luận văn này. Cảm ơn quý thầy, cô đã tận tình dẫn dắt
và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thu mẫu, phân tích và xử lý mẫu.
Đặc biệt tôi xin cảm ơn thầy Huỳnh Trường Giang và cán bộ Phòng thí
nghiệm phân tích chất lượng nước Khoa thủy sản Trường Đại học Cần Thơ, đã


tạo điều kiện và tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn
này.
Cảm ơn các anh chị, các bạn lớp Sinh học biển K34 và lớp liên thông
Nuôi trồng thủy sản K36 đã nhiệt tình giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn gia đình, người thân và bạn bè đã động viên, tạo mọi điều
kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành khóa học.
Xin chân thành cảm ơn.
Tác giả
i
TÓM TẮT
Quá trình thu mẫu được thực hiện từ Tháng 08/2011 đến Tháng 05/2012.
Mẫu thu tại 3 điểm tại hạ nguồn nơi tiếp giáp vùng nhiễm mặn huyện Mỏ Cày
Bắc, Bến Tre và 6 điểm xung quanh khu vực cồn Phú Đa, huyện Chợ Lách, Bến
Tre: 3 điểm bên có ốc gạo phân bố và 3 điểm phía bên không có ốc gạo phân bố.
Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm: nhiệt độ, độ mặn, pH, lưu tốc nước, DO, TSS,
BOD
5,
TAN, NO
2
-
,NO
3
-
, PO
4
3-
, TN, TP nước và TN, TP bùn đáy. Kết quả cho
thấy đa số các chỉ tiêu qua các tháng khác biệt không có ý nghĩa (p> 0,05). Khu
vực có ốc gạo có lưu tốc dòng chảy thấp hơn các khu vực khác. Vật chất lơ lửng

TSS và hàm lượng TN trong khu vực có ốc gạo thấp hơn có ý nghĩa so với 2 khu
vực còn lại. Hàm lượng hữu cơ (TOM), TN và TP bùn đáy ít có sự khác biệt có
ý nghĩa qua các tháng. Vào mùa khô vật chất lơ lửng, lưu tốc dòng chảy thấp và
khác biệt có ý nghĩa (p< 0,05) so với mùa mưa. Đây là đặc điểm môi trường rất
quan trọng cho sự hiện diện của vẹm vào mùa khô. Đạm TAN, TN-nước, TP-
nước, TN-bùn khu vực có ốc gạo cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) so với mùa khô.
Đây là nguồn dinh dưỡng quan trọng. Tuy nhiên, TP trong bùn thì thấp hơn có ý
nghĩa (p<0,05) so với mùa mưa. Các yếu tố thủy lý hóa dao động trong các khu
vực và trong các tháng là do ảnh hưởng của các hoạt động nông nghiệp trong
vùng, nước sinh hoạt từ các khu dân cư, hiện tượng rửa trôi do mưa và nước
thượng nguồn đổ về.
ii
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN i
TÓM TẮT ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG iv
DANH MỤC HÌNH v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT vi
2.4 Các yếu tố môi trường và vẹm sông 5
Phần IV KẾT QUẢ THẢO LUẬN 11
4.1 Nhiệt độ 11
4.2 pH 12
4.3 Độ mặn 13
4.4 Lưu tốc 13
4.5 Hàm lượng oxy hòa tan (DO) 14
4.6 Hàm lượng vật chất lơ lững trong nước (TSS) 16
4.7 Nhu cầu oxy sinh học (BOD5) 17
4.8 TAN 19
4.9 Nitrite (NO2-) 20

4.10 Nitrate (NO3-) 21
4.11 Photphat (P-PO43-) 22
4.12 TOM (Tổng vật chất hữu cơ bùn đáy) 23
4.13 TN nước (Tổng đạm) 24
4.14 TP nước (Tổng lân) 25
4.14 Hàm lượng đạm trong bùn (TN) 26
4.15 Hàm lượng lân trong bùn (TP) 27
Phần V KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 29
5.1 Kết luận 29
5.2 Đề xuất 29
iii
LỜI CẢM ƠN Error: Reference source not found
TÓM TẮT Error: Reference source not found
MỤC LỤC Error: Reference source not found
DANH MỤC BẢNG Error: Reference source not found
DANH MỤC HÌNH Error: Reference source not found
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Error: Reference source not found
DANH MỤC BẢNG
Bảng Trang
Bảng 3.1 Các chỉ tiêu và phương pháp phân tích……… ………………10
Bảng 5.1 Kế hoạch thực hiện…………… …………………………… 12
iv
DANH MỤC HÌNH
Hình Trang
Hình 1: Vẹm sông (Dreissena sp.)…………………….………………….3
Hình 2: Ốc gạo (Cipangopaludina lecithoides) cồn Phú Đa…….….…….8
Hình 3: Địa điểm thu mẫu……………….…………………………… 9
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DO: Hàm lượng oxy hòa tan.

