VẤN ĐỀ KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH TRONG
ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM
TRƯƠNG ĐẮC LINH
TS. Khoa Luật hành ĐH luật TP.HCM
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII trình Đai hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định một trong năm
nhiệm vụ lớn của phương hướng “Đẩy mạnh cải cách
và hoàn thiện Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế” ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
là: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” để Nhà nước ta
“thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị và công cụ
chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân”.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi xin nêu một số ý
kiến về vấn đề khiếu kiện hành chính[1] nhằm bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công
dân, một trong những nguyên tắc cơ bản của Nhà
nước pháp quyền.
Khi nói đến Nhà nước pháp quyền người ta thường
nói đến tính tối cao của Hiến pháp và sự ngự trị của
pháp luật nói chung trong đời sống chính trị – xã hội
với ý nghĩa pháp luật là ý chí của nhân dân, có giá trị
phổ biến, khách quan, công bằng, tiến bộ. Ở đây sự
ngự trị của pháp luật, sự ràng buộc bởi pháp luật
không phải chỉ đối với các tổ chức xã hội, tổ chức
kinh tế và các cá nhân với tính cách là các thành viên
trong xã hội, mà còn đối với cả chính Nhà nước, các
cơ quan Nhà nước và các cán bộ, công chức khi thực
thi công quyền.
Xây đựng Nhà nước pháp quyền chính là tạo ra mối
quan hệ qua lại bình đẳng, đúng đắn giữa Nhà nước
và công dân thông qua các quyền và nghĩa vụ pháp lý
của công dân được Hiến pháp và pháp luật qui định.
Vì vậy, một trong các nguyên tắc cơ bản cần quán
triệt và thực hiện trong thực tiễn xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam, là vần đề bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp chính đáng của công dân.
Các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công
dân có thể bị vi phạm từ nhiều phía: đó có thể là sự vi
phạm bởi hành vi trái pháp luật của cơ quan Nhà
nước nới chung (cơ quan lập pháp, cơ quan tư pháp,
cơ quan hành chính Nhà nước và các cán bộ công
chức của những cơ quan này) cũng như bởi các hành
vi trái pháp luật của các tổ chức xã hội, tổ chức kinh
tế hoặc của công dân khác. Nhưng sự vi phạm Hiến
pháp và pháp luật của các cơ quan hành chính Nhà
nước và các cán bộ, công chức hành chính làm thiệt
hạquyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của công dân
và vấn đề khiếu kiện hành chính để bảo vệ các quyền,
lợi ích hợp pháp chính đáng đó khỏi sự vi phạm này,
theo chúng tôi là một trong những vấn đề có tính cấp
thiết, có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận cũng như
về mặt thực tiễn trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Điều này là do:
Thứ nhất, mối quan hệ qua lại về quyền và nghĩa vụ
pháp lý giữa Nhà nước và công dân được thực hiện
trực tiếp, cụ thể, thường xuyên trên thực tế chính là
mối quan hệ giữa các cơ quan hành chính Nhà nước
với công dân. Có những công dân cả đời không có
quan hệ gì với Tòa án, Viện kiểm sát (Việt Nam có
câu tục ngữ “Vô phúc đáo tụng đình”), nhưng không
có ai lại không trực tiếp phải quan hệ với các cơ quan
hành chính để thực hiện các quyền, các nghĩa vụ
pháp lý của mình. Các quyền tự do dân chủ, cũng
như các nghĩa vụ pháp lý của công dân mặc dù đã
được Hiến pháp và pháp luật qui định nhưng trong rất
nhiều trường hợp muốn thực hiện được chúng trong
thực tế đều phải thông qua các quyết định hành chính
hoặc hành vi hành chính của các cơ quan hành chính
Nhà nước và các cán bộ, công chức của những cơ
quan này.
Vì vậy, xét về mặt khách quan, cả về mặt số lượng và
đối tượng bị thiệt hại bởi các quyết định hành chính,
hành vi hành chính trái pháp luật làm thiệt hại quyền
và lợi ích của công dân so với các quyết định, các bản
án trái pháp luật (nếu có) của cơ quan kiểm sát, của
Tòa án là hơn gấp nhiều lần.
