Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

TỔNG QUAN VỀ ĐỊA LÝ TÔN GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.32 MB, 119 trang )


11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
MỞ ĐẦU
Tôn giáo là một trong những vấn đề nổi bật, có ảnh hưởng đến quá trình
thay đổi và phát triển của bản đồ chính trị thế giới . Sự phát triển và phân bố
của bức tranh tôn giáo là hệ quả của sự tác động tổng hợp của nhiều nhân tố,
trong đó không thể không nhắc đến yếu tố địa lí trong sự hình thành của nó.
Việc phản ánh bức tranh tôn giáo dưới góc độ địa lí như là một trong những
yêu cầu bắt buộc, nhằm mang đến cái nhìn toàn diện bức tranh tôn giáo hiện
nay trên thế giới.
Tôn giáo được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học trong
đó có địa lí học. Đối với trường phái địa lí Xô viết, khía cạnh tôn giáo trong
địa lí hầu như không được đề cập. Địa lí học nghiên cứu thực trạng và tác
động của nó đến các hoạt động kinh tế xã hội với tư cách tôn giáo như một
nhân tố ảnh hưởng.
Ở nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, tôn giáo là một cái gì đó
không thể thiếu được trong đời sống văn hóa và tinh thần của con người. Rõ
ràng bỏ qua khía cạnh tôn giáo, địa lí học không thể giải thích đầy đủ được
các hiện tượng đang diễn ra trong đời sống kinh tế-xã hội của một quốc gia
hay một khu vực cụ thể.
Với yêu cầu thực tiễn và nhu cầu tìm hiểu các khía cạnh tôn giáo dưới
góc độ địa lí, nhóm tác giả đã mạnh dạn lựa chọn vấn đề: “ Địa lí tôn giáo”làm
đề tài cho bài báo cáo. Trong việc phản ánh góc độ địa lí trong tiến trình phân
tích bức tranh tôn giáo, đề tài đã cố gắng tập trung làm rõ khía cạnh phân bố và
đi vào phân tích quy luật của sự phân bố đó dưới tư cách là một yếu tố mang tính
lịch sử và không gian. Cấu trúc của đề tài bao gồm các phần:
Chương I: Một số vấn đề chung của tôn giáo.
Chương II: Tôn giáo thế giới.
1



11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
Chương III: Tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÔN GIÁO
I. Khái niệm tôn giáo
1. Lịch sử hình thành thuật ngữ “Tôn giáo”.
“Tôn giáo” bắt nguồn từ thuật ngữ “religion” (Tiếng Anh) - xuất phát từ
thuật ngữ “legere” (Tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu
nhiên. Vào đầu công nguyên, sau khi đạo Cơ Đốc xuất hiện, đế chế Roma yêu
cầu phải có một tôn giáo chung và muốn xóa bỏ các tôn giáo trước đó cho nên
lúc này khái niệm “religion” chỉ mới là riêng của đạo Cơ Đốc. Bởi lẽ, đương
thời những đạo khác ngoài Cơ Đốc đều bị coi là tà đạo. Đến thế kỷ XVI, với sự
ra đời của đạo Tin Lành (tách ra từ Công giáo) trên diễn đàn Khoa học và thần
học châu Âu, “Religion” mới trở thành một thuật ngữ chỉ hai tôn giáo thờ cùng
một chúa. Với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản ra khỏi phạm vi châu Âu,
cùng sự tiếp xúc với các tôn giáo thuộc các nền văn minh ngoài Cơ Đốc giáo
biểu hiện rất đa dạng, thuật ngữ “religion” được dùng nhằm chỉ các hình thức
tôn giáo khác nhau trên thế giới.
Thuật ngữ “religion” được dịch thành “Tông giáo” đầu tiên xuất hiện ở Nhật
Bản vào đầu thế kỷ XVIII và sau đó du nhập vào Trung Hoa. Tuy nhiên, ở Trung
Hoa, vào thế kỷ XIII, thuật ngữ Tông giáo lại bao hàm một ý nghĩa hoàn toàn khác:
nó nhằm chỉ đạo Phật (Giáo: đó là lời thuyết giảng của Đức Phật, Tông: lời của các
đệ tử Đức Phật).
Thuật ngữ Tông giáo được du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX và
được đăng trên các báo, nhưng do kỵ húy của vua Thiệu Trị nên được gọi là “Tôn
giáo”.
2 .Khái niệm tôn giáo
Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:

- Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và
con người”.
2

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
- Khái niệm mang dấu hiệu đặc trưng của tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin
vào cái siêu nhiên”.
Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá
nhân trong nỗi cô đơn của mình, tôn giáo là sự cô đơn, nếu ai chưa từng cô đơn
thì người đó chưa bao giờ có tôn giáo”.
- Khái niệm mang khía cạnh bản chất xã hội của tôn giáo của C.Mác:
“Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim, nó là tinh thần của trật tự không có tinh thần”.
- Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo của Ph.Ăngghen:
“Tôn giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực
lượng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày…”
Theo giáo trình Tôn giáo học của Đại học Rice University: “Tôn giáo
là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng,
được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo,
nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm
tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn
cảnh địa lý - văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo,
được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của
từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau”.
Theo cuốn ĐLKTXHĐC - NXBĐHSP“ Tôn giáo là thế giới quan và
những hành vi tương ứng, liên quan đến niềm tin vào lực lưỡng siêu tự
nhiên cũng như ảnh hưởng của nó đến đời sống con người, đồng thời là sự
thể hiện một cách tưởng tượng các lực lượng tự nhiên và xã hội trong nhận

thức của con người”
Theo từ điển Oxfrod :“The belief in the existence of a god or gods, and
the activities that are connected with the worship of them” ( tạm dịch: niềm
tin vào sự tồn tại của một hay nhiều vị thần và những hoạt động đã kết nối họ
cùng với sự tôn kính”
3

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
Qua các quan niệm trên, chúng tôi nhận thấy, khi đề cập đến tôn giáo,
cần phải nêu được các vấn đề sau:
- Niềm tin của con người vào giới siêu nhiên (là thần thánh).
- Có những nghi lễ hay hành vi đặc trưng ở mỗi tôn giáo.
- Sản phẩm của hình thái xã hội nhất định, có sự phụ thuộc vào lịch
sử phát triển của xã hội và biến đổi đa dạng qua từng giai đoạn.

Tôn giáo và địa lí học
Tôn giáo được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học trong đó
có địa lí học. Đối với trườn phái địa lí Xô viết, khía cạnh tôn giáo trong địa lí hầu
như không được đề cập. Địa lí học không làm nhiệm vụ tuyên truyền hay phổ
biến tôn giáo mà là nghiên cứu thực trạng và tác động của nó đến các hoạt động
kinh tế xã hội với tư cách tôn giáo như một nhân tố ảnh hưởng.
Ở nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, tôn giáo là một cái gì đó
không thể thiếu được trong đời sống văn hóa và tinh thần của con người.
trong văn bản nhà nước của một số quốc gia đã công bố quốc giáo và yêu cầu
mỗi người dân phải lựa chọn một trong số những tôn giáo đang tồn tại. Rõ
ràng bỏ qua khía cạnh tôn giáo, trong một số trường hợp, địa lí học không thể
giải thích đầy đủ được các hiện tượng đang diễn ra trong đời sống kinh tế-xã
hội của một quốc gia hay một khu vực cụ thể.

