MỞ RỘNG XÃ HỘI HÓA MỘT SỐ DỊCH VỤ
HÀNH CHÍNH PHÁP LÝ
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THANH BÌNH
Trường Cán bộ Thành phố HCM
Trong mấy năm qua, nhà nước đã thực hiện chủ
trương xã hội hóa một số lĩnh vực của đời sống kinh
tế xã hội, đạt được những thành tựu đáng kể như xã
hội hóa y tế, xã hội hóa giáo dục đào tạo, xã hội hóa
dịch vụ giới thiệu việc làm, xã hội hóa một số công
tác tư pháp, hòa giải tranh chấp, khiếu kiện… Không
ai có thể phủ nhận vai trò to lớn, tích cực của xã hội
hóa những lĩnh vực quan trọng và cần thiết của đời
sống nhân dân. Tính đúng đắn và tác dụng to lớn của
xã hội hóa đã thúc đẩy đào tạo giáo dục phát triển
mạnh mẽ với sự ra đời của các trường dân lập, bán
công, tư thục từ nhà trẻ mẫu giáo đến các trường phổ
thông, dạy nghề chuyên nghiệp, đại học; hoặc xã hội
hóa y tế bằng những chính sách mở rộng dịch vụ y tế,
cửa hàng dược phẩm tư nhân, phòng khám miễn
phí… đã nâng cao khả năng phục vụ y tế cho nhân
dân; hay mạng lưới tổ hòa giải ở phường, xã được
cũng cố, Ban Thanh tra nhân dân ở đơn vị cơ sở,
phường, xã được hình thành, các văn phòng dịch vụ
pháp lý của các Đoàn thể được hoạt động…đã góp
phần rất lớn vào việc giải quyết các tranh chấp, khiếu
nại, khiếu kiện của nhân dân, ổn định trật tự xã hội,
giảm bớt đáng kể công sức, thời gian, tiền bạc của
nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả, những
ưu điểm kể trên của xã hội hóa, một số lãnh vực hành
chính pháp luật còn bộc lộ không ít những tiêu cực,
sai sót, thậm chí có cả những hành vi lừa đảo, gian
lận trong dịch vụ hành chính pháp lý xâm phạm lợi
ích chính đánh của nhân dân, ảnh hưởng đến vai trò
quản lý hành chính Nhà nước, gây bất bình trong
nhân dân.nhưng khong vì thế mà chúng ta không mở
rộng, xã hội hóa dịch vụ hành chính pháp lý công mà
cần phải tiếp tục củng cố, tăng cường quản lý Nhà
nước có hiệu quả đi đôi với mở rộng xã hội hóa các
dịch vụ này, để giảm bớt việc cơ quan hành chính
Nhà nước phải trực tiếp đảm nhận công việc mà đáng
lẽ để xã hội tự giải quyết, vừa giảm được biên chế
Nhà nước, tinh gọn bộ máy, giảm bớt ngân sách vừa
phục vụ nhân dân nhanh chóng hơn. Trong bài này,
chúng tôi xin nêu một số biện pháp thực hiện xã hội
hóa các dịch vụ hành chính pháp lý ở Thành phố Hồ
Chí Minh.
1. Tiếp tục mở rộng dịch vụ pháp lý:
Chúng ta đều biết nhu cầu dịch vụ pháp lý ở thành
phố Hồ Chí Minh với vị trí là trung tâm kinh tế, văn
hóa, khoa học và giao lưu quốc tế lớn nhất của cả
nước với trên 5 triệu dân là rất cần thiết. Từ những
năm cuối thập niên 80 với chính sách mở rộng hoạt
động hổ trợ tư pháp, hàng chục văn phòng tư vấn
pháp luật của Hội Luật gia thành phố, giúp đỡ hàng
chục ngàn trường hợp về thủ tục hành chính pháp lý.
Nhưng gần đây ngành tư pháp đã có chủ trương
ngưng việc thành lập các văn phòng tư vấn pháp luật,
văn phòng dịch vụ pháp lý làm cho nhiều tổ chức,
đơn vị có khả năng hoạt động dịch vụ hành chính
pháp lý không thể mở văn phòng hoạt động, nhiều
người có đủ trình độ và năng lực pháp lý không thể
tham gia dịch vụ cần thiết này của xã hội. Ngoài
những văn phòng tư vấn pháp luật được cấp giấy
phép hoạt động, các cơ quan, tổ chức, đơn vị muốn
hoạt động dịch vụ pháp lý đành phải đứng nhìn các
hoạt động dịch vụ pháp lý được thực hiện ở các văn
phòng luật sư và gần như là công việc độc quyền của
các văn phòng luật sư. Bên cạnh việc không mở các
văn phòng tư vấn pháp luật dẫn đến “cầu lớn hơn
cung” nên nhân dân phải tìm đến các tổ chức, cá
nhân hoạt động dịch vụ pháp lý không chính thức,
những hoạt động này vừa trốn chạy được thuế, vừa tự
do lấy lệ phí dịch vụ ngoài vòng quản lý của cơ quan
Nhà nước, thậm chí còn không ít những hiện tượng
lừa đảo, gian lận, bất chính gây thiệt hại cho nhân
dân, gây khó khăn cho hoạt động quản lý Nhà nước
và các quá trình giải quyết các nhu cầu của nhân dân.