BOD
5
: Tiêu hao oxy sinh học.
TAN: Tổng đạm trong nước.
NO
2
-
: Nitrite.
NO
3
-
: Nitrate.
PO
4
3
-
: Phophat.
TSS: Hàm lượng vật chất lơ lững trong nước.
TOM: Tổng vật chất hữu cơ.
TN: Tổng đạm kjedalh.
TP: Tổng lân kjedalh.
vi
Phần I ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Giới thiệu
Ốc gạo (Cipangopaludina lecithoides) cồn Phú Đa, huyện Chợ Lách,
Bến Tre là loại thủy sản có giá trị kinh tế, sản lượng 14-15 tấn/năm. Tuy
nhiên gần đây xuất hiện loài vẹm sông (Limnoperna fortunei) bám lên ốc
ảnh hưởng sinh trưởng và phát triển làm cho sản lượng và chất lượng sụt
giảm nghiêm trọng.
Vẹm sông (Limnoperna fortunei) là một trong 100 loài xâm hại nguy

hiểm nhất hiện nay (Theo trung tâm nghiên cứu loài ngoại lai, Đại học
California Riverside, Mỹ). Ở các nước châu Á - Âu và Bắc Mỹ vẹm sông
phát tán và gây hại rất lớn như bám dày đặc vào bến cảng, tàu thuyền, bè
nuôi thủy sản, ống dẫn nước, các công trình xây dựng, nhà máy thủy điện,
nhà máy nước, làm thay đổi hệ sinh thái, cạnh tranh thức ăn, lấn áp, bám
và ảnh hưởng đến các loài bản địa. Với tốc độ lọc rất nhanh (1-2
lít/ngày/con), vẹm đã làm giảm sinh khối các loài động vật phù du hạn chế
thức ăn cho các ấu trùng cá và các loài cao hơn trong chuổi thức ăn. Chúng
bám dày đặc làm ảnh hưởng cá kiếm ăn và sinh sản (Marsden và
Chotkowski, 2001). Ngoài ra nó còn ăn thịt, cạnh tranh thức ăn, 60% loài
động vật có nguy cơ tuyệt chủng hoặc bị đe dọa ở Bắc Mỹ, hay làm giảm
sản lượng đánh bắt cá. Tuy nhiên, vẹm sông cũng có lợi nhưng không lớn
như tác hại của chúng như: vỏ được xay làm phân bón, làm thức ăn chăn
nuôi gia cầm, thịt được sử dụng làm mồi câu cá và sản xuất bột cá, chúng
còn là sinh vật chỉ thị môi trường. Ở Việt Nam từ khi vẹm sông
(Limnoperna fortunei) xuất hiện trong cồn Phú Đa, chúng đã làm sản lượng
và chất lượng ốc gạo giảm sút ngiêm trọng. Vì vậy để đảm bảo nguồn lợi ốc
gạo trong khu vực này cần phải có biện pháp hạn chế sự phát triển của vẹm
bám trên ốc gạo.
Từ những vấn đề trên nghiên cứu “Đánh giá chất lượng môi trường
trong khu vực phân bố ốc gạo và vẹm sông ở Chợ Lách, tỉnh Bến Tre“ đã
được tiến hành.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1
Tìm ra sự khác biệt giữa các yếu tố môi trường ở nơi có và không có ốc
gạo và vẹm sông phân bố trong khu vực cồn Phú Đa, huyện Chợ Lách, Bến
Tre. Nhằm có những biện pháp tác động theo hướng hạn chế sự phát triển của
vẹm bám trên ốc gạo.
1.3 Nội dung nghiên cứu
Khảo sát các chỉ tiêu môi trường ở nơi có và không có ốc gạo và vẹm sông

ở khu vực cồn Phú Đa, Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.
Đánh giá sự tương quan giữa điều kiện môi trường nước và sự phân bố của
vẹm sông.
Phần II LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Phân loại và phân bố của vẹm sông (Limnoperna fortunei)
2.1.1 Phân loại
Nghành: Mollusca
Lớp: Bivalvia
Lớp phụ: Heterodonta
Bộ: Mytiloida
Họ: Mytilidae
Giống: Limnoperna
Loài: Limnoperna fortune
2
Tên Tiếng Anh: Golden Mussel
Tên Tiếng Việt: Vẹm Vàng
Hình 1: Vẹm sông (Limnoperna fortune).
(Nguồn: />q=g&hl=vi&prmd=imvns&source=lnms&tbm=isch&sa=X&ei=G3HxT-
b5NOWfiAfCge36DA&ved=0CEEQ_AUoAQ&biw=1024&bih=499#hl=vi&tbm=isch&sa=1&q=
limnoperna+fortunei&oq=limnoperna+fortunei&gs_l=img.3 0i24.105768.127525.0.130518.19.5.
0.14.14.0.760.2157.0j1j1j0j1j1j1.5.0 0.0.E2MJjZ20FWQ&pbx=1&bav=on.2,or.r_gc.r_pw.r_qf.,c
f.osb&fp=3d4928b7ff787c2&biw=1024&bih=463).
Vẹm giống 2-8 mm, vẹm trưởng thành 20 mm, lớn nhất 60 mm.Màu sắc
chung của vỏ là vàng nâu.
2.1.2 Phân bố
Limnoperna fortunei (hoặc vẹm vàng) có nguồn gốc từ Trung Quốc và các
con sông phía đông nam châu Á. Nó đã xuất hiện tại Hồng Kông vào năm 1965
và tại Nhật Bản, Đài Loan trong năm 1990. Năm 1991 nó đã xâm nhập vào nước
Mỹ thông qua các lưu vực sông Plata ở Nam Mỹ. Nó gây ra thiệt hại lớn cho
kinh tế làm tắc nghẽn hệ thống cung cấp nước và làm mát của cơ sở. Nó được