Mỗi tôn giáo có hoàn cảnh ra đời và lịch sử phát triển riêng biệt. trong
quá trình phát triển, tôn giáo đã bị các thế lực phản động lợi dụng để thực
hiện mưu đồ riêng của mình. Vì vậy, để đánh giá đúng vai trò và tác động của
tôn giáo đối với các hoạt động kinh tế-xã hội, địa lí học cần phải nghiên cứu
những ưu điểm và ca sự phát triển và sự phân bố của nó theo lãnh thổ.
II. Bản chất và nguồn gốc của tôn giáo.
4

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
1. Bản chất của tôn giáo
1.1. Các quan điểm ngoài mác xít về bản chất tôn giáo
− Chủ nghĩa duy tâm khách quan với các đại biểu như: Platôn (427 -
347.TCN),
Ph. Hêghen (1770 - 1831) đều xuất phát từ thực thể tinh thần như “ý niệm”,
“ý niệm tuyệt đối”, và theo đó thì tôn giáo là một sức mạnh kỳ bí thuộc “tinh thần”
tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí cho con người.
− Chủ nghĩa duy tâm chủ quan với đại biểu như: G. Béc cơ li (1685 -
1753), Đ.Hi um (1711 - 1776) lại cho tôn giáo là thuộc tính vốn có trong ý
thức con người, tồn tại không lệ thuộc vào hiện thực khách quan.
− Một số nhà thần học như Tômát Đacanh (1225 - 1274), Phôn ti lích
(1886 - 1965) xem tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng liêng, huyền bí
(Thượng Đế) mà ở đó ẩn chứa sức mạnh siêu nhiên có thể giúp con người
thoát khỏi khổ đau và có được hạnh phúc. Như vậy niềm tin vào Thượng Đế
chính là tôn giáo.
− Chủ nghĩa duy vật trước Mác, từ Đêmôcrít (460 - 370 TCN) đến
Ph.Bêcơn (1561 - 1621), T.Hốp xơ (1588 - 1679) đều có lập trường không
triệt để về vấn đề tôn giáo, mặc dù cơ sở thế giới quan của họ thừa nhận tính
thứ nhất của thế giới vật chất.

Trong các nhà duy vật trước Mác thì L.Phoi-ơ-bắc (1804 - 1872) là
người có quan điểm tiến bộ nhất về tôn giáo. Ông cho rằng: không phải
Thượng Đế sáng tạo ra con người mà ngược lại, chính con người đã sáng tạo ra
Thượng Đế theo mẫu hình của mình. Tuy nhiên do xuất phát từ quan điểm
chung chung, trừu tượng về con người và không thấy rằng “tình cảm tôn giáo
cũng là một sản phẩm xã hội” nên ông đã không thấy được bản chất xã hội của
tôn giáo, không thấy con đường khắc phục tôn giáo một cách khoa học.
− Các nhà xã hội học tư sản như Eminle, Durkheim, Max Weber tuy
đã có cái nhìn mới về tôn giáo, nhưng nhìn chung đều cho tôn giáo là một hoạt
động mang tính xã hội, là cái chung cho một nhóm xã hội, là thái độ ứng xử
5

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
của con người trong cộng đồng xã hội. Họ chủ yếu đi sâu phân tích chức năng
xã hội, vai trò và ảnh hưởng của tôn giáo, song lại tách tôn giáo ra khỏi đời
sống tinh thần phong phú của con người, không thấy được ranh giới các hiện
tượng tôn giáo và phi tôn giáo.
− Quan điểm phân tâm học lại đi sâu nghiên cứu sự thể hiện nội tâm,
đó là niềm tin tôn giáo, tâm lí tôn giáo, song lại chưa thấy mặt xã hội của nó.
− Nghiên cứu tôn giáo từ góc độ nhân loại học, Edward Burnett Tylor
(1832 - 1917) khẳng định nguồn gốc của tôn giáo là niềm tin của người nguyên
thuỷ, cho rằng mọi vật trong tự nhiên đều “có linh hồn” và vì vậy đều có thể
nhân cách hoá. Niềm tin nguyên thuỷ này được gọi là “Hồn linh giáo”. Chính
vì hồn linh giáo mà tôn giáo phát triển thành đa thần giáo, và tiếp theo là độc
thần giáo.
− Nghiên cứu tôn giáo từ góc độ ngôn ngữ học, Max Muller (1823 -
1900) cho rằng sự xuất hiện các vị thần là do “căn bệnh của ngôn ngữ”. Sự hỗn
độn trong hệ thống danh từ – tức là một vật có thể có nhiều tên gọi và ngược

lại - đã dẫn đến tình trạng có những hiện tượng lúc đầu chỉ là một cái tên (no
men) sau đó trở thành một thần linh (nu men).
− Quan điểm văn hoá về tôn giáo có ưu điểm là làm nổi bật tính đa
dạng, phong phú và phức tạp của tôn giáo, song lại có hạn chế là hoà đồng tôn
giáo vào văn hoá, không thấy được cái đặc thù của tín ngưỡng là cái thiêng
liêng rất được đề cao.

Như vậy, các cách tiếp cận trên về tôn giáo, do hạn chế lịch sử và lợi
ích giai cấp đã không cho chúng ta thấy được bản chất đích thực của tôn giáo.
1.2. Quan điểm Mác xít về bản chất của tôn giáo.
Tôn giáo về bản chất, không phải là sản phẩm của thần thánh, là cái siêu
nhiên, thần bí mà là sản phẩm của xã hội. Tôn giáo là hiện tượng thuộc đời
sống tinh thần của xã hội, chịu sự quy định của đời sống vật chất. Ở đây không
phải tinh thần, ý thức quyết định đời sống hiện thực mà ngược lại, ý thức,
6

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
trong đó có ý thức tôn giáo (chỉ là ý thức của cá nhân, cộng đồng người trong
xã hội) phản ánh tồn tại xã hội.
Trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ph. Ăngghen đều xem sản xuất
vật chất là cơ sở của sự hình thành và phát triển của các hiện tượng mang tính
lịch sử xã hội, trong đó có tôn giáo. Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, một
sản phẩm của thời đại lịch sử nhất định.
C.Mác cho rằng không phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà chính con
người sáng tạo ra tôn giáo: “Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con
người chưa tìm được bản thân mình hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần
nữa. Nhưng con người không phải là một sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ở
ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội.

Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, tức là thế giới quan lộn
ngược, vì bản thân chúng là thế giới lộn ngược Tôn giáo là lý luận chung của
Thế giới ấy, là cương yếu bách khoa của nó, là lô gíc dưới hình thức phổ cập
của nó, là nhiệt tình của nó, là sự chuẩn y về mặt đạo đức của nó, là sự bổ sung
trang nghiêm của nó, là căn cứ phổ biến mà nó dựa vào để an ủi và biện hộ.
Tôn giáo biến bản chất con người thành tính hiện thực ảo tưởng, vì bản chất
con người không có tính hiện thực thật sự Tôn giáo là tiếng thở dài của
chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như
nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân”.
Như vậy C.Mác đã chỉ rõ bản chất xã hội của tôn giáo. Tôn giáo không
phải là cái tự có mà là sản phẩm của con người xã hội, cũng tức là phương thức
tồn tại của con người. Tôn giáo là sự phản ánh xã hội con người vào ý thức của
con người. Song sự phản ánh đó chỉ là sự phản ánh phi lý tính, hoang đường,
bóp méo sự thật, để rồi sau đó lấy cái phi lý, hoang đường làm chuẩn mực để
giải thích hoặc chi phối hiện thực của con người. Không phải con người, cá
nhân riêng lẻ mà là con người xã hội đã sản sinh ra tôn giáo, do đó tôn giáo là
một hiện tượng xã hội.
7

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
Tôn giáo là sản phẩm của ý thức con người, là sự phản ánh ý thức con
người về trạng thái xã hội trong đó con người sống. Vì thế tôn giáo là một hình
thái ý thức xã hội đặc biệt phản ánh cái tồn tại xã hội sinh ra nó.
C.Mác xem xét bản chất tôn giáo trên cơ sở xem xét bản chất đời sống
xã hội, môi trường xã hội trong đó nảy sinh và nuôi dưỡng tôn giáo. Để khắc
phục những hạn chế tôn giáo cần phải khắc phục những hạn chế xã hội đã trói
buộc tự do của con người.