Hai là, trong rất nhiều trường hợp các quyết định
hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật chính là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các quyết định, các
bản án trái pháp luật của cơ quan kiểm sát, của Tòa
án làm thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân (như: quyết định xử phạt vi phạm hành chính trái
pháp luật, quyết định thu hồi đất, giao đất, quyết định
giải quyết khiếu nại có vi phạm pháp luật…trong
nhiều trường hợp là nguyên nhân, tiền đề của các
quyết định truy tố trái pháp luật của Viện kiểm sát và
các bản án trái pháp luật của Tòa án).
Ba là, khác với sự vi phạm các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân được thực hiện bởi hành vi trái
pháp luật của công dân bình thường, của tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội với nhau, các quyết định hành
chính, hành vi hành chính trái pháp luật làm thiệt hại
đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân từ phía
cơ quan hành chính Nhà nước và các cán bộ , công
chức hành chính là nhân danh quyền lực Nhà nước,
thực thi công quyền để đơn phương quyết định, có
tính bắt buộc công dân phải phục vụ tùng đã tạo ra sự
bất lợi về nhiều mặt đối với công dân.
Chính vì vậy nhân dân đánh giá bản chất của Nhà
nước trước hết hết và chủ yếu thông qua mối quan hệ
trực tiếp, cụ thể, hàng ngày với các cơ quan hành
chính Nhà nước, cán bộ, công chức của các cơ quan
này. Đây cũng là một trong những lý do giải thích vì
sao khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chủ trương: phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và
vì nhân dân, lại xác định nhiệm vụ trọng tâm là cải
cách nền hành chính Nhà nước, bao gồm: cải cách thể
chế hành chính, cải cách bộ máy hành chính và xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Bốn là, mặc dù Điều 12 Hiến pháp 1992 qui định:
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế XHCN”, nhưng trong
hoạt động thực tiễn quản lý Nhà nước ở nước ta, vì
những lý do khách quan và chủ quan, các cơ quan
hành chính nhà nước, cán bộ, công chức của các cơ
quan hành chính Nhà nước trong một số trường hợp
đã ban hành các quyết định hành chính và thực hiện
các hành vi hành chính trái pháp luật làm thiệt hại
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân.
Điều này làm phát sinh một số lượng không nhỏ các
khiếu kiện hành chính của công dân. Tình trạng đơn
thư khiếu nại gia tăng về số lượng, phức tạp về nội
dung, tính chất, số đơn thư khiếu nại gửi nhiều nơi,
gửi vượt cấp lên Trung ương, khiếu nại nhiều lần,
khiếu nại đông người vẫn còn xảy ra ở một số địa
phương. Mặc khác, nhiều quyết định giải quyết khiếu
nại đúng pháp luật nhưng vẫn không được công dân
chấp hành vẫn còn xảy ra. Cả hai hiện tượng này đều
là không bình thường, trái với nguyên tắc cơ bản của
Nhà nước pháp quyền về mối quan hệ qua lại giữa
Nhà nước và công dân.
Năm là, mục đích của giải quyết các khiếu kiện hành
chính của công dân không chỉ nhằm khôi phục, bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
công dân bị xâm phạm từ phía các cơ quan hành
chình Nhà nước và các cán bộ công chức hành chính,
mà còn góp phần phát hiện những hạn chế, khiếm
khuyết trong hoạt động của các cơ quan hành chính
Nhà nước các cấp, những hành vi sai phạm của cán
bộ công chức khi thi hành công vụ. Trên cơ sở đó có
những biện pháp khắc phục nhằm hoàn thiện tổ chức
và hoạt động bộ máy quản lý Nhà nước,xử lý kịp thời
và loại ra khỏi bộ máy Nhà nước những cán bộ, công
chức mất phẩm chất đạo đức, quan liêu, tham nhũng,
thiếu trách nhiệm. Ví dụ: Kết quả giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân năm 1999 đã trả lại lợi ích
chính đáng cho công dân 13.906,8 triệu đồng;
3.580,5 chỉ vàng; 1.196,81 ha đất; 13,98 tấn lúa… đã
xử lý kỷ luật hành chính 2.780 cán bộ, công chức vi
phạm pháp luật nghiêm trọng[2]. Đối với các quyết
định hành chính, hành vi hành chính đúng pháp luật
thì việc giải quyết khiếu kiện hành chính trong trường
hợp này vẫn thuộc trách nhiệm của các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền để thông qua đó giải thích cho
công dân hiểu rõ và thực hiện đúng các nghĩa vụ
pháp lý của mình. có như vậy mới xây dựng một xã
hội đồng trách nhiệm giữa Nhà nước và công dân –
một trong những nguyên tác rất quan trọng của Nhà
nước pháp quyền.