coi là một loài xâm hại ở Nam Mỹ và dự kiến sẽ lan rộng hơn (Ricciardi, 1998).
2.2 Đặc điểm sinh học và sinh thái của vẹm sông (Limnoperna fortunei)
Nhiệt độ thích hợp để vẹm phát triển là 16-28
o
C (ấu trùng), 8-35
o
C (vẹm
trưởng thành) (Ricciardi, 1998) và chết ở 51
o
C (Perepelizin và Boltovskoy,
2011). Tuổi thọ của vẹm từ 2-3 năm, cao nhất 5-10 năm (Nichols và Black,
3
1998). Vẹm lớn càng nhanh thì tuổi thọ càng ngắn (Karatayev et al., 2006). Các
chỉ tiêu thủy lý hóa thích hợp cho vẹm như độ mặn 0-12‰, Ca
2
+


3,0 mg/L,
pH

6,4, DO

1,0 mg/L,(Ricciardi, 1998). Độ đục thích hợp cho vẹm sinh
sống dao động từ 40-200 NTU (ERSR, 2005). Vẹm giống 2-8 mm, vẹm trưởng
thành 20 mm, lớn nhất 60 mm. Trưởng thành một năm tuổi. Con cái thường
chiếm 2/3 số lượng trong quần thể. Có khả năng chịu đựng cao và rất thay đổi
theo sinh lý. Ấu trùng Veliger từ 30-70 ngày. Tuyến sinh dục phát triển tháng 5,
giao phối mạnh vào tháng 6 và suy giảm tháng 10 hàng năm. Sinh sản 1-2
lần/năm, phân tích và thụ tinh ngoài.

Vẹm sinh sống ở các hồ, sông nước ngọt và cả vùng của sông. Vẹm phát
triển mạnh ở khu vực có TSS dao động từ 1-18,7 mg/L (Fanslow et al., 1995).
Vẹm L.Fortunei có thể sống ở độ sâu 50 m, môi trường nền đáy thích hợp cho
vẹm là đá và cát. Nền đáy bùn vẹm không phát triển và sống bám vào giá thể
(Burlakova et al, 2006). Giai đoạn ấu trùng Veliger của vẹm (100-200) sống trôi
nổi (Eilers et al, 2011) và sống bám ở giai đoạn giống (2-8 mm). Tỉ lệ chết ở ấu
trùng từ 2-100% nhiều nhân tố như độ đục, quá trình lọc của copepod, của vẹm
trưởng thành, sự tấn công của vi khuẩn,… (Lucy, 2006). Giới hạn chịu đựng của
vẹm ở các ngưỡng như nhiệt độ: thấp nhất 0
o
C-cao nhất 35
o
C, pH thấp nhất
6,0-cao nhất 7,8, Ca
2
+
thấp nhất 1,0 mg/L-cao nhất 12 mg/L, DO: thấp nhất 0,1
mg/L-cao nhất 11,3 mg/L, độ sâu tối đa 40 m, độ trong thấp nhất 10 cm, lưu tốc
nước tối đa là 1,1 m/s.
2.3 Tác hại của vẹm sông, biện pháp phòng tránh và khắc phục
2.3.1 Tác hại
Kể từ khi xuất hiện ở Trung Quốc vẹm đã bám kín các bến cảng, tàu
thuyền, neo, ống dẫn dầu và các lồng bè nuôi thủy sản. Chúng làm tắc nghẽn
ống hút nước của nhà máy nước thành phố, công trình thủy điện và lồng bè thủy
sản. Với tốc độ lọc rất nhanh (1–2 lít/ngày/con), vẹm đã làm giảm sinh khối
động thực vật phù du, hạn chế thức ăn cho ấu trùng cá và các loài cao hơn trong
chuỗi thức ăn.
Tuy nhiên, vẹm sông cũng có lợi nhưng không lớn như tác hại của chúng
như: vỏ được xay làm phân bón, làm thức ăn chăn nuôi gia cầm, thịt được sử
dụng làm mồi câu cá và sản xuất bột cá, chúng còn là sinh vật chỉ thị môi