Trong tác phẩm Chống Đuy Dinh, Ph.Ăngghen cũng đã làm rõ bản chất
của tôn giáo trên sơ sở xem tôn giáo như là một hình thái ý thức xã hội: “Tất cả
mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc con người -
của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự
phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng
siêu thần thế”. Ph.Ăngghen một lần nữa khẳng định tôn giáo là một hình thái ý
thức xã hộiphản ánh một cách hư ảo về thế giới bên ngoài nhằm đền bù cho
những bất lực của con người trong cuộc sống hàng ngày.
Như vậy chúng ta có thể khái quát bản chất của tôn giáo như sau:
- Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, một hình thái ý thức xã hội do
con người sáng tạo ra.
- Tôn giáo là “Thế giới quan lộn ngược” trong giải quyết mối quan hệ
giữa con người với siêu nhiên, cái hiện thực với cái hư ảo, cái trần tục với
cái thiêng liêng, cái trần gian với cái siêu trần gian.
- Tôn giáo là sự phản ánh hư ảo, hoang tưởng những sức mạnh bên
ngoài (cả tự nhiên và xã hội), trong đó sức mạnh trần gian mang hình thức
sức mạnh siêu thế gian, tưởng tượng thành sức mạnh siêu nhiên chi phối
toàn bộ đời sống con người và cả cộng đồng người.
2. Nguồn gốc của tôn giáo
Mác - Ăngghen đã chỉ ra: “Con người đã sáng tạo ra tôn giáo chứ không
phải tôn giáo sáng tạo ra con người”. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, một ý
8

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
thức xã hội. Do đó cũng như hình thái ý thức xã hội khác, tôn giáo có nguồn
gốc xã hội, nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý của nó.
2.1. Nguồn gốc xã hội của tôn giáo
− Sự bất lực của con người trước các thế lực tự nhiên

Lịch sử xã hội loài người là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các hình
thái kinh tế - xã hội. Trước hết, tôn giáo được nảy sinh trong một xã hội mà
trình độ sản xuất hết sức thấp kém, con người mới thoát khỏi đời sống loài vật,
mối quan hệ giữa con người và tự nhiên là mối quan hệ con người lệ thuộc
hoàn toàn vào tự nhiên. Đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ.
Nền kinh tế tự nhiên lấy săn bắt, hái lượm là chính. Cuộc sống của con người
lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Quan hệ giữa các thành viên trong thị tộc, bộ
lạc là quan hệ bình đẳng, hợp tác trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất. Do
lực lượng sản xuất thấp kém, giới tự nhiên kì bí, bao quanh con người đe doạ
cuộc sống của họ. Những thiên tai bất thần như mưa, bão, nắng hạn, động đất,
cháy rừng, thú dữ, bệnh tật luôn rình rập. Con người cảm thấy bất lực trước
tự nhiên. Họ thần thánh hoá sức mạnh của tự nhiên và sau đó lại cầu xin sự che
chở, cứu giúp của những sức mạnh đã được thần thánh hoá đó. Đó chính là
nguồn gốc ban đầu của ý thức tôn giáo.
− Sự bất lực của con người trước các thế lực xã hội
Khi xã hội có giai cấp, thì cùng với lực lượng bí ẩn của giới tự nhiên là
lực lượng mang tính xã hội luôn thống trị cuộc sống hàng ngày của quần chúng
nhân dân. Trong xã hội có giai cấp, sự áp bức bóc lột giai cấp, sự tàn bạo, bất
công, chiến tranh, đói khổ và bệnh tật cũng là những nguyên nhân xã hội làm
nảy sinh tôn giáo. Bế tắc trong đời sống hiện thực, con người tìm sự giải thoát
trong đời sống tinh thần, họ tìm đến tôn giáo, họ hy vọng, ảo tưởng ở một đời
sống trên thiên đường, ở thế giới bên kia. V. I. Lênin cho rằng “sự bất lực của
giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng
tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất
9

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
lực của con người trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào

thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu”.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, của sản xuất, con người dần
thoát khỏi tình trạng hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên, từng bước làm
chủ tự nhiên, giải thích được các hiện tượng tự nhiên đã từng là mối lo sợ ghê
gớm của con người và bắt các hiện tượng đó phục vụ đời sống con người. Về
mặt xã hội, cùng với sự phát triển của sản xuất, các quan hệ xã hội cũng dần
được cải thiện và con người cũng được quan tâm hơn, con người đạt đến
những quyền dân chủ nhất định. Tuy nhiên như vậy không có nghĩa là tôn giáo
sẽ dần dần bị diệt vong, ý thức tôn giáo sẽ nhường chỗ cho ý thức khoa học.
Điều này không phù hợp với thực trạng tôn giáo vần tồn tại và có chiều hướng
phát triển với những hình thức biến đổi trong thời đại khoa học kỹ thuật và
công nghệ hiện nay. Giới tự nhiên là vô cùng vô tận, nhận thức và sức mạnh
cải tạo tự nhiên của con người xét về bản chất cũng là vô tận, là tuyệt đối,
nhưng trong điều kiện lịch sử nhất định, nó là có hạn, là tương đối. Ngày nay
mặc dầu khoa học kỹ thuật phát triển cao, nhưng còn những thiên tai gây tai
hoạ lớn cho loài người chưa khắc phục được như bão, lũ lụt, động đất, núi
lửa những bệnh tật nguy hiểm đe doạ đời sống con người, cạn kiệt tài nguyên
và ô nhiễm môi trường, những sự biến động lớn trong đời sống xã hội như
chiến tranh, xung đột giữa các quốc gia, sắc tộc, tôn giáo vẫn tồn tại không
sao tránh khỏi, đã dẫn đến quan niệm dường như khoa học đã đạt đến giới hạn
của nó và hoạt động của con người cũng có hạn định, vì vậy cần phải nhờ đến
sức mạnh của “linh cảm”, của “tâm linh” và chỉ có Thánh kinh, chỉ có “đấng
sáng tạo”, mới tìm ra được những mối liên hệ cuối cùng, những “nguyên nhân”
cuối cùng.