II. KHÁI QUÁT VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP
LUẬT VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH Ở NƯỚC
TA TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM
1945 ĐẾN NAY.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi, cùng với
bản tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
ngày 02.9.1945 đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong
lịch sử Nhà nước và pháp luật ở Việt Nam. Đó là sự
ra đời của Nhà nước dân chủ nhân dân, là sự thay thế
xã hội thần dân, với chế độ thuộc địa nữa phong kiến
sang xã hội công dân, đưa người dân từ địa vị nô lệ
trở thành những công dân của một Nhà nước độc lập,
có chủ quyền. Đó là những “chủ nhân ông” của đất
nước, những người quyết định vận mệnh của nước
nhà.
55 năm qua, cùng với việc xây dựng và pháp triển
Nhà nước của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm vấn đề bảo đảm các quyền tự do, dân
chủ của công dân, xây dựng mối quan hệ pháp lý qua
lại giữa Nhà nước và công dân thông qua chế định
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ Hiến pháp
đầu tiên năm 1946 đến các Hiến pháp 1959, Hiến
pháp 1980 cũng như Hiến pháp 1992 hiện hành.
Ngay từ những ngày đầu xây dựng chính quyền dân
chủ nhân dân, để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban
hành Sắc lệnh số 64/SL ngày 23.11.1945 về Ban
Thanh tra đặc biệt có nhiệm vụ giám sát tất cả các
công việc và các nhân viên của các Ủy ban hành
chính và các cơ quan của chính phủ, nhận và giải
quyết các đơn khiếu nại của nhân dân. Tiếp theo ngày
18.12.1949 Hồ Chủ tịch ký tiếp sắc lệnh số 138B-SL
về việc thành lập Ban Thanh tra của Chính phủ, Sắc
lệnh 261/SL ngày 28.3.1956 về thành lập Ủy ban
Thanh tra trung ương; Thu tướng Chính phủ ban
hành Thông tư số 436/TT-TTg qui định một số vấn
đề giải quyết khiếu nại của công dân.
Các bản Hiến pháp 1959 (Điều 29), Hiến pháp 1980
(Điều 73), Hiến pháp 1992 hiện hành (Điều 74) đều
qui định quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đối với
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc
làm trái pháp luật của các cơ quan Nhà nước, nhân
viên Nhà nước làm thiệt hại các quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân. Việc các bản Hiến pháp qui định
quyền khiếu nại của công dân không chỉ là sự bổ
sung quyền cơ bản của công dân mà còn hoàn thiện
cơ chế bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân,
thể hiện rõ mối quan hệ qua lại giữa Nhà nước và
công dân.
Để cụ thể hóa các qui định của Hiến pháp về quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định
hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành
chính Nhà nước và các cán bộ công chức của những
cơ quan này, những năm gần đây Nhà nước ta đã ban
hành các văn bản pháp luật như: Pháp lệnh khiếu nại,
tố cáo năm 1981; Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo năm
1991 để thay thế pháp lệnh năm 1981 và Luật khiếu
nại, tố cáo năm 1998 hiện hành.
Trên cơ sở Luật khiếu nại, tố cáo, Chính phủ cũng đã
ban hành Nghị định số 67/1999/NĐ-CP ngày 7 - 8 -
1999 để qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
khiếu nại, tố cáo năm 1998, tạo ra cơ sở pháp lý đầy
đủ hơn, cụ thể hơn cho công dân thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo của mình và các cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền, có trách nhiệm hơn trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Việc ban hành Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 là
một bước tiến quan trọng thể chế hóa quyền khiếu
nại, tố cáo, một trong những quyền cơ bản của công
dân đã được Hiến pháp ghi nhận, thể hiện quan điểm,
đường lối của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN, phát huy quyền dân chủ
của nhân dân, đáp ứng những đòi hỏi bức thiết về
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời kỳ
mới.
