Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "MẤY VẤN ĐỀ VỀ DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM " ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.42 KB, 21 trang )

MẤY VẤN ĐỀ VỀ DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP
LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC LOẠI HÌNH DOANH
NGHIỆP Ở VIỆT NAM
BÙI XUÂN HẢI
ThS. GV Khoa Luật Thương mại, ĐH Luật TP. HCM
1. Doanh nghiệp và bản chất pháp lý của doanh
nghiệp
1.1. Doanh nghiệp
Trước hết phải khẳng định rằng có khá nhiều cách
hiểu về khái niệm doanh nghiệp dưới góc độ của
khoa học quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh và khoa
học pháp lý. Trong Từ điển tiếng Việt, khái niệm
doanh nghiệp được xác định rất đơn giản “là đơn vị
kinh doanh, như xí nghiệp, công ty, v.v ”(1 ). Trong
giới khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay cũng có
nhiều cách hiểu về khái niệm doanh nghiệp bằng
những cách định nghĩa theo phương pháp tiếp cận
khác nhau. Dưới góc độ luật thực định, từ khi thực
hiện đường lối đổi mới, khái niệm doanh nghiệp đã
được qui định lần đầu tiên trong Luật công ty
năm1990, sau đó là qui định tại điều 3, Luật doanh
nghiệp năm1999 - “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định
được đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
Lại có quan điểm cho rằng định nghĩa về doanh
nghiệp theo qui định tại điều 3, Luật doanh nghiệp
nói trên chỉ có thể được hiểu trong phạm vi của Luật
doanh nghiệp chứ không thể mở rộng cho tất cả.
Theo quan điểm này, doanh nghiệp phải được hiểu là
mọi chủ thể kinh doanh có làm thủ tục đăng ký kinh


doanh, xin phép kinh doanh tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Theo cách hiểu này thì khái niệm doanh
nghiệp được hiểu rất rộng, bao gồm tất cả các loại
chủ thể có đăng ký kinh doanh, xin phép kinh doanh
như hộ kinh doanh cá thể theo Nghị định 02/CP ngày
03/2/2000 của Chính phủ, các cá nhân kinh doanh và
nhóm kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT ngày
02/3/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (trước đây) và các
tổ hợp tác theo Bộ luật dân sự 1995 cũng là một loại
hình doanh nghiệp tập thể(2 ).
Theo chúng tôi, có thể có nhiều cách hiểu về khái
niệm doanh nghiệp dưới góc độ lý luận và góc độ luật
thực định. Nhưng nếu có hiểu theo luật thực định thì
cũng không thể chỉ dừng lại ở Luật doanh nghiệp mà
phải xem xét đến toàn bộ lĩnh vực pháp luật điều
chỉnh về các loại hình chủ thể kinh doanh. Khi đó
khái niệm doanh nghiệp cần được hiểu là những loại
hình tổ chức kinh doanh (tổ chức kinh tế) có đầy đủ
các thuộc tính pháp lý nhất định (tài sản, trụ sở, tên
thương mại.…) được qui định trong các luật về doanh
nghiệp. Hiểu một cách đơn giản theo luật thực định
thì doanh nghiệp là những loại hình tổ chức kinh
doanh thành lập và hoạt động theo các Luật về doanh
nghiệp. Dưới góc độ luật thực định và kể cả trên
phương diện lý luận thì không thể coi tất cả các chủ
thể có đăng ký hay xin phép kinh doanh là doanh
nghiệp và càng không thể coi tất cả các chủ thể có
hành vi kinh doanh là doanh nghiệp(3 ). Trong luật
thực định, nhiều văn bản pháp luật đã xác định phạm
trù doanh nghiệp cũng bằng cách liệt kê các loại hình