Như vậy, có thể nói nguồn gốc xã hội của tôn giáo là tính hạn chế
của lực lượng sản xuất kéo theo sự hạn chế trong quan hệ giữa con người
với nhau trong xã hội.
2.2. Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo
10


11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
Nhận thức là quá trình phản ánh hiện thực khách quan bởi con người, là
quá trình tạo thành tri thức trong bộ óc con người về hiện thực khách quan.
Nhờ có nhận thức, con người mới có ý thức về thế giới. Ý thức về cơ bản là kết
quả của quá trình nhận thức thế giới của con người.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo trước hết bắt nguồn từ tính hạn chế
nhất định của nhận thức con người, sự hiểu biết nguyên thuỷ, mơ hồ, hạn hẹp
về nguyên nhân của các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Việc không lý giải được
những biến động có liên quan đến đời sống con người, số phận con người là
tiền đề để hình thành tín ngưỡng tôn giáo.
Con người nhận thức về thế giới bên ngoài và tự nhận thức về chính
mình, song khả năng nhận thức của một con người, một thế hệ, một thời đại là
có hạn. Khi không hiểu hết các hiện tượng tự nhiên và xã hội, con người dễ
đến với tôn giáo. Trong xã hội hiện đại còn biết bao điều bí ẩn đối với con
người. Nhiều hiệntượng diễn ra nhưng con người chưa lý giải nổi. Đó chính là
điều kiện thuận lợi cho sự phục hồi, tái tạo và nảy sinh ý thức tôn giáo.
Cơ sở cho sự ra đời của tôn giáo không chỉ vì sự nhận thức có giới hạn
của con người trước thực tại khách quan mà còn gắn liền với đặc điểm của quá
trình nhận thức. Đó là sự tuyệt đối hoá, cường điệu một mặt của chủ thể nhận
thức, đem cái chủ quan thay thế cái khách quan, áp đặt cái chỉ tồn tại trong tư
duy cho cái tồn tại bên ngoài tư duy. Khả năng trừu tượng hoá của tư duy một
mặt giúp hình thành cái chung trong tư duy, nhưng mặt khác lại tạo ra những
cơ sở làm nảy sinh tôn giáo. Sự nhận thức diễn ra theo chiều hướng phiến diện,
đơn giản, sơ cứng dẫn đến phản ánh sai lệch thế giới hiện thực chính là cơ sở
hình thành các biểu tượng về thần thánh.
Nhận thức là một quá trình từ thấp đến cao, từ chưa hiểu biết đến hiểu
biết. Những hình thức phản ánh thế giới khách quan của con người càng đa

dạng, phong phú thì khả năng nhận thức càng đầy đủ, sâu sắc, nhưng do nhận
thức là một quá trình chứa đầy mâu thuẫn nên các giai đoạn nhận thức từ cảm
giác, tri giác, biểu tượng, khái niệm, phán đoán đến suy lý không chỉ tạo ra khả
11

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
năng mới để nhận thức đầy đủ hơn về Thế giới, mà còn tạo ra khả năng phản
ánh sai lầm hiện thực, xa rời hiện thực. Ý thức tôn giáo chính là sự phản ánh
gián tiếp, “xa” hiện thực nhất.
2.3. Nguồn gốc tâm lí của tôn giáo
Những trạng thái tâm lý tiêu cực là một trong những nguồn gốc nảy
sinh ý thức tôn giáo. Tâm lý, tình cảm xét dưới góc độ triết học là một bộ phận
của ý thức xã hội, phản ánh trực tiếp cuộc sống phong phú sinh động. Tôn giáo
ra đời trên cơ sở của tâm lý, tình cảm con người và cộng đồng người trong xã hội.
Một trong những nhu cầu thiết yếu của con người là được gửi gắm, giải toả
những bức xúc trong đời sống tinh thần. Trong cuộc sống, những trạng thái tâm lý
mang tính tiêu cực như: cô đơn, bất hạnh, đau khổ, nỗi kinh hoàng, sợ hãi, sự chán
chường dễ dẫn con người đến tôn giáo. Con người tìm đến tôn giáo để mong sự
an ủi, che chở, cứu giúp. Tôn giáo như “thuốc phiện” làm giảm nỗi khổ đau của
con người trong cuộc sống hiện thực. Mặc dù chỉ là “hạnh phúc hư ảo”, “mặt trời
tưởng tượng” xoay xung quanh con người, nhưng tôn giáo lại có sức hấp dẫn kỳ lạ.
Tôn giáo nhiều khi là phương tiện khá hữu hiệu giúp con người cân bằng sự hẫng
hụt tâm lý, giải thoát nỗi bất hạnh cô đơn của con người trong cuộc sống.Bên cạnh
cái hiện hữu, con người còn tiếp xúc cả với vô số cái vô hình, trừu tượng, không
thể lý giải được bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận được từ tâm thức, linh cảm.
Trong thế giới của tâm thức và linh cảm đó, chỉ có niềm tin vào sự hiện tồn và cứu
giúp của thần thánh mới có thể giúp con người lí giải, đứng vững và vượt qua
những trở ngại trong cuộc sống.

Những trạng thái tâm lý tích cực như: sự hân hoan, vui sướng, mãn
nguyện, sự thăng hoa, lòng kính trọng, tự hào một cách thái quá đôi khi cũng
là nguyên nhân dẫn con người đến với tôn giáo. Con người muốn được san sẻ
trong tôn giáo những tình cảm vui sướng của mình, muốn được đắm mình
trong không gian tôn giáo để được sống trong trạng thái ảo giác, được hướng
về cái thiêng liêng cao cả và đôi khi, được lãng quên hiện tại. Họ đã đưa ra
luận điểm” “Sự sợ hãi sinh ra thần thánh”.
12

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
Tóm lại, sự hình thành và tồn tại của tôn giáo là do sự tác động của nhiều
yều tố, nhiều nguyên nhân, trong đó có những yếu tố về xã hội, về nhận thức, về
tâm lý hết sức phức tạp. Do đó, tôn giáo là một hiện tượng xã hội tồn tại lâu dài
cùng với sự tồn tại, vận động, phát triển của con người và cộng đồng xã hội loài
người. Khi mâu thuẫn giữa lý trí với niềm tin, giữa hiện thực với ảo tưởng hư ảo,
giữa trần tục với linh thiêng còn tồn tại; khi con người chưa hết những tâm
trạng, cảm xúc bi quan yếm thế, sợ hãi về cái chết, về bệnh tật, về đời sống cá
nhân, gia đình mình; khi con người chưa được thoả mãn hoàn toàn những nhu
cầu, ước vọng, hoài bão cả về vật chất và tinh thần; khi trong xã hội còn có áp
bức bóc lột, có giai cấp và áp bức giai cấp, còn điều thiện và điều ác, còn lương
tâm hướng thiện và sự xám hối về tội lỗi, còn cần nơi an ủi tâm linh và lý tưởng
hư ảo thì lúc đó tôn giáo còn có cơ sở tồn tại dưới hình thức này hay hình thức
khác, biểu tượng này hay biểu tượng khác.
III. Các giai đoạn phát triển của tôn giáo
Hình 1: Các giai đoạn phát triển của tôn giáo
1. Tôn giáo nguyên thủy
13