Tuy nhiên, pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói trên mới
chỉ tạo cơ sở pháp lý cho công dân quyền khiếu nại
các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị cho
là trái pháp luật, làm thiệt hại quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân. Việc giải quyết khiếu nại này chỉ theo
cấp hành chính, do chính các cơ quan hành chính
thực hiện “trong phòng kín” và vẫn theo nguyên tác
đơn phương quyết định của chính cơ quan hành chính
Nhà nước. Cơ quan hành chính Nhà nước trong
trường hợp như thế đã vừa là “người bị kiện” lại vừa
là “người phán quyết”, nên việc giải quyết khiếu nại
chưa mang tính khách quan, công bằng và dân chủ.
Vì vậy, ngày 28.10.1995, tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội
khóa IX, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật tổ chức ToaAND, Quốc
hội đã quyết định thành lập Tòa hành chính trong cơ
cấu tổ chức của TAND cấp tỉnh và TANDTC, trao
cho TAND các cấp có thẩm quyền xét xử các vụ án
hành chính, hành vi hành chính.
Tiếp theo, ngày 21.5.1996, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính (PLTTGQCVAHC) có hiệu lực thi
hành từ ngày 01.7.1996 và được sủa đổi, bổ sung
ngày 25.12.1998, trong đó qui định cho cơ quan, tổ
chức và cá nhân có quyền kiện ra Tòa án đối vớicác
quyết định hành chính cá biệt và hành vi hành chính
(thuộc 9 loại vụ việc) bị cho là trái pháp luật, làm
thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều
11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính).
Ngoài ra, Bộ luật dân sự năm 1995 của nước ta lần
đầu tiên đã qui định trách nhiệm “Cơ quan Nhà nước
phải bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức của
mình gây ra trong khi thi hành công vụ. Cơ quan Nhà
nước có trách nhiệm yêu cầu công chức, viên chức
phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường cho
người bị thiệt hại theo qui định của pháp luật, nếu
công chức, viên chức có lỗi trong khi thi hành công
vụ” (Điều 623 BLDS).
Ngày 03.5.1997, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị
định số 47/NĐ-CP để qui định chi tiết và hướng dẫn
thực hiện Điều 623 nói trên của BLDS.
Như vậy, Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 và Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (sửa đổi
năm 1998) đã qui định cho công dân có quyền khiếu
nại các quyết định hành chính, các hành vi hành
chính của các cơ quan Nhà nước, cán bộ công chức
Nhà nước, và sau khi có quyết định giải quyết khiếu
nại lần đầu nếu không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại này, hoặc quá thời hạn giải quyết
khiếu nại theo luật định mà cơ quan, người có trách
nhiệm giải quyết khiếu nại không giải quyết, công
dân có quyền lựa chọn hoặc khiếu nại tiếp lên cơ
quan hành chính cấp trên hoặc kiện ra Tòa án có
thẩm quyền.
Có thể nói, cùng với Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998
và các văn bản của Chính phủ qui định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật này, cũng như
PLTTGQCVAHC được sửa đổi, bổ sung năm 1998
đã đánh dấu bước phát triển lớn của pháp luật về vấn
đề khiếu kiện hành chính ở nước ta, khẳng định quyết
tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện
chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở
Việt Nam. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng góp
phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao
trách nhiệm của các cơ quan hành chính Nhà nước,
các cán bộ, công chức của những cơ quan này khi thi
hành công vụ, từng bước khắc phục sự lộng quyền,
thiếu trách nhiệm, quan liêu của các cơ quan công
quyền, đảm bảo mối quan hệ qua lại giữa nhà nước
và công dân.
III. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH VÀ MỘT SỐ VẤN
ĐỀ ĐẶT RA Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY.