doanh nghiệp; chẳng hạn như Điều 1, Nghị định
189/CP ngày 23/12/1994 khi hướng dẫn thi hành
Luật phá sản doanh nghiệp hay điều 2, Nghị định
24/NĐ-CP ngày 31/7/2000 khi hướng dẫn thi hành
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, v.v…. Có thể
liệt kê các loại hình doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
bao gồm:
- Doanh nghiệp nhà nước.
- Hợp tác xã.
- Công ty, gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn
có 2 thành viên trở lên, công ty hợp danh.
- Doanh nghiệp tư nhân.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, gồm:
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài.
Trong thực tế, nước ta còn có khoảng trên 300 doanh
nghiệp thuộc sở hữu của các tổ chức chính trị, chính
trị – xã hội như Đảng cộng sản Việt Nam, công đoàn,
Đoàn thanh niên, v.v…. Những doanh nghiệp này
thường hoạt động theo cơ chế như của doanh nghiệp
nhà nước chứ không có luật điều chỉnh riêng. Từ khi
có Luật doanh nghiệp 1999, chúng ta đã tính tới việc
phải chuyển đổi những doanh nghiệp này sang hoạt
động theo hình thức công ty TNHH một thành viên.
1.2. Về bản chất pháp lý của doanh nghiệp
Trong lý luận và thực tiễn, cần phân biệt doanh
nghiệp với các cơ quan, tổ chức phi lợi nhuận, các tổ
chức kinh tế-sự nghiệp có thu hay các hình thức tổ
chức kinh doanh khác. Để làm được điều đó thì phải

xác định được các dấu hiệu, các thuộc tính thể hiện
bản chất pháp lý của doanh nghiệp. Bản chất pháp lý
của các loại hình doanh nghiệp ở nước ta hiện nay
không giống nhau hoàn toàn vì nó còn phụ thuộc một
số yếu tố (như hình thức sở hữu chẳng hạn…).
Nhưng theo chúng tôi, bản chất pháp lý của doanh
nghiệp nói chung thể hiện qua các vấn đề chủ yếu sau
đây:
- Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế được thành lập theo
qui định của pháp luật mà thông thường là phải làm
thủ tục đăng ký kinh doanh, xin phép kinh doanh tại
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong khi những tổ
chức phi lợi nhuận hay các tổ chức hoạt động sự
nghiệp, v.v thì không phải làm thủ tục này.
- Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ
sở giao dịch, có tài sản, có sử dụng lao động làm
thuê. Doanh nghiệp là nơi diễn ra hoạt động sản xuất
vật chất thì phải dựa trên các yếu tố về tư liệu sản
xuất và lao động. Muốn hoạt động kinh doanh thì
doanh nghiệp nào cũng phải có vốn kinh doanh, có
tài sản; trong một số trường hợp nhất định số vốn đầu
tư ban đầu (vốn điều lệ) không được thấp hơn mức
vốn theo qui định của pháp luật (vốn pháp định).
Doanh nghiệp là chủ thể kinh doanh có qui mô kinh
doanh ở mức độ nhất định, hay hiểu một cách đơn
giản nó là loại chủ thể kinh doanh có qui mô lớn nhất
so với các loại hình kinh doanh khác. Chẳng hạn, một
người bán báo hay một người bán quà vặt….kinh
doanh nhỏ bé và làm việc cho chính mình thì không
phải là doanh nghiệp(4 ).

- Mục đích hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp nói
chung là nhằm mục đích kinh doanh , đây là điểm
khác nhau cơ bản giữa doanh nghiệp và các cơ quan,
tổ chức không được coi là doanh nghiệp. Kinh doanh
được hiểu “là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi” (Điều 3, Luật doanh
nghiệp). Theo nghĩa thông thường, doanh nghiệp phải
được quan niệm là chủ thể hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận. Nhưng trong luật thực định của Việt Nam
hiện nay, có nhiều tổ chức kinh tế hoạt động không
phải với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận nhưng vẫn
được coi là doanh nghiệp, đó là các doanh nghiệp nhà
nước hoạt động công ích (Điều 3, Luật DNNN và
Điều 1, Nghị định 56/CP ngày 02/10/1996) với
khoảng 730 doanh nghiệp(5 ) và các hợp tác xã mà
bản chất cố hữu thực sự của mô hình này là mục đích
hợp tác tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành
viên chứ không phải mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận.
- Doanh nghiệp phải là chủ thể hạch toán kinh doanh
độc lập, có nghĩa nó là chủ thể tự quyết định việc thu,
chi tài chính, tự mình hưởng thành quả cũng như chịu
trách nhiệm cuối cùng về kết quả hoạt động kinh
doanh của mình. Dấu hiệu này là cơ sở để phân biệt
doanh nghiệp với các cơ sở kinh doanh, các đơn vị
phụ thuộc của doanh nghiệp (ví dụ: các đơn vị thành
viên của tổng công ty, các chi nhánh hay văn phòng
đại diện của doanh nghiệp, v.v ). Cũng có quan
điểm cho rằng doanh nghiệp là phải có tư cách pháp