11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
Hầu hết trong giới khoa học đều thống nhất rằng chỉ khi con người hiện đại –
người khôn ngoan (Homo Sapiens) – hình thành và tổ chức thành xã hội, tôn giáo mới
xuất hiện. Thời kỳ này cách đây khoảng 95.000 – 35.000 năm. Tuy nhiên trong thời kỳ
đầu mới chỉ là các tín hiệu đầu tiên. Đa số các nhà khoa học đều khẳng định tôn giáo ra
đời khoảng 45.000 năm trước đây với những hình thức tôn giáo sơ khai như đạo Vật tổ
(Tôtem), Ma thuật và Tang lễ… đây là thời kỳ tương ứng với thời kỳ đồ đá cũ. Theo
Ăng nghen, tôn giáo xuất hiện từ ngay trong thời kỳ nguyên thủy, từ những quan niệm
“hết sức dốt nát, tối tăm, nguyên thủy” của con người về bản thân mình và thiên nhiên
bao quanh họ. Các tôn giáo nguyên thủy, sơ khai thể hiện niềm tin bản năng của con
người và lúc ấy chưa gắn với các lợi ích về kinh tế - xã hội.
2. Trong thời kỳ trung đại
2.1.Trong thời kỳ văn minh nông nghiệp:
Nhiều đế chế ra đời và thâu tóm vào mình nhiều quốc gia. Do nhu cầu
một tôn giáo của đế chế, những tôn giáo như Phật, Nho, Cơ Đốc, Hồi… đã
xuất hiện từ trước trở thành tôn giáo của đế chế và được chấp nhận như một
tôn giáo chính thống. Theo thời gian, do nội dung của các tôn giáo mang tính
phổ quát, không gắn chặt với một quốc gia cụ thể, với các vị thần cụ thể, với
nghi thức cụ thể của một cộng đồng tộc người, dân tộc hay địa phương nhất
định nên sự bành trướng của nó diễn ra thuận lợi, dễ dàng thích nghi với các
dân tộc khác. Do vậy, dù được phổ biến bằng cách nào (chiến tranh hay hòa
bình), các tôn giáo đó đã được các quốc gia bị lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp,
tự giác hay không tự giác tiếp nhận và trên nền tảng của tôn giáo truyền thống,
biến đổi thành tôn giáo riêng của quốc gia đó. Sự bành trướng kiểu như vậy
diễn ra trong suốt thời kỳ văn minh công nghiệp và cho đến tận ngày nay. Tuy
nhiên cũng cần phải chú ý rằng, giữa tôn giáo khu vực hay tôn giáo thế giới
vừa chung sống cạnh nhau, vừa tranh chấp xung đột nhau và không ít trường
hợp, với sự ủng hộ của các thế lực quân sự, chính trị, chiến tranh tôn giáo đã

xảy ra. Những tôn giáo như Cơ Đốc, Hồi do tính cực đoan của mình (chỉ coi
Chúa hay Thánh của mình là đối tượng tôn thờ duy nhất) nên ban đầu đi đến
14

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
đâu cũng khó chung sống với các tôn giáo khác đã có mặt ở đó từ trước. Còn
một số tôn giáo phương Đông như Nho, Phật thì khác, họ chấp nhận hòa đồng
với các tôn giáo bản địa, có xu hướng trần tục nhiều hơn là thế giới bên kia.
2.2 .Trong thời đại của cách mạng công nghiệp:
Cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra một xã hội công nghiệp, xã hội
này đòi hỏi phải có một tôn giáo năng động và tự do hơn, khó chấp nhận một
tổ chức, một giáo lý với những nghi thức cứng nhắc, phức tạp. Tình trạng độc
tôn của một tôn giáo trong một quốc gia đã bắt đầu chấm dứt và nhường chỗ
cho sự đa dạng trong đời sống tôn giáo. Từ đây quan niệm và chính sách tự do
tôn giáo ra đời, phát triển nhanh hay chậm và thể hiện khác nhau ở các quốc
gia khác nhau. Những yếu tố lỗi thời được huỷ bỏ hoặc tự thay đổi, thay thế để
thích nghi. Với xu thế quốc tế hóa ngày càng gia tăng, việc mỗi cá nhân chỉ
biết đến tôn giáo của mình đã trở nên lạc hậu. Mỗi người đều cho rằng trên thế
gian có nhiều tôn giáo. Họ bắt đầu hoài nghi và lựa chọn, tôn giáo được mang
ra tranh luận, bàn cãi và làm nảy sinh xu thế thế tục hoá tôn giáo và xu thế này
ngày càng thắng thế.
Khi xã hội phân chia giai cấp, xuất hiện các nhà nước, quốc gia với các
vùng lãnh thổ riêng biệt, tôn giáo lúc này không chỉ còn là một nhu cầu tinh
thần của quần chúng mà còn là một phương tiện để giai cấp thống trị duy trì sự
thống trị áp bức giai cấp và bóc lột của mình và thực hiện sự bành trướng, xâm
lược, vì vậy tôn giáo gắn liền với chính trị và bị dân tộc hóa. Từ đó đã dẫn đến
sự xuất hiện các tôn giáo dân tộc và tôn giáo thế giới.
+ Tôn giáo dân tộc: đặc trưng của tôn giáo dân tộc là tính chất quốc gia

dân tộc của nó. Các vị thần được tạo lập mang tính quốc gia dân tộc và quyền
lực giới hạn trong phạm vi quốc gia. Thậm chí một số tôn giáo lớn cũng bị dân
tộc hóa ở mỗi quốc gia và trở thành tôn giáo có tính chất quốc gia. Ví dụ Anh
giáo, các dòng khác nhau của đạo Hồi…
+ Tôn giáo thế giới: sự phát triển của các tôn giáo vượt ra khỏi biên giới của
một quốc gia đã hình thành nên các tôn giáo khu vực và thế giới như Phật giáo,
15

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
Thiên chúa giáo, Hồi giáo… Khác với các tôn giáo dân tộc, tôn giáo thế giới mang
tính đa quốc gia, ảnh hưởng đến nhiều khu vực rộng lớn trên thế giới.
3.Trong thời đại ngày nay:
Khi mà xu thế toàn cầu hóa đang chi phối mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, sự nâng cao về trình độ học vấn và đặc biệt là những thành tựu của khoa
học và công nghệ đã làm cho các tôn giáo ngày càng trở nên thế tục hóa kéo
theo sự đa dạng trong đời sống tôn giáo. Từ đây xuất hiện các ý kiến khác nhau
trong một tôn giáo và dẫn đến sự chia rẽ trong các tôn giáo một cách có tổ
chức, bùng nổ các giáo phái và xuất hiện nhiều tôn giáo mới. Bản thân trong
các tôn giáo khu vực và thế giới cũng có những biểu hiện khác trước: số tín đồ
ngày càng tăng nhưng số tín đồ thực tế giảm, nghĩa là người ta theo đạo nhưng
không hành đạo, nhiều tín đồ bỏ đạo để theo các “đạo mới”. Trong nội bộ các
tôn giáo có sự chia rẽ thành những giáo phái với những tính chất cấp tiến, ôn
hòa hoặc cực đoan.
IV. Những phong tục chính của tôn giáo.
Những phong tục dựa vào tín ngưỡng tôn giáo thường gồm có:
- Cầu nguyện
- Thờ phụng
- Họp mặt thường lệ với những người khác đồng tôn giáo

- Viên chức tôn giáo để lãnh đạo hay giúp đỡ những tín đồ, như nhà tu,
mục sư, tăng lữ
- Nghi lễ và phong tục đặc biệt trong tín ngưỡng
- Cách giữ gìn niềm tin vào những điều răn trong kinh sách và những
tục lệ của tôn giáo đó
- Luật lệ ứng xử ngoài đời phù hợp với tín ngưỡng (đạo lý

), như Mười
điều răn

trong Cựu Ước

, đặt ra từ tín ngưỡng chứ không phải do tín ngưỡng
định nghĩa, và đạo lý thường được tôn trọng đến địa vị giáo luật (luật pháp

)
và được các tín đồ thi hành
16

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
- Việc duy trì và học tập những kinh sách ghi chép những tín ngưỡng
cơ bản của tôn giáo.
Những tín đồ của một tôn giáo thường họp mặt để làm lễ, đọc hay tụng
kinh, cầu nguyện, thờ phụng, và giúp đỡ tinh thần lẫn nhau. Tuy nhiên, cầu
nguyện và ngồi thiền một mình cũng thường được xem là quan trọng, cũng
như sống theo tín ngưỡng ngoài đời hay với những người không theo đạo đó.
Đây thường là một chức năng của tôn giáo đó.
V. Vai trò của tôn giáo đối với đời sống xã hội.