Đã đến lúc (nếu không nói là đã muộn) Nhà nước cho
phép cá nhân, tổ chức có trình độ mở các văn phòng
tư vấn pháp luật dưới nhiều hình thức theo chế độ cấp
phép và quản lý chặt chẽ để xã hội hóa dịch vụ hành
chính pháp lý những thủ tục cần thiết phục vụ nhu
cầu của nhân dân. Làm được như vậy thì dịch vụ
pháp lý không còn là độc quyền của một số văn
phòng tư vấn pháp lý và văn phòng luật sư hiện hữu,
tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh, giảm giá lệ phí, ngăn
chặn các dịch vụ pháp lý chui hay núp bóng ở các
công ty tư vấn về lĩnh vực đầu tư, kinh tế.
2. Mở rộng các dịch vụ về hành chính xây dựng,
nhà đất:
Các quan hệ mua bán, trao đổi về nhà ở, giao dịch về
quyền sử dụng đất ở một đô thị lớn như Thành phố
Hồ Chí Minh ngày càng tăng. Bên cạnh đó, việc xây
dựng hồ sơ giấy tờ, tiến hành các thủ tục về bản đồ
địa chính các loại đất, thiết kế các công trình xây
dựng, sửa chữa nhà ở, đo vẽ nhà đất khi thực hiện các
giao dịch về nhà đất cũng như xin cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất là nhu cầu
rất lớn và đã trở nên quá tải đối với các cơ quan quản
lý nhà đất. Hiện nay ở thành phố đã hình thành một
số tổ chức “trắc địa tư”, một số “nhà thiết kế xây
dựng tư” phần nào làm giảm sự quá tải của các cơ
quan Nhà nước nhưng so với nhu cầu thì cần phải mở
rộng hơn nữa. Theo pháp luật hiện hành, mọi giao
dịch dân sự về nhà đất như mua bán nhà, tặng cho
nhà, thừa kế nhà hay chuyển quyền sử dụng đất đều
phải được công chứng, tức là có cơ quan tư pháp của
Nhà nước kiểm tra về mặt pháp lý xác nhận, còn việc
xin phép xây dựng, sửa chữa nhà hay xin giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất đều được
cơ quan quản lý nhà đất thẩm tra, xét duyệt. Nếu tất
cả các thủ tục về giấy tờ, hồ sơ giao cho cơ quan Nhà
nước đảm nhận thì tất yếu không tránh khỏi quá tải,
không tránh khỏi phiền hà cho nhân dân, làm hao tổn
ngân sách, tăng biên chế Nhà nước. Vì vậy, theo
chúng tôi nên cho phép ra đời nhiều “tổ chức trắc
địa tư”, “tổ chức thiết kế xây dựng”, “tổ chức dịch
vụ nhà đất tư” bên cạnh các tổ chức dịch vụ công do
cơ quan Nhà nước thực hiện, giúp nhân dân tiến hành
các công việc giao dịch về nhà đất hay hoàn tất các
thủ tục nhà đất. Các tổ chức dịch vụ này thực hiện đặt
dưới sự kiểm tra nghiêm ngặt, chặt chẽ của các cơ
quan có thẩm quyền với qui định giá các lệ phí dịch
vụ hợp lý thì chúng ta mới tinh giảm được biên chế,
giảm chi ngân sách, và cái được có ý nghĩa hơn là
hạn chế được tệ tham nhũng, tệ gây phiền hà của
công chức Nhà nước, bên cạnh đó áp dụng chế độ
khai báo tài chính chính xác và chế độ thuế đúng mức
thì tăng thêm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
3. Thiết lập chế độ dịch vụ thừa phát lại:
Thực tiễn xét xử dân sự của Tòa án, giải quyết các
khiếu nại, khiếu kiện của cơ quan Nhà nước gặp rất
nhiều trở ngại, mất nhiều thời gian thẩm tra, xác
minh thu thập chứng cứ và đánh giá chứng cứ. Đây là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng các vụ việc bị ứ
đọng, kéo dài quá thời hạn pháp luật qui định, nhân
dân phải đi lại nhiều lần, nhiều vụ việc bị kiện đi kiện
lại, xử đi xử lại hay ra quyết định giải quyết rồi
nhưng người dân vẫn kháng cáo, khiếu nại. Muốn
khắc phục được tình trạng này phải thực hiện một
biện pháp xã hội hóa có hiệu quả cao là dịch vụ thừa
phát lại.