nhân. Theo chúng tôi, quan niệm như vậy là không
hợp lý về phương diện lý luận và không đúng luật
thực định. Doanh nghiệp là một hình thức tổ chức
kinh doanh trong đó các tổ chức, cá nhân được phép
thực hiện hoạt động kinh doanh(6 ), không nên đồng
nhất tư cách pháp nhân với tư cách chủ thể pháp luật.
Không chỉ nước ta mà nhiều nước có nền kinh tế thị
trường phát triển trên thế giới cũng công nhận loại
hình doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân(7 ).
Theo luật thực định của Việt Nam thì những doanh
nghiệp không có tư cách pháp nhân là doanh nghiệp
tư nhân và công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp
1999.
- Doanh nghiệp phải là tổ chức kinh tế được thành lập
và hoạt động dưới một hình thức pháp lý nhất định do
pháp luật qui định. Hình thức pháp lý của doanh
nghiệp được qui định cụ thể trong các luật về doanh
nghiệp như: công ty TNHH, công ty cổ phần, doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên doanh, hợp tác xã,
v.v…. Các tổ chức, cá nhân muốn thành lập doanh
nghiệp tại Việt Nam thì chỉ có thể lựa chọn các hình
thức pháp lý được qui định bởi luật thực định mà
thôi.
2. Về Luật điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp và
một vài hạn chế chủ yếu của lĩnh vực pháp luật này
2.1. Việt Nam hiện nay chưa có một văn bản luật
chung để điều chỉnh về các loại hình doanh nghiệp.
Luật điều chỉnh đối với các loại hình doanh nghiệp
hiện nay ở nước ta bao gồm nhiều văn bản Luật khác
nhau, mỗi loại doanh nghiệp hoạt động theo một Luật

riêng , cụ thể là:
- Luật doanh nghiệp nhà nước năm 1995, qui định về
doanh nghiệp nhà nước - Luật hợp tác xã năm1996,
qui định về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
- Luật doanh nghiệp năm 1999, (thay thế cho Luật
công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân 1990) qui định
về doanh nghiệp tư nhân và các loại công ty như
công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty hợp danh.
- Luật đầu tư nước ngoài 1996 (đã được sửa đổi, bổ
sung) qui định về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài gồm doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài.
2.2. Có thể nói rằng những qui định trong các Luật về
doanh nghiệp hiện nay còn có sự khác biệt với một
khoảng cách tương đối. Nguyên tắc hiến định về bình
đẳng trong kinh doanh qui định tại Điều 22 - Hiến
pháp 1992 hiện nay chưa được thể hiện trong lĩnh
vực pháp luật về doanh nghiệp. Trong khi chưa có
một Luật chung để điều chỉnh các loại hình doanh
nghiệp mà chúng ta lại ban hành nhiều Luật điều
chỉnh về các loại doanh nghiệp với nhiều sự khác biệt
là chưa tạo ra được một môi trường pháp lý thống
nhất cho các doanh nghiệp, chưa đảm bảo nguyên tắc
bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh. Những hạn
chế này thể hiện qua những vấn đề cơ bản sau đây:
1. Thủ tục thành lập các loại doanh nghiệp hiện nay
có sự khác nhau khá lớn. Có tới 4 loại thủ tục thành
lập khác nhau áp dụng cho các loại hình doanh
nghiệp theo 4 Luật nói trên. Thủ tục thành lập, thời
gian giải quyết cũng như bộ hồ sơ thành lập (xin giấy