trường.
4
2.3.2 Biện pháp phòng tránh và khắc phục
Có nhiều biện pháp đưa ra để hạn chế tác hại của vẹm sông như: sinh học,
hóa học và vật lý, tuy nhiên các biện pháp điều có hiệu quả nhất định nhưng ở
mức độ không cao.
Như sử dụng các loài kẻ thù tự nhiên của vẹm sông như: các loài chim
nước, thủy cầm, tôm càng,…để làm giảm mật độ vẹm sông nhưng không ảnh
hưởng đến các động vật thân mềm khác.
Sử dụng các loài vi khuẩn, ký sinh trùng gây bệnh để quản lý các quần thể vẹm
sông cũng đang được nghiên cứu. Ngoài ra, còn có một số chất độc hóa học để
tiêu diệt vẹm sông như: Chlorine Dioxide, Ozone, Prechlorination, Hydrogen
Peroxide, muối vô cơ hoặc điều chỉnh pH.
Các phương pháp kiểm soát khác bao gồm: xử lý nhiệt, thiếu oxy, bức xạ,
dòng điện, rung động âm thanh. Ngoài ra còn can thiệp vào quá trình sinh sản,
các nhà khoa học đang tiếp tục nghiên cứu về chu kỳ sống, môi trường để có
biện pháp kiểm soát vẹm sông một cách hiệu quả và an toàn.
2.4 Các yếu tố môi trường và vẹm sông
Theo mùa trong năm thì vẹm sinh sản theo mùa nhất định trong năm
(Mikheev 1964; Lovova 1980, Karatayev, 1983), vẹm có thể phát triển nhanh
trong nước hơn tầng đáy (Vaate 1991; Yu và Culver 1999), về điều kiện dinh
dưỡng thì vẹm phát triển nhanh trong môi trường có dinh dưỡng cao (Horvath
và Lamberti 1999), yếu tố dòng chảy thì ở dòng chảy cao vẹm sẽ bị giảm tăng
trưởng, dòng chảy thích hợp nhất từ 0,5-0,8 m/s. Nếu cao hơn 1,5 m/s sẽ ức chế
sự phát triển của vẹm (Dorge 1993; Bur1akova 1998). Mật độ của vẹm giảm
theo độ sâu, 1-1,5 m là tốt nhất (Mikheev 1964; Garton và Johnson, 2000), sóng
gió nhiều thì cũng sẽ làm giảm sự tăng trưởng phát triển của vẹm(Mikheev,
1964). Theo Summers et al., 1996 thì độ đục cũng ảnh hưởng đến sự phát triển
của vẹm, khi độ đục càng cao sẽ làm ức chế sự phát triển của vẹm.
Theo Nguyễn Văn Lục và ctv (2006) công bố một điều tra về đặc điểm sinh

lý, sinh thái của ốc gạo tại khu vực huyện Chợ Lách, Bến Tre. Các tác giả không
có một thông tin đề cập tới vẹm sông, tuy nhiên các tác giả đã cung cấp các
thông tin quan trọng về các yếu tố thủy lý hóa ở khu vực trên. Theo đó nhiệt độ
tầng mặt dao động trong khoảng 28,4-31,2
o
C, trung bình 29,5
o
C, pH dao động
trong khoảng 6,4-7,4, pH thấp vào mùa mưa. Oxy hòa tan (DO) dao động không
5
lớn trong khoảng 5,78-6,34 mgO
2
/L. Hàm lượng vật chất lơ lửng (TSS) biến
động rất lớn theo không gian, thời gian. Hàm lượng TSS của tầng mặt dao động
124-275 mg/L. Giá trị TSS vào mùa mưa cao gấp 1,2 lần mùa khô. Nhu cầu oxy
sinh hóa BOD
5
của tầng nước mặt biến động mạnh theo thời gian, dao động
trong khoảng 1,8-5,8 mgO
2
/L.
Theo Võ Như Pha (2011) cho thấy hầu hết các yếu tố như: Nhiệt độ,
độ mặn, pH, lưu tốc, DO, TSS, BOD
5
, TAN, NO
2
-
, NO
3
-

, PO
4
3-
, TN, TP
nước và TN, TP bùn đáy ở chín địa điểm thu mẫu tại khu vực cồn Phú Đa
và khu vực giáp nước huyện Mỏ Cày Bắc khác biệt không có ý nghĩa (p>
0,05) giữa khu vực có và không có vẹm sông, biến động không lớn giữa
mùa mưa - mùa khô và nằm trong phạm vi thích hợp cho sự phát triển của
thủy sinh vật. Tốc độ dòng chảy ở khu vực có vẹm thấp hơn so với khu
vực không có vẹm và dao động lần lượt từ 0,000-1,139 m/s và 0,000–
1,650 m/s. Mật độ ấu trùng và vẹm trưởng thành bám trên giá thể khác
biệt không có ý nghĩa (p> 0,05) giữa hai khu vực. Quần thể vẹm phát triển
vào mùa khô và suy kiệt vào mùa mưa. Trong khu vực nghiên cứu, sự
phân bố của vẹm sông phụ thuộc vào sự có mặt của giá thể ( ốc gạo và các
loài giá thể khác) mà không phụ thuộc vào các yếu tố môi trường nước.
Theo Bùi Minh Quyền (2011) các yếu tố như: nhiệt độ, độ mặn, pH,
lưu tốc, DO, TSS, BOD
5
, TAN, NO
2
-
, NO
3
-
, PO
4
3-
, TN, TP nước và TN,
TP bùn đáy ở chín địa điểm thu mẫu tại khu vực cồn Phú Đa và khu vực
giáp nước huyện Mỏ Cày Bắc tương đối thấp, biến động theo thời gian