1. Mặt tích cực của tôn giáo
1.1. Khuyên con người sống hướng thiện thông qua giáo lý.
Mỗi tôn giáo đều có một giáo lý riêng, đây là cơ sở để phân biệt tôn giáo
này với tôn giáo khác. Giáo lý là một khái niệm phản ánh tập hợp những quan
niệm, ý tưởng, khuyến nghị, khuyến cáo chỉ rõ những nội dung cơ bản của một
tôn giáo nhất định.
Ví dụ:
Phật giáo cho rằng con người không phải do Thượng đế hay đấng tối cao
nào sinh ra. Con người cũng như mọi sự vật, hiện tượng khác trong vũ trụ đều
tuân theo quy luật sinh-trụ-dị-diệt. Con người sinh ra bởi “nhân – duyên” kết
hợp, nghĩa là khi nhân gặp duyên sẽ tạo ra quả, quả lại nhân lên để có đủ
duyên và sẽ tạo thành quả mới. Vì vậy, quan niệm của người Việt trong hôn
nhân: Duyên số, duyên trời định… Điều này cứ phát triển không ngừng.
Giáo lý Phật giáo có thuyết luân hồi-nghiệp báo, giải thích rằng con
người sau khi chết chịu nghiệp báo luân hồi, con người sống ở kiếp này phải
chịu quả báo về những việc họ làm ở kiếp trước. Do đó mọi hành vi thiện ác,
dù nhỏ bé cũng không thể tránh khỏi nghiệp báo luân hồi… Vì vậy trong nhận
thức của người Việt sống phải tu nhân tích đức để phúc cho con cháu, làm
nhiều việc thiện để được đầu thai làm người ở kiếp khác, làm nhiều điều ác sẽ
không được đầu thai làm người và bị đày xuống 12 tầng địa ngục (Đời cha ăn
mặn, đời con khát nước…). Mọi sự tồn tại của con người đều là khổ đau và
17

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
muốn đạt đến sự bình an về tinh thần, Phật giáo phủ nhận mọi hình thức vui
thú vật chất, thủ tiêu các ham muốn vật chất hay thể xác.
Trong Cơ Đốc giáo, giới răn yêu thương được xem là nền tảng. Con
người trước hết phải yêu Thiên Chúa rồi yêu thương đến bản thân mình. Đây là

cơ sở để thực hiện tình yêu tha nhân. Kinh thánh khuyên con người phải yêu
chồng vợ, cha mẹ, con cái, anh em, làng xóm, cộng đồng Những điều mà
Kinh thánh răn cấm cũng rất cụ thể: không giết người, không lấy của người,
không nói sai sự thật, không ham muốn chồng hoặc vợ của người, không làm
chứng giả để hại người Ngoài ý nghĩa đức tin vào cái siêu nhiên (Thượng
Đế, Chúa), những chuẩn mực, quy phạm đạo đức ấy hướng con người đến điều
thiện, tránh xa điều ác. Theo niềm tin của tín đồ Cơ Đốc giáo, Chúa phục sinh
là bằng chứng về việc Người là con Thiên Chúa, Người được phái đến để giải
phóng xã hội loài người. Con người không chỉ là bề tôi của Chúa, kẻ được cứu
rỗi mà là con của Chúa, do vậy con người có bổn phận noi gương Chúa trong
tình yêu cuộc sống, tình yêu đồng loại, con người phải sống thánh thiện và đạt
đến cuộc sống vĩnh hằng.
Cũng giống Cơ Đốc giáo, Hồi giáo tin rằng có địa ngục, thiên đàng và
ngày phán xét, mọi người có trách nhiệm giải thích trước thánh Alah về những
việc làm của mình trên trần thế. Tín đồ Hồi giáo cũng thừa nhận trách nhiệm
của mình trong việc bảo vệ đức tin, chống lại mọi đe dọa và trong một số
trường hợp, giáo lý này của Hồi giáo được sử dụng để biện minh cho các cuộc
Thánh chiến.
Do Thái giáo cũng không hướng đến thế giới bên kia mà xem quá khứ là
nguồn hướng dẫn hiện tại và tương lai. Người Do Thái phục tùng ý Chúa bằng
cách thực hiện đầy đủ tinh thần cũng như lời văn của Thánh thư thì một
ngày kia, Chúa sẽ phái sứ giả mang thiên đàng xuống trái đất.
Những hệ thống đạo đức của tôn giáo rất khác nhau về niềm tin, rất
xa nhau về địa lý vẫn có một mẫu số chung là nội dung khuyên thiện. Điểm
mạnh trong truyền thụ đạo đức tôn giáo là, ngoài những điều phù hợp với
18

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …

tình cảm đạo đức của nhân dân, nó được thực hiện thông qua tình cảm tín
ngưỡng, niềm tin vào giáo lý. Do đó, tình cảm đạo đức tôn giáo được tín đồ
tiếp thu, tạo thành đức tin thiêng liêng bên trong và chi phối hành vi ứng xử
của họ trong các quan hệ cộng đồng. Hoạt động hướng thiện của con người
được tôn giáo hóa sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, nhiệt thành hơn. Đặc biệt, đạo
đức tôn giáo được hình thành trên cơ sở niềm tin vào cái siêu nhiên
(Thượng đế, Chúa, Thánh Alah) và sau này, Đức Phật cũng được thiêng
hóa, nên các tín đồ thực hành đạo đức một cách rất tự nguyện. Sự đan xen
giữa hy vọng và sợ hãi, giữa cái thực và cái thiêng đã mang lại cho tôn giáo
khả năng thuyết phục tín đồ khá mạnh mẽ.
1.2. Vai trò đối với chính trị, xã hội
− Tôn giáo góp phần tạo mối liên kết trong xã hội:
Tôn giáo có các giá trị, tiêu chuẩn của nó, vì thế những người có cùng
một tôn giáo gắn bó với nhau hơn nhờ những giá trị và tiêu chuẩn chung ấy.
Thể hiện khả năng liên hệ giữa những người có chung một tín ngưỡng. Sự liên
hệ (giao tiếp) được thực hiện chủ yếu trong hoạt động thờ cúng, sự giao tiếp
với thánh thần được coi là sự giao tiếp tối cao. Ngoài mối liên hệ giao tiếp
trong quá trình thờ cúng, giữa các giáo dân còn có sự giao tiếp ngoài tôn giáo
như liên hệ kinh tế, liên hệ cuộc sống hàng ngày, liên hệ trong gia đình
Những mối liên hệ ngoài tôn giáo có thể lại củng cố, tăng cường các mối liên
hệ tôn giáo của họ.
Ví dụ: Từ xã hội nguyên thủy, những thành viên của xã hội đã có chung
một vật tổ - biểu hiện hữu hình của sự gắn kết. Ngày nay, tất cả những đồng
tiền giấy của nước Mỹ đều in dòng chữ: Chúng con tin tưởng tuyệt đối vào
Chúa hàm ý sự đoàn kết tập thể dựa trên niềm tin Tôn giáo. Dẫu đó là Phật
giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo hay Do Thái giáo, cũng đều cung cấp cho
người ta ý nghĩa và mục đích cho cuộc sống của họ. Nó mang đến cho họ
những giá trị tối hậu và những cùng đích nào đó để giữ họ chung lại với nhau.
19