phép đầu tư) của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài (Chương X, Nghị định 24/CP) phức tạp hơn
nhiều so với việc thành lập hợp tác xã (Chương 2,
Luật HTX) và càng phức tạp hơn rất nhiều so với thủ
tục rất đơn giản (đăng ký kinh doanh) để thành lập
doanh nghiệp tư nhân và công ty (Điều 12, 13 - Luật
doanh nghiệp). Các nhà kinh doanh trong nước và
nước ngoài từ lâu đã mong muốn và họ có quyền đòi
hỏi một thủ tục thành lập chung đơn giản, nhanh
chóng, tiện lợi cho các doanh nghiệp. Thủ tục hành
chính quá rườm rà, phức tạp là một trong những yếu
tố hạn chế làm môi trường đầu tư ở Việt Nam trở nên
kém hấp dẫn, cản trở sự phát triển của nền kinh tế –
xã hội.
2. Các Luật về doanh nghiệp qui định thủ tục giải thể
các loại doanh nghiệp hiện nay cũng không giống
nhau. Mỗi luật qui định một thủ tục giải thể theo một
qui trình, điều kiện riêng trong khi về phương diện lý
luận, bản chất của việc giải thể là giống nhau (thanh
toán nợ, thanh lý hợp đồng và chấm dứt hoạt động).
3. Quyền và nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh của
các loại hình doanh nghiệp trong các Luật nói trên
cũng khác nhau khá lớn. Sự thiếu thống nhất và bất
bình đẳng thể hiện rõ nhất trong các qui định về
quyền và nghĩa vụ của các loại hình doanh nghiệp, nó
cho thấy sự ưu ái vẫn mang tính bao cấp của Nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước và một chút ít
cho hợp tác xã; sự kiểm soát chặt chẽ, khắt khe đối
với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Những qui định về quyền và nghĩa vụ của công ty,

doanh nghiệp tư nhân tại Điều 7 và 8 của Luật doanh
nghiệp khác rất nhiều so với quyền và nghĩa vụ của
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Chương 4,
Luật đầu tư nước ngoài), của hợp tác xã (Điều 8, 9
Luật HTX) và đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước
(Chương 2, Luật DNNN).
Chế độ thuế áp dụng cho các loại doanh nghiệp cũng
có sự khác nhau, như về việc miễn thuế nhập khẩu,
phê duyệt kế hoạch nhập khẩu hay về thuế suất thuế
thu nhập doanh nghiệp (doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài là 25% trong khi các doanh nghiệp trong
nước là 32%). Hoặc sự khác nhau về qui chế quản lý
tài chính và phương pháp hạch toán kinh doanh
v.v….
4. Sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp cũng thể
hiện qua những ngành nghề được phép kinh doanh.
Sự khắt khe nhất về vấn đề này là đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, còn các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế dân doanh cũng chẳng
hơn là bao, trong khi các doanh nghiệp nhà nước thì
được sự ưu ái đặc biệt của Nhà nước. Chính sự quá
ưu ái của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước là
một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho các
doanh nghiệp này hoạt động kém hiệu quả, sức cạnh
tranh kém. Nguyên tắc “được làm những gì mà pháp
luật không cấm” chưa được thể hiện trong nhiều văn
bản pháp luật cũng như thực tiễn thi hành.
5. Cơ chế quản lý nhà nước hiện nay đối với các loại
doanh nghiệp vẫn có sự khác biệt ở mức độ nhất định
theo chính sách thành phần kinh tế. Một bộ phận