nhưng không lớn và không khác biệt có ý nghĩa giữa các khu vực. Nhìn
chung, các yếu tố thủy lý hóa này thường thấp trong mùa khô (Tháng 1,2),
do ảnh hưởng rất lớn của hoạt động nông nghiệp trong vùng, nước sinh
hoạt từ các khu dân cư, hiện tượng rửa trôi do mưa và nước thượng nguồn
đổ về. Riêng độ mặn, khu vực giáp nước vào Tháng 5/2011 có bị nhiễm
mặn nhẹ ở mức 2‰ do hiện tượng xâm nhập mặn vào mùa khô. Ngoài ra
thành phần đạm và lân trong bùn của khu vực không có ốc gạo trong mùa
khô (Tháng1,2) và cao hơn các khu vực khác có thể do ảnh hưởng từ các
ao nuôi cá tra xung quanh.
6
2.5 Đặc điểm sinh học ốc gạo (Cipangopaludina lecithoides) cồn Phú Đa,
huyện Chợ Lách, Bến Tre
Hình 2: Ốc gạo
(Cipangopaludina lecithoides) cồn Phú
Đa.
Ốc gạo thường xuất hiện
ở vùng đáy mềm, thành phần cơ học của đất chủ yếu là bùn pha cát, đáy giàu
chất hữu cơ, những nơi thành phần đất sét cao (sét chiếm trên 50%) thường
không thấy xuất hiện ốc gạo, sự phân bố của ốc gạo biến động phụ thuộc vào
cường độ quá trình bồi xói đáy bãi ốc. Mật độ ốc gạo trên bãi ốc có sự biến động
lớn theo không gian và thời gian: vào mùa mưa ốc thường tập trung vào các rãnh
sâu ở lòng sông và di chuyển vào vùng ven bờ vào các tháng mùa khô. Mật độ
ốc gạo dao động từ 3,95-105,84 g/10 m
2
tương ứng 1,07- 24,26 con/10 m
2
, chiều
dài ốc dao động trong khoảng 11,4-33 mm, khối lượng toàn thân là 0,32-8,12 g.
Thức ăn chủ yếu của ốc gạo là mùn bã, sinh trưởng của ốc chịu ảnh hưởng nhiều
bởi sự biến đổi của môi trường theo mùa khí hậu, ốc sinh trưởng nhanh vào mùa

mưa (Tháng 6-9), sinh trưởng chậm vào thời kỳ chuyển từ mùa mưa sang khô
(Tháng 2-3), nguyên nhân chủ yếu là do sự thay đổi đột ngột của môi trường
(nhiệt độ, hàm lượng thức ăn,…) và là thời kỳ sinh sản chủ yếu của ốc gạo. Mùa
vụ sinh sản của ốc gạo kéo dài gần như quanh năm nhưng tập trung chủ yếu vào
giai đoạn từ Tháng 10 đến Tháng 4 năm sau mà đỉnh cao là vào Tháng 11 – 12
hàng năm.
7
Phần III PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm
Thời gian và địa điểm: từ Tháng 08/2011 đến Tháng 05/2012.
Địa điểm nghiên cứu: khu vực cồn Phú Đa, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre
và khu vực tiếp giáp vùng nhiễm mặn huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre.
Hình 3: Địa điểm thu mẫu
8
Chú Thích:
: Vị trí thu mẫu
3.2 Phương pháp nghiên cứu
Mỗi tháng thu mẫu một lần vào khoảng thời gian 8-10 giờ sáng.
Mẫu thu tại 3 điểm tại hạ nguồn nơi tiếp giáp vùng nhiễm mặn
huyện Mỏ Cày Bắc, Bến Tre và 6 điểm xung quanh khu vực cồn Phú
Đa, huyện Chợ Lách, Bến Tre: 3 điểm bên có ốc gạo phân bố và 3 điểm
phía bên không có ốc gạo phân bố.
3.2.1. Phương pháp thu mẫu
- Các chỉ tiêu thu mẫu bao gồm: nhiệt độ, độ mặn, pH, lưu tốc
nước, DO, TSS, BOD
5,
TAN, NO
2
-
,NO

3
-
, PO
4
3-
, TN, TP nước và TN, TP
bùn đáy.
- Nhiệt độ, độ mặn, pH và lưu tốc đo trực tiếp tại điểm thu mẫu:
nhiệt độ, độ mặn đo ở tầng mặt (cách mặt nước 20-30 cm). Nhiệt độ đo
bằng nhiệt kế, độ mặn đo bằng khúc xạ kế, pH đo bằng máy YSI, lưu
tốc đo bằng lưu tốc kế.
- Mẫu DO được thu bằng chai nút mài 125ml, cố định bằng 1 mL
MnSO
4
+ 1 mL KI-NaOH được trữ lạnh bằng nước đá trong thùng xốp.
- Mẫu TSS, BOD
5,
TAN, NO
2
-
,NO
3
-
, PO
4
3-
, TN, TP nước được thu
chung vào chai nhựa 1 lít, trữ lạnh bằng nước đá trong thùng xốp.
- Mẫu TN, TP bùn đáy được thu bằng chai nhựa 110 mL.
3.2.2. Phương pháp phân tích