11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
Trong những lúc khủng hoảng hay hỗn loạn, tôn giáo cũng giúp cho con người
gắn bó với nhau hơn.
− Tôn giáo góp phần tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân:
Tôn giáo đã tạo ra một hệ thống các chuẩn mực, những giá trị nhằm điều
chỉnh hành vi của những con người có đạo. Những hành vi được điều chỉnh ở
đây không chỉ là những hành vi trong thờ cúng mà ngay cả trong cuộc sống
hàng ngày trong gia đình cũng như ngoài xã hội của giáo dân. Vì vậy, hệ thống
chuẩn mực, giá trị trong lý thuyết đạo đức và xã hội mà tôn giáo tạo ra đã ảnh
hưởng quan trọng đến mọi hoạt động của con người.
Đạo đức tôn giáo hướng con người đến những giá trị nhân bản, góp phần
tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân. Do tôn giáo là hình thức phản
ánh đặc thù, phản ánh hư ảo thế giới hiện thực, tôn giáo đã góp phần chế ngự
các hành vi phi đạo đức. Do tuân thủ những điều răn dạy về đạo đức của các
tôn giáo, nhiều tín đồ đã sống và ứng xử đúng đạo lý, góp phần làm cho xã hội
ngày càng thuần khiết.
− Tôn giáo giúp xoa dịu những đau khổ của con người:
Dù ít hay nhiều, con người thường phải đối mặt với khó khăn, hiểm
nguy, thất bại, thiên tai, bệnh tật, cái chết của những người thân thuộc, yêu quý
và cái chết của chính bản thân mình. Trong những lúc như thế, cuộc sống rất
dễ bị tổn thương và trở nên vô nghĩa, niềm tin tôn giáo giúp cho con người khó
bị rơi vào tuyệt vọng hơn. Một số tôn giáo còn cung cấp cho con người những
biện pháp như cầu nguyện, cúng bái thần linh trong niềm tin rằng những việc
làm như vậy sẽ giúp cải thiện tình hình. Trên góc độ khác, tôn giáo còn cho
con người một cứu cánh trong bất hạnh đó là coi bất hạnh ấy là ý của Đấng
thiêng liêng và có một ý nghĩa nào đấy mà con người không nhận thức được.
Tuy nhiên, công trình nghiên cứu của nhà xã hội học người MỹPeter Berger
nêu rằng khi đối mặt với những đe dọa như tai họa hay cái chết, sức mạnh hỗ

trợ của niềm tin thần thánh hay sự thiêng liêng giảm đi rất nhiều nếu con người
xem thần thánh đơn thuần chủ yếu là công cụ để giải quyết bi kịch.
20

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
− Tôn giáo gắn với chính trị:
Tôn giáo ra đời với tư cách là một thực thể xã hội, có mối quan hệ mật
thiết với chính trị và ngược lại, chính trị luôn tìm cách chi phối, lợi dụng tôn
giáo phục vụ cho mục đích và lợi ích của các tập đoàn thống trị.
+ Tôn giáo có vai trò thúc đẩy xã hội phát triển: Trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người, tôn giáo có lúc là chỗ dựa cho các thế lực chính trị. Tuy
nhiên không phải nền chính trị nào chi phối tôn giáo đều làm tăng tính tiêu cực
của nó. Lịch sử chứng minh, trong thời kỳ nhất định có nhiều dân tộc sử dụng
tôn giáo vào mục đích chính trị, song đó là thời kỳ phát triển thịnh vượng của
dân tộc.
Ví dụ: Thời Lý-Trần ở Việt Nam khi Phật giáo trở thành quốc giáo. Các
nhà vua thời Lý-Trần thâm nhập, thấu rõ giáo lý nhà Phật và đưa ra chính sách
an dân, trị nước. Muốn thái bình, thịnh trị phải trau dồi đạo đức, vị tha, triết lý
sống nhập thế trên tinh thần “từ, bi, hỉ, xả” của đạo Phật. Giáo lý này được phổ
biến trong dân chúng giúp con người hướng đến Chân-Thiện-Mỹ. Các vị vua
thời này đã dùng chính sách trị dân có tính khoan hồng kết hợp với pháp trị. Ví
như Vua Lý Công Uẩn khi lên ngôi đã hủy bỏ mọi cực hình trong ngục, xây
dựng nhiều chùa mới trong nước; hay như Lý Thánh Tông cũng được xem là
vị vua anh minh, đức độ… Vì vậy, thời Lý-Trần tồn tại lâu dài với trên 400
năm (nhà Lý tồn tại 200 năm (1010-1225); nhà Trần tồn tại 200 năm (1226-
1400) với sự phát triển rực rỡ của văn hóa, kinh tế, xã hội…
Những nghiên cứu của Max Weber về giáo phái Calvin của đạo Tin
Lành đã dẫn đến kết luận tôn giáo có tác dụng thúc đẩy xã hội. Các cải cách

của Tin Lành đã dẫn đến việc duy lý hóa xã hội, con người thay vì chấp nhận
số mệnh và hướng về đời sống sau khi chết theo truyền thống, phải đạt tới cuộc
sống thịnh vượng, phải phấn đấu để thành công bằng mọi nỗ lực để thực hiện
hoạch định của Chúa. Weber cho rằng chính vì thế chủ nghĩa tư bản hình thành
vững chắc ở những nơi mà giáo phái Calvin phát triển mạnh, thậm chí còn gọi
tinh thần của tôn giáo này là cốt tủy của chủ nghĩa tư bản.
21

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
+ Tôn giáo thúc đẩy tính tuân thủ xã hội và qua đó duy trì sự ổn định:
Trong một giai đoạn nhất định nó có tác dụng kiện toàn các định chế và trật tự
xã hội như một tổng thể, duy trì hiện trạng của xã hội.
Chẳng hạn: Trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc và qua các triều đại sau
ở Trung Quốc có nhiều thuyết về cai trị đất nước, song có hai thuyết lớn:
Thuyết nhân trị và thuyết pháp trị. Thuyết nhân trị xuất phát từ Nho giáo, nhà
cầm quyền phải có đủ tài đức, lấy đạo đức mà giáo hóa nhân dân, rõ ràng đạo
đức theo Nho giáo là phương tiện chủ yếu để cai trị đất nước.
1.3. Vai trò trong sáng tạo, bảo vệ và tôn tạo các giá trị văn hóa,
nghệ thuật
− Tôn giáo là cảm hứng của những sáng tạo văn hóa, nghệ thuật:
Có người ví toàn bộ giá trị văn hóa nhân loại như một tảng băng, phần
nổi của những không tôn giáo, phần chìm là của những người theo tôn giáo
hoặc có niềm tin tôn giáo. Niềm tin tôn giáo, cảm xúc tôn giáo, đạo đức tôn
giáo một khi được hình thành trở thành động lực thúc đẩy con người bộc lộ
lòng nhiệt thành của mình qua các công trình kiến trúc, hội họa. Ví dụ: kiến
trúc các chùa chiền Phật giáo, nhà thờ của Công giáo…
− Thúc đẩy con người bảo vệ và tôn tạo các di tích, di sản tôn giáo
cũng như các lễ hội tôn giáo mang ý nghĩa tích cực:

Việc bảo vệ, tôn tạo các di sản văn hóa của Liên Hiệp Quốc cũng như
của các quốc gia, trong đó có các di sản liên quan đến tôn giáo (Đền Ăngcovat
ở Campuchia, quần thể các chùa chiềng ở Thái Lan, Tòa thánh Vatican, Đền
Tatmaha Ấn Độ…) là sự thừa nhận những đóng góp của tôn giáo đối với đời
sống con người.
− Tôn giáo là một phần tài sản văn hóa của nhân loại:
Do tôn giáo có sự đồng hành lâu dài với con người trong lịch sử, nên có
thể xem nó như một phần tài sản văn hóa của nhân loại. Trong quá trình phát
triển, lan truyền trên bình điện thế giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển
tải niềm tin của con người, mà còn có vai trò chuyển tải, hoà nhập văn hóa và
22