1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về khiếu nại hành
chính. Về khiếu nại: Thực hiện sự chỉ đạo của Chính
phủ, sau khi có Luật khiếu nại, tố cáo và
PLTTGQCVAHC, các bộ, ngành, địa phương đã
khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện hai văn bản
pháp luật quan trọng này, đã tiến hành tổ chức 944
lớp tập huấn về Luật khiếu nại, tố cáo cho 336.660
lượt cán bộ, công chức là cán bộ lãnh đạo các cấp
chính quyền, cơ quan chức năng và thanh tra nhân
dân[3]. Bộ Tư pháp và TANDTC đã mở lớp tập huấn,
bồi dưỡng cho các cán bộ, thẩm phán được giao
nhiệm vụ giải quyết các vụ án hành chính về
PLTTGQCVAHC. Các cơ quan báo, đài ở Trung
ương và địa phương cũng đã mở nhiều đợt tuyên
truyền pháp luật về khiếu nại hành chính trên các
phương tiện thông tin đại chúng để cán bộ và nhân
dân nắm vững quyền, nghĩa vụ trong khiếu kiện hành
chính và thẩm quyền, trình tự thủ tục và trách nhiệm
giải quyết của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
đối với các khiếu kiện hành chính của công dân.
Tuy nhiên, theo Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp
thứ 8 Quốc hội khóa IX (tháng 11 năm 2000), thời
gian qua tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn gia tăng về số
lượng, phức tạp về nội dung, gay gắt về tính chất.
Trong 2 năm 1999 và 2000, các cơ quan hành chính
Nhà nước đã tiếp nhận và xử lý 307.334 vụ việc
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân, trong đó có
194.465 khiếu nại và 28.139 tố cáo thuộc thẩm quyền
giải quyết của các cơ quan hành chính Nhà nước các
cấp. Một số địa phương có nhiều lượt đoàn đông
người khiếu nại, như: Hà Tây 69 lượt đoàn, Hà Nội
40 lượt đoàn, Hải Phòng 19 lượt đoàn, Thành phố Hồ
Chí Minh 12 lượt đoàn…
Ở một số tỉnh, thành phía Nam có nhiều đoàn khiếu
kiện không đúng nơi, đúng chỗ, tập trung dài ngày
trước Văn phòng II Chính phủ (số 7, đường Lê Duẩn,
TP.Hồ Chí Minh), có lúc lên đến hơn 400 người.
Những người khiếu nại chiếm cứ lòng lề đường,
trương khẩu hiệu gây ảnh hưởng an ninh, trật tự xã
hội, làm cho tình hình hết sức bức xúc[4].
Trước tình hình khiếu kiện diễn biến phức tạp, Thủ
tướng Chính phủ đã có quyết định số 840/QĐD-TTg
ngày 01.9.2000 và Quyết định 1061/QĐ-TTg ngày
25.10.2000 thành lập 6 Đoàn công tác liên ngành của
Trung ương do các Bộ trưởng, Tổng cục trưởng phụ
trách để kiểm tra, đôn đốc và xem xét và giải quyết
các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp và kéo dài
nhiều năm ở 21 tỉnh, thành phố (như: Hà Nội, Hà
Tây, Thanh Hóa, Lâm Đồng, Đồng Nai, Bà Rịa –
Vũng Tàu, Long An, Bến Tre, Thành phố Hồ Chí
Minh…)
Cùng với việc thành lập các đoàn công tác liên ngành
của Trung ương, Chính phủ đã chỉ đạo các tỉnh, thành
phố lập các đoàn công tác liên ngành của địa phương
mình, hoạt động theo cơ chế như các đoàn công tác
của Trung ương, để tập trung giải quyết dứt điểm, có
hiệu quả các khiếu nại, tố cáo phức tạp, tồn đọng, kéo
dài ở các địa phương.
Kết quả là đã có 83 vụ việc nổi cộm, phức tạp, tồn
đọng ở các địa phương đã cơ bản được giải quyết
xong, trong đó có 51 vụ việc dân khiếu kiện đúng cần
được khôi phục quyền lợi hợp pháp, chính đáng của
công dân; 25 vụ việc có đúng có sai, phần khiếu nại
đúng giải quyết bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho
người bị hại; 7 vụ khiếu nại sai pháp luật và những
vụ khiếu nại có nội dung không đúng đã được các
Đoàn công tác liên ngành giải thích, thuyết phục, vận
động người khiếu nại nghiêm chỉnh chấp hành. Các
Đoàn công tác liên ngành của Chính phủ cũng đã
kiến nghị xử lý kỷ luật đối với 8 cán bộ chủ chốt và
đang xem xét hành vi vi phạm pháp luật của một số
cán bộ khác ở cấp chính quyền địa phương để đề nghị
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý[5].