Mẫu được phân tích trong Phòng thí nghiệm chất lượng nước Khoa
thủy sản trường Đại học Cần Thơ. Các chỉ tiêu được phân tích theo
phương pháp chuẩn (APHA et al., 1995) được trình bày trong bảng
(Bảng 3.1) sau đây:
9
Bảng 3.1 Các chỉ tiêu và phương pháp phân tích
3.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
- Các yếu tố môi trường được so sánh giữa các điểm thu mẫu với nhau
bằng phần mềm Excel và SPSS 16.0.
- Tìm ra sự khác biệt giữa các yếu tố môi trường ở nơi có và không có ốc
gạo, vẹm sông phân bố.
10
Các chỉ
tiêu phân
tích
Phương pháp phân tích
DO Phương pháp Winkler (4500-O DO.B APHA et al., 1995).
BOD
5
Ủ ở 20
o
C và sử dụng phương pháp Winkler (4500-O DO.B
APHA et al., 1995).
TSS Cân trọng lượng, sấy ở 103 – 105
o
C (2540 B APHA et al., 1995).
TAN Phenate blue (4500-NH
3
F APHA et al., 1995).
NO

2
-
Diazonium (4500- NO
2
-
B APHA et al., 1995).
NO
3
-
Khử Cd và so màu theo phương pháp NO
2
-
(4500- NO
3
-
B
APHA et al., 1995).
PO
4
3-
SnCl
2
( 4500 – PD. APHA et al., 1995).
TN
nước và
bùn đáy
Công phá bằng phương pháp Macro-Kjedalh, so màu bằng
phương pháp Phenate blue (4500-Norg APHA et al., 1995).
TP
nước và

bùn đáy
Công phá bằng phương pháp Macro-Kjedalh, so màu bằng
phương pháp Phenate blue (4500-Norg APHA et al., 1995).
Phần IV KẾT QUẢ THẢO LUẬN
4.1 Nhiệt độ
Qua 10 đợt khảo sát thì nhiệt độ tầng mặt 3 khu vực dao động từ
27,4-31,4
o
C. Khu vực có ốc gạo cao nhất Tháng 5 (31,4
±
0,5
o
C) và thấp
nhất Tháng 11 (28,7
±
0,3
o
C). Khu vực không có ốc gạo cao nhất Tháng
5 (31,4
±
0,4
o
C) và thấp nhất Tháng 12 (29.8
±
0,3
o
C). Và khu vực giáp
nước cao nhất Tháng 5 (30,9
±
0,4

o
C) và thấp nhất Tháng 1 (27,4
±
0,1
o
C). Theo DAISIE (2006) nhiệt độ thích hợp cho vẹm sông (Limnoperna
fortunei) phát triển từ 20
o
C đến 40
o
C, tăng trưởng tốt nhất ở 18-20
o
C.
Vì vậy nhiệt độ từ 27,4-31,4
o
C là thích hợp cho vẹm phát triển. Nhiệt độ
trong khu vực nghiên cứu mang đặc thù của các thủy vực nhiệt đới, cao
và ổn định theo thời gian.
Hình 4: Biến động nhiệt độ ở các khu vực khảo sát theo thời gian
11
4.2 pH
Qua khảo sát pH ba khu vực dao động từ 7,86-8,57. Khu vực có ốc gạo dao động
từ 7,86-8,50, cao nhất vào tháng 11 (8,5
±
0,1) và thấp nhất vào tháng 8 (7,86). Khu vực
không có ốc gạo từ 7,86-8,17, cao nhất vào tháng 9 (8,17
±
0,2) và thấp nhất vào tháng 8
(7,86
±

0,01). Khu vực giáp nước dao động từ 7,87-8,57, cao nhất vào tháng 11 (8,57
±
0,1) và thấp nhất vào tháng 1 (7,87
±
0,1). Từ kết quả khảo sát cho thấy pH ba khu vực
trên tương đối ổn định theo thời gian và có giá trị chênh lệch không lớn cao nhất (8,57)
với giá trị thấp nhất (7,86), nằm trong tiêu chuẩn chất lượng nước nuôi trồng thủy sản
(theo Boyd (1998) trích bởi (Đào Minh Hải, 2006) pH thích hợp cho đời sống thủy sinh
vật dao động 7 - 9).
Theo Boyd (1998) trích bởi (Đào Minh Hải, 2006) pH thích hợp cho đời sống
thủy sinh vật dao động 7 - 9.
pH là yếu tố môi trường ảnh hưởng rất lớn đến đời sống thủy sinh vật. pH quá cao
hay quá thấp làm thay đổi độ thẩm thấu của màng tế bào làm rối loạn quá trình trao đổi
muối và nước giữa cơ thể và môi trường ngoài.
pH tương đối ổn định theo thời gian cũng như giữa các khu vực với nhau, nên
nhìn chung pH giữa các khu vực này khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Hình 5: Biến động pH ở các khu vực khảo sát theo thời gian
12
4.3 Độ mặn
Sau 10 đợt khảo sát tháng 08/2011 đến tháng 05/2012 thì khu vực có ốc
gạo, khu vực không có ốc gạo và khu vực giáp nước đều không bị nhiễm mặn,
kết quả đo được ở mức 0‰, vì các khu vực này gần nhau đều cách xa biển chịu
ảnh hưởng lớn nước ở thượng nguồn đổ về.
Theo DAISIE (2006) vẹm sông (Limnoperna fortunei) có thể sống ở độ mặn 7‰.
Kết quả khảo sát so sánh với DAISIE (2006) thì vẹm sông (Limnoperna
fortunei) có thể phát triển tốt ở cả ba khu vực này.