không nhỏ cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức -
những người soạn thảo chính sách, pháp luật và thực
thi pháp luật- vẫn có tư tưởng và thói quen của sự
phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp. Thậm chí ngay cả các đơn vị kinh
doanh của Nhà nước như các Ngân hàng thương mại
quốc doanh cũng có sự phân biệt đối xử công khai
trong chính sách tín dụng đối với các thành phần kinh
tế. Nhiều nhà đầu tư cho rằng việc Nhà nước hiện
nay vẫn duy trì chế độ hai giá (ví dụ: điện, nước, dịch
vụ viễn thông, v.v…) trong khi điều kiện kinh doanh,
thuế… như nhau là sự phân biệt đối xử rõ ràng nhất.
Chẳng hạn một chương trình quảng cáo 30 giây trên
truyền hình Việt Nam thì doanh nghiệp trong nước
chỉ phải trả là 5,7 triệu đồng còn doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài phải trả tới 26,7 triệu đồng -
gấp gần 5 lần(8 ).
Các loại hình doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay
ở chừng mực nào đó rõ ràng chưa được Nhà nước đối
xử một cách bình đẳng. Các doanh nghiệp nhà nước
hiện nay về bản chất cũng là những công ty TNHH
có một chủ sở hữu đặc biệt là nhà nước. Các công ty
liên doanh và 100% vốn đầu tư nước ngoài về bản
chất cũng là những công ty TNHH, chúng “thành lập
theo hình thức Công ty TNHH” (Điều 6 và 15 Luật
ĐTNN). Thực ra bản chất của những doanh nghiệp
do nhà đầu tư nước ngoài thành lập theo Luật đầu tư
nước ngoài đâu có gì khác biệt so với doanh nghiệp
do Việt kiều và người nước ngoài thường trú ở Việt
Nam thành lập, hoạt động theo Luật doanh nghiệp và

Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Do đó chính
sách và pháp luật điều chỉnh các loại hình doanh
nghiệp không thống nhất và bất bình đẳng như hiện
nay cần phải được Đảng và Nhà nước xem xét, sửa
đổi.
3. Về định hướng hoàn thiện
Trong nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường
luôn có sự tồn tại của nhiều loại hình chủ thể kinh
doanh thuộc các hình thức sở hữu khác nhau. Pháp
luật của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển
cũng như Việt Nam đều “thiết kế” hay công nhận
nhiều mô hình tổ chức kinh doanh để các nhà kinh
doanh lựa chọn. Nhiều nước trên thế giới có một Luật
điều chỉnh chung các loại hình doanh nghiệp. Thực
trạng pháp luật điều chỉnh về các loại hình doanh
nghiệp hiện nay có lẽ là một đặc thù của nền kinh tế
thị trường Việt Nam, do chúng ta xây dựng nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ một nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung có trình độ phát triển thấp.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định và phân biệt vị trí,
vai trò của các thành phần kinh tế (gồm 6 thành phần)
là nhằm mục đích ban hành các chính sách quản lý và
định hướng phát triển cho phù hợp đối với từng thành
phần. Dưới giác độ nào đó thì sự phân biệt về chính
sách đối với các thành phần kinh tế cũng là cần thiết
khi xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng cũng từ đó pháp
luật của chúng ta lại dành những “sân chơi” khác
nhau, theo những “luật chơi” không giống nhau cho

các loại doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh thuộc
các thành phần kinh tế là không thoả đáng.
Để tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi khuyến
khích, thúc đẩy hoạt động đầu tư kinh doanh, phát
triển nhanh nền kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước
cần phải “xóa bỏ sự phân biệt về chính sách và pháp
luật giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài”(9
). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng
sản Việt Nam cũng đã khẳng định phải “xây dựng
một luật áp dụng thống nhất cho các loại hình doanh
nghiệp khác nhau thuộc các thành phần kinh tế”(10 ),
nhằm tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các
loại hình doanh nghiệp cạnh tranh, kinh doanh bình
đẳng góp phần đưa Việt Nam phát triển nhanh, thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.

(1) Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, TT Từ điển
học, 1996, tr. 252.
(2) Giáo trình Luật Kinh tế, chương III, Trường ĐH
Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, H., 2000.
(3) Điều 123 Luật Doanh nghiệp và các Điều 1, 17,
23 Nghị định 02/NĐ-CP ngày 3/2/2000.
(4) Điều 123 Luật Doanh nghiệp và Điều 17 Nghị
định 02/NĐ-CP ngày 3/2/2000.
(5) Báo Tuổi trẻ ngày 25/8/2001.
(6) Francis Lemeuvier, Nguyên lý và thực hành Luật
Thương mại – Luật Kinh doanh, NXB CTQG, H.,
1993, tr. 119.
(7) Ví dụ mô hình Partnership (Công ty hợp danh)

trong luật của Anh, Mỹ.
(8) Thời báo kinh tế Sài Gòn ngày 2/8/2001.
(9) Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, Hà Nội,
2001, tr. 200.
(10) Đảng cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 320 - 321.

×