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế. Nó có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư cách một bộ phận của ý thức
hệ, tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống,
phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần. Tôn
giáo còn góp phần tạo dựng nếp sống cộng đồng mang tính nhân văn. Điều đó
thể hiện ở chỗ, trong quá trình hình thành, tôn giáo nào cũng xây dựng cho
mình một hệ giá trị đạo đức mang tính hướng thiện. Đây là một trong những lý
do để tôn giáo có sức lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân.
− Hình thành những giá trị văn hoá phi vật thể: lễ hội, phong tục, lối
sống, tập quán
1.4. Vai trò trong bảo tồn nòi giống:
Giáo lý một số tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo…. Có vai trò to
lớn trong duy trì nòi giống, không cho phép người cùng họ hay cùng huyết
thống lấy nhau

2. Một số hạn chế của tôn giáo.
2.1. Tôn giáo ảnh hưởng tới sự ổn định chính trị, xã hội
− Góp phần vào sự căng thẳng giữa các nhóm hoặc các quốc gia:
Tôn giáo thúc đẩy tính tuân thủ xã hội và qua đó duy trì sự ổn định.
Nhưng tôn giáo không những là định chế xã hội duy nhất có chức năng tích
hợp tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc mà còn là chất keo gắn kết
những thành viên của một xã hội. Khi sự "rối loạn chức năng" xảy ra, đó là lúc
tôn giáo góp phần vào sự căng thẳng, thậm chí xung đột giữa các nhóm hoặc
giữa các quốc gia với nhau. Thời Trung Cổ, niềm tin tôn giáo thúc đẩy tín đồ
Cơ Đốc châu Âu tổ chức thành những đạo quân Thập tự chống lại tín đồ Hồi
giáo phương Đông . Ngày nay, mâu thuẫn giữa các tín đồ Hồi giáo, Do Thái
giáo và Cơ Đốc giáo cũng góp phần vào sự bất ổn định chính trị của khu vực
Trung Đông hay căng thẳng giữa các tín đồ Tin Lành với Thiên Chúa giáo ở
Bắc Ireland; giữa các tín đồ Ấn Độ giáo với đạo Sikh ở Ấn Độ
23

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
Tôn giáo đã đem lại cho cộng đồng xã hội, cho mỗi khu vực, mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong
tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần. Nhưng bên
cạnh đó cũng đưa đến sự tốn kém, mất thời gian cho những lễ hội, cúng bái… của
những tín đồ quá sùng đạo hoặc một số cá nhân, tổ chức… lợi dụng tôn giáo để
trục lợi riêng, hoặc làm mất vẻ đẹp cảnh quan do tổ chức lễ hội…
- Chính trị lợi dụng tôn giáo vì mục đích không lành mạnh làm tăng tính
tiêu cực của nó.
Tôn giáo tồn tại song song với chính trị, nếu giai cấp thống trị sử dụng
tôn giáo một cách hợp lý, phát huy những mặt mạnh của nó sẽ có tác dụng thúc
đẩy xã hội phát triển. Nếu ngược lại, giai cấp thống trị lợi dụng tôn giáo bỏ vệ

quyền lợi của giai cấp mình thì mặt tiêu cực của tôn giáo sẽ nhân lên.
Ví dụ: Thời kỳ Trung Cổ (Thế kỷ XIII-XVII), công giáo chi phối can
thiệp vào văn hóa, nhận thức, quyết định chế độ xã hội của các nước Châu Âu;
khoa học địa lý không phát triển trong thời gian dài, Galileo đã bị giáo hội bắt
từ bỏ Thuyết Nhật tâm. Thời kỳ này, chính trị kết hợp với tôn giáo bóc lột
nhân dân, tạo ra đẳng cấp trong xã hội. (Đây là thời kỳ gọi là “Đêm trường
Trung cổ” - thời kỳ đen tối nhất trong văn hóa, nhận thức của Châu Âu).
Trong lịch sử, tôn giáo thường đi song song với chính trị. Các hoàng
đế Trung Quốc lấy căn cứ quyền của họ từ Thiên mệnh. Giáo hội Công giáo
Rôma đã thống trị phần lớn châu Âu cho đến cuộc Cải cách Tin lành…
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, không có giai cấp bóc lột
nào không lợi dụng tôn giáo bằng cách này hay cách khác, mức độ này hay
mức độ khác. Có thể nói, trong xã hội có giai cấp, tôn giáo luôn luôn và bao
giờ cũng bị chính trị lợi dụng.
2.2. Tôn giáo ảnh hưởng đến nhận thức của con người
- Giáo lý tôn giáo làm cho các tín đồ quên đi hiện thực, sống hư ảo,
không đấu tranh trong hiện thực… là một trong những lực cản sự phát triển
của con người và xã hội
24

11
9
… ĐỊA LÝ TÔN GIÁO …
Về bản chất, chúng ta không thể quên rằng, thế giới quan tôn giáo là thế
giới quan tiêu cực. Một khi đã thâm nhập vào ý thức con người, nó sẽ làm cho
con người lãng quên hiện thực, đặt tất cả tinh thần, tâm tưởng vào thần thánh
hư ảo mà họ tin đó là giá trị đích thực. Chức năng thế giới quan của tôn giáo
dẫn dắt các tín đồ theo một triết lý sống không hành động, không đấu tranh
trong thực tại, lấy tu dưỡng tâm tính làm điều cốt yếu để mau chóng được giải
thoát ở bên ngoài thực tại, nơi Thiên đường của Chúa hay Niết bàn của Phật.

Theo cách nhìn của tôn giáo, cuộc đời là nơi đầy những cám dỗ, lành ít, dữ
nhiều, đầy những cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn
linh hồn. Muốn sớm được đến gần Chúa và trở về nơi nước Chúa, các con
chiên phải tránh xa quỷ dữ.
− Đề cao cuộc sống hạnh phúc ở cõi niết bàn, Thiên đàng làm tê liệt ý
chí đấu tranh cho hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại.
Hạnh phúc trong đạo đức tôn giáo là hạnh phúc hư ảo. Tôn giáo không
đề cao cuộc sống trần gian. Mặt khác, nó khuyên con người nhẫn nhục trước
tình cảnh nô lệ, biết sợ hãi trước sức mạnh siêu nhiên. Chính vì vậy, tôn giáo
trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho lợi ích của giai cấp thống trị (dù rằng,
lúc đầu tôn giáo không phải là của giai cấp thống trị). Tôn giáo làm cho nhân
dân đắm chìm vào đam mê, làm tê liệt ý chí đấu tranh giai cấp. C.Mác gọi "tôn
giáo là thuốc phiện của nhân dân” là theo nghĩa đó cũng vì vậy, đạo đức tôn
giáo đối lập với đạo đức chân chính.
Theo quan điểm duy xung đột, đặc biệt là của Mác, tôn giáo ngăn cản sự
biến đổi xã hội bằng cách khuyến khích những người bị áp bức vào các quan
tâm ở thế giới khác, thay vì vào sự đói nghèo, hay sự bóc lột đang hiện diện.
Tôn giáo giữ nguyên cấu trúc bất bình đẳng của nó cũng như củng cố lợi ích
của tầng lớp thống trị.
Ví dụ :Thiên Chúa giáo dạy con người sự vâng lời và như vậy rất có thể nó
làm cho những người bị áp bức không chống lại; hay hệ thống đẳng cấp ở Ấn
25

×