Như vậy vẹm sông là loài
khá rộng muối, cùng với khả năng thích ứng tốt với các thủy vực nhiệt đới thì
khả năng xâm lấn đến tất cả các hệ thống sông ở đồng bằng sông Cửu Long là

cao.
4.4 Lưu tốc
Kết quả khảo sát tốc độ dòng chảy ở 3 khu vực dao động từ 0-5 m/s. Khu
vực có ốc gạo dao động từ 0-3,67 m/s, cao nhất Tháng 8 (3,67 m/s
±
0,6) và thấp
nhất Tháng 10, Tháng 11, Tháng 5 (nước chảy nhẹ). Khu vực không có ốc gạo
dao động từ 0,5-5 m/s, cao nhất Tháng 8 (5 m/s
±
0,6) và thấp nhất Tháng 1 (0,5
m/s). Khu vực giáp nước dao động từ 0,33-3 m/s, cao nhất Tháng 8 (3 m/s
±
1)
và thấp nhất Tháng 12, Tháng 3 (0,33 m/s
±
0,6). Nhìn chung, dòng chảy ở hai
khu vực thấp (<1,65m/s), phụ thuộc lớn vào thủy triều và lưu lượng nước ở
thượng nguồn đổ về. Vào Tháng 8 thì khu vực có ốc gạo khác biệt không có ý
nghĩa (p>0,05) so với khu vực không có ốc gạo và khu vực giáp nước nhưng
khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) xảy ra giữa khu vực không có ốc gạo và khu vực
giáp nước. Vào Tháng 9 thì khu vực có ốc gạo khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so
với khu vực không có ốc gạo nhưng cả hai khu vực có ốc gạo và không có ốc
gạo khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) so với khu vực giáp nước. Vào Tháng
10 thì khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) xảy giữa ba khu vực. Và vào Tháng 12 thì
khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) xảy ra giữa khu vực có ốc gạo với không có ốc
gạo và giữa khu vực không có ốc gạo với khu vực giáp nước, giữa hai khu vực
13
có ốc gạo và khu vực giáp nước thì khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05). Nhìn
tổng thể qua các đợt khảo sát thì tốc độ dòng chảy ba khu vực khác biệt không
có ý nghĩa (p>0,05).

Theo Birnbaum (2006), thì lưu tốc vượt quá 2m/s sẽ làm cho vẹm trưởng
thành khó bám vào giá thể. Lưu tốc ở khu vực không có ốc gạo cao hơn khu vực
có ốc gạo. Vì vậy mà ở khu vực có ốc gạo vẹm bám rất nhiều vào ốc gạo làm
cho ốc gạo không phát triển được và chết.
Hình 6: Biến động lưu tốc ở các khu vực khảo sát theo thời gian
4.5 Hàm lượng oxy hòa tan (DO)
Hàm lượng oxy khu vực có ốc gạo dao động từ 5,84-9,04 mg/L, cao
nhất vào Tháng 8 (9,04
±
0,1 mg/L) thấp nhất vào Tháng 5 (5,84 mg/l).
Khu vực không có ốc gạo dao động từ 5,65-8,67 mg/L, cao nhất vào
Tháng 8 (8,67
±
0,3 mg/L), thấp nhất vào Tháng 5 (5,65
±
0,1 mg/L). Khu
vực giáp nước dao động từ 5,80-8,69 mg/L, cao nhất vào Tháng 8 (8,69
±
0,3 mg/L), thấp nhất vào Tháng 5 (5,8
±
0,2 mg/L). Qua các đợt khảo sát
thì khác biệt không có ý nghĩa (p> 0,05) giữa ba khu vực. Khác biệt có ý
14
nghĩa (p< 0,05) giữa hai khu vực có ốc gạo và không có ốc gạo chỉ xảy ra
vào Tháng 9, 10, 1.
Oxy là chất khí rất cần cho đời sống sinh vật, đặc biệt đối với thủy
sinh vật, hàm lượng oxy lý tưởng là lớn hơn 5mg/L (Trương Quốc Phú,
2006).
Các nghiên cứu về vẹm sông trên thế giới cho thấy chúng là loài thích
sống ở khu vực có hàm lượng oxy hòa tan cao. Vẹm ngựa vằn sống ở các