Ở thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ Mỹ – Ngụy đã có chế
độ thừa phát lại. Nay chúng ta nên thành lập lại các tổ
chức thừa phát lại với chức năng, nhiệm vụ được đổi
mới cho phù hợp với nhu cầu của xã hội và phục vụ
đúng đắn các thủ tục pháp lý cho từng loại công việc
tư pháp. Tổ chức thừa phát lại là tổ chức xã hội nghề
nghiệp tự thu tự chi, Nhà nước không phải chi ngân
sách mà chỉ quản lý hoạt động và kiểm tra, thanh tra
hoạt động của họ để đảm bảo cho họ hoạt động đúng
pháp luật và đóng thuế đầy đủ theo các chính sách
thuế của Nhà nước. Thừa phát lại phải được tiêu
chuẩn hóa về mặt năng lực pháp lý và phẩm chất đạo
đức, được xét cấp giấy phép hoạt động theo chế độ
thi tuyển cấp thẻ hành nghề thừa phát lại (giống như
thi cấp thẻ trọng tài viên kinh tế), và thừa phát lại
được cấp thẻ, được cấp giấy phép hành nghề để hoạt
động.
Chế độ dịch vụ thừa phát lại sẽ xã hội hóa được nhiều
công việc pháp lý quan trọng như tống đạt giấy triệu
tập của Tòa án khi cần thiết, lập biên bản khi nhận
các sự kiện pháp lý có giá trị làm chứng, tài liệu để
giải quyết các yêu cầu hợp thức hóa chủ quyền nhà,
đất, giải quyết các khiếu nại, giải quyết tranh chấp
dân sự, tranh chấp kinh tế, tranh chấp lao động, tranh
chấp hành chính, căn cứ để xử lý vi phạm hành
chính, giải quyết tố cáo và xét xử hình sự.
Trong thực tiễn đời sống diễn ra vô vàn các sự kiện
có liên quan đến các quan hệ trao đổi, giao dịch tài
sản, quan hệ dịch vụ, quan hệ vợ chồng, quan hệ lao
động… nhưng lại thiếu một tổ chức với tư cách là
“đệ tam nhân” ( người thứ ba ngoài hai bên) ghi
nhận lại làm tài liệu, chứng cứ cho quá trình thực
hiện các quan hệ đó hay làm chứng cứ để kiện tụng
hoặc giải quyết một số yêu cầu cụ thể của cá nhân, tổ
chức nào đó. Ví dụ người chủ cho thuê nhà muốn bán
nhà cho thuê, theo luật dân sự họ thông báo cho bên
thuê biết để hưởng quyền ưu tiên mua nhà, hết thời
hạn mà bên thuê không có ý kiến thì chủ nhà mới
được bán cho người khác, nếu có thừa phát lại ghi
nhận việc thông báo này thì hai bên (nhất là bên thuê)
không thể “đôi co”. Hoặc khi bên này trao đổi với
bên kia về biện pháp thực hiện hợp đồng đó, chắc
chắn không thể mời được đại diện chính quyền chứng
kiến nhưng có thể mời thừa phát lại đến chứng
kiến… Hay người chồng có hành vi bạo hành với
người vợ ở mức bình thường người dân cũng khó
mời được chính quyền đến lập biên bản nhưng có thể
mời thừa phát lại đến ghi nhận sự việc v.v… Chính
vai trò đó của thừa phát lại đã xã hội hóa những yêu
cầu thủ tục pháp lý của xã hội để thay thế cho “nhà
nước hóa” mà với bộ máy hiện hành không thể nào
làm được. Vai trò “xã hội hóa” của thừa phát lại sẽ
giúp cho việc xét xử của Tòa án, việc giải quyết tranh
chấp, khiếu nại của nhân dân được nhanh chóng
chính xác, giảm bớt được việc khiếu nại nhiều lần,
kháng cáo kháng nghị đặc biệt khi có đủ chứng cứ tài
liệu thì đương sự mới “tâm phục khẩu phục” tránh
được khiếu nại vô lý, khiếu nại đông người.
Tóm lại bên cạnh xã hội hóa các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, xóa đói giảm
nghèo, nhà tình nghĩa, chăm sóc người già, trẻ em…
cần phải xã hội hóa mạnh mẽ các dịch vụ hành chính
pháp lý để thay thế cho Nhà nước hóa các công việc
không cần thiết nhằm nâng cao chất lượng phục vụ
nhân dân, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, xóa
bỏ điều kiện môi trường tham nhũng của công chức
Nhà nước. Đây là biện pháp tốt có hiệu quả và hợp
lòng dân để cải cách hành chính triệt để.