Kết quả giải quyết của các đoàn công tác liên ngành
của Trung ương vừa qua đã tạo được sự chuyển biến
mạnh mẽ về nhận thức, về trách nhiệm của các cấp
ủy Đảng, các cán bộ lãnh đạo của chính quyền địa
phương đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân. Nhân dân hoan nghênh và rất quan tâm
đến kết quả giải quyết của các đoàn công tác của
Chính phủ, coi đây là sự thể hiện mối quan hệ gắn bó
giữa các cấp chính quyền với nhân dân. Tuy nhiên,
cần phải khẳng định rằng việc tổ chức các Đoàn công
tác liên ngành của Chính phủ chỉ là giải pháp có tính
chất tình thế. Các cấp ủy Đảng và các cơ quan chính
quyền địa phương phải nhận thức hơn nữa trách
nhiệm của mình về công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo ở địa phương và phải chịu trách nhiệm về vấn đề
này.
Về giải quyết các vụ án hành chính:
Kể từ ngày 01.7.1996 (ngày PLTTGQCVAHC có
hiệu lực), TAND các cấp bắt đầu thực hiện các thẩm
quyền giải quyết các vụ án hành chính. Mặc dù các
khiếu nại hành chính gia tăng với số lượng lớn, phức
tạp, nhưng các đơn khởi kiện tại Tòa án lại không
nhiều. Ngoài ra, trong số đơn khởi kiện các quyết
định hành chính, hành vi hành chính gởi đến Tòa án
thì số đơn Tòa án không thụ lý, trả lại cho đương sự
chiếm tỷ lệ lớn so với tổng số đơn khởi kiện. Năm
1999, các TAND các cấp chỉ nhận đơn và thụ lý 408
vụ án hành chính và đã giải quyết 319 vụ án loại
này[6].
Báo cáo của Chánh án TANDTC tại kỳ họp thứ 8
Quốc hội khóa IX về công tác Tòa án (ngày
20.10.2000) cũng cho thấy trong quý IV năm 1999 và
tháng 9 năm 2000, Tòa án các cấp cũng chỉ thụ lý
453 vụ án hành chính, đã giải quyết 338 vụ. Nguyên
nhân của tình trạng trên, theo chúng tôi là do: một là,
Tòa án mới chỉ được trao thẩm quyền giải quyết các
vụ án hành chính thuộc 9 loại vụ việc theo Điều 11
PLTTGQCVAHC (chứ không phải đối với mọi quyết
định hành chính, hành vi hành chính); hai là, nhiều
khiếu kiện hành chính xảy ra quá lâu, quá thời hiệu
khởi kiện theo qui định của pháp luật, nên người khởi
kiện đã mất quyền khởi kiện tại Tòa án; ba là, công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật hành chính nói
chung, pháp luật về khiếu kiện hành chính nói riêng
chưa được sâu, rộng và thường xuyên nên nhiều
người dân không biết họ có quyền khởi kiện ra Tòa
án đối với các quyết định hành chính, hành vi hành
chính mà mình cho là trái pháp luật để yêu cầu Tòa
án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; bốn
là, việc trao cho Tòa án giải quyết các vụ án hành
chính là một việc hoàn toàn mới mẻ ở nước ta nên
nhiều Tòa án địa phương vẫn còn có thái độ dè dặt,
ngại động chạm đến người bị kiện là các cơ quan
chính quyền địa phương, nhất là các cơ quan chính
quyền địa phương cùng cấp và các cán bộ, công chức
của các cơ quan này. Một số thẩm phán có tư tưởng
ngại giải quyết các vụ án hành chính, coi mỗi vụ án
hành chính là một “gánh nặng” vì không tránh khỏi
đụng chạm đến “uy tín” của các cơ quan chính quyền
địa phương. Một số cán bộ chính quyền địa phương
thậm chí đã phản ứng gay gắt, ảnh hưởng không tốt
đến mối quan hệ giữa Tòa án với chính quyền địa
phương v.v… Chính những lý do trên đây đã phần