vùng nước sạch, thường thì chúng được tìm thấy ở các vùng nước có hàm
lượng oxy hòa tan lớn hơn 90% độ bão hòa. Chúng bị stress ở các vùng có
oxy hòa tan nhỏ hơn 40-50% độ bão hòa. Theo Gerald (2009), thì vẹm sông
thích sinh sản ở các thủy vực có hàm lượng oxy hòa tan cao 8-10 mg/L, tuy
nhiên chúng có thể thích ứng với các khu vực có hàm lượng oxy hòa tan
không nằm trong khoảng thích hợp kể trên.
Qua kết quả trên ta thấy hàm lượng oxy qua các tháng thu mẫu các
khu vực có biến đổi nhưng không lớn và luôn duy trì ở mức cao (lớn hơn
5,65 mg/L), phù hợp cho quá trình sinh trưởng của vẹm, do đây là các
thủy vực nước chảy và có mặt thoáng nên oxy dể dàng khuyết tán từ
không khí.
Hình 7: Biến động DO ở các khu vực khảo sát theo thời gian
15
4.6 Hàm lượng vật chất lơ lững trong nước (TSS)
Sau khi khảo sát thì hàm lượng vật chất lơ lững cả ba khu vực dao động
72,3-289 mg/L. Khu vực có ốc gạo dao động từ 90,5-289 mg/L, cao nhất vào
Tháng 9 (289,6
±
48,9 mg/L), thấp nhất vào Tháng 12 (90,5
±
1 mg/L). Khu vực
không có ốc gạo từ 72,3-236 mg/L, cao nhất vào Tháng 9 (236
±
17,3 mg/L),
thấp nhất vào Tháng 2 (72,3
±
19,8 mg/L). Khu vực giáp nước từ 72,3-153,6
mg/L, cao nhất vào tháng 9 (153,6
±
30 mg/L), thấp nhất vào Tháng 2 (72,3

±
23,9 mg/L). Kết quả cho thấy ba khu vực trên đều có giá trị TSS biến động lớn
theo thời gian cao nhất trong Tháng 9 và giảm mạnh ở các tháng sau.
Khác biệt có ý nghĩa thống kê (p< 0,05) của hàm lượng vật chất hữu cơ lơ
lững chỉ xảy ra giữa khu vực có ốc gạo, không có ốc gạo so với khu vực giáp
nước vào Tháng 9. Những tháng còn lại thì khác biệt không có ý nghĩa (p> 0,05)
xảy ra giữa các khu vực khảo sát.
Địa điểm nghiên cứu là khu vực hạ lưu sông Tiền, chịu tác động của thủy
triều và nước từ thượng nguồn đổ về nên TSS cũng thay đổi. Chưa có báo cáo
nào về sự ảnh hưởng của hàm lượng vật chất hữu cơ lơ lững lên vẹm sông được
công bố. Tuy nhiên theo Alexander et al., (1994) công bố nghiên cứu ảnh hưởng
của độ đục lên tiêu hao oxy. Thì theo đó tiêu hao oxy của vẹm giảm khi độ đục
tăng và kết quả là sự tăng giảm của độ đục làm cho sự phát triển của vẹm sông
mang tính chu kỳ, phát triển mạnh khi độ đục giảm và ngược lại. Độ đục cao sẽ
làm cho vẹm không lấy được thức ăn phù hợp (tảo) và làm cho hạn chế sự phát
triển của chúng.
16
Hình 8: Biến động TSS ở các khu vực khảo sát theo thời gian
4.7 Nhu cầu oxy sinh học (BOD
5
)
Qua khảo sát giá trị BOD
5
cả ba khu vực dao động từ 0,23-4,37
mgO
2
/L. Trong đó khu vực có ốc gạo dao động 1,11-4,37 mgO
2
/L cao
nhất tháng 9 (4,37

±
0,8 mgO
2
/L) và thấp nhất tháng 3 (1,11
±
0,7 mgO
2
/L).
Khu vực không có ốc gạo 0,93-3,60 mgO
2
/L cao nhất vào tháng 2 (3,6
±
0,4 mgO
2
/L) và thấp nhất tháng 3 (0,93
±
0,7 mgO
2
/L). Khu vực giáp nước
dao động 0,23-3,73 mgO
2
/L cao nhất tháng 2 (3,73
±
0,5 mgO
2
/L) thấp
nhất tháng 12 (0,23
±
0,2 mgO
2

/L).
Giá trị BOD
5
các khu vực này trong tháng chênh lệch không lớn, đa
số là khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05), chỉ có hai sự khác biệt có ý
nghĩa (p<0,05) giữa khu vực có ốc gạo (4,37 mgO
2
/L) lớn hơn khu vực
giáp nước (2,37 mgO
2
/L) trong tháng 9 và trong tháng 5 khác biệt có ý
nghĩa giữa khu vực có ốc gạo (1,76 mgO
2
/L) nhỏ hơn khu vực giáp nước
(2,40 mgO
2
/L).
Theo kết quả nghiên cứu trong khu vực này của Nguyễn Văn Lục
(2006) thì BOD
5
dao động 1,8-5,8 mgO
2
/L cao hơn kết quả khảo sát (dao
17

×