Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Pháp luật về bảo vệ, tiếp cận và chia sẻ lợi ích về các nguồn gien sinh vật tại Việt Nam" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.56 KB, 21 trang )

Pháp luật về bảo vệ, tiếp cận và chia sẻ lợi ích về
các nguồn gien sinh vật tại
Việt Nam
PHẠM HỮU NGHỊ
Tiến sĩ, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật

1. Đánh giá các văn bản pháp luật hiện hành về bảo
vệ, tiếp cận và chia sẻ lợi ích về các nguồn gien sinh
vật
Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 quy định các tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ các giống loài
thực vật, động vật hoang dã, bảo vệ tính đa dạng sinh
học (tức là bảo vệ sự phong phú về nguồn gien, về
giống loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên);
việc khai thác các nguồn lợi sinh vật phải theo đúng
thời vụ, địa bàn, phương pháp và bằng công cụ,
phương tiện đã được quy định, bảo đảm sự phục hồi
về mật độ và giống loài sinh vật, không làm mất cân
bằng sinh thái (Điều 12).
Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 khẳng định: Sinh
vật, các hệ sinh thái là các thành phần môi trường và
phải được bảo vệ. Hoạt động bảo vệ các thành phần
khác của môi trường như đất, nước, không khí, rừng
núi, sông, hồ, biển, các khu bảo tồn thiên nhiên v.v…
đều góp phần vào việc bảo vệ sự đa dạng sinh học và
các hệ sinh thái và cũng có nghĩa là bảo vệ sự phong
phú các nguồn gien.
Trong các văn bản về bảo vệ sự đa dạng sinh học có
“Kế hoạch hành động bảo vệ đa dạng sinh học của
Việt Nam” được phê duyệt bởi Quyết định số
845/TTg ngày 22-12-1995 của Thủ tướng Chính phủ.


Bản kế hoạch đã đánh giá một cách khách quan thực
trạng công tác bảo vệ đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Mục tiêu lâu dài của kế hoạch là bảo vệ đa dạng sinh
học phong phú và đặc sắc của Việt Nam trong khuôn
khổ phát triển bền vững. Mục tiêu trước mắt là bảo
vệ các hệ sinh thái đặc thù của Việt Nam, các hệ sinh
thái nhạy cảm đang bị đe dọa thu hẹp hay hủy hoại
do hoạt động kinh tế của con người, bảo vệ các bộ
phận của đa dạng sinh học đang bị đe dọa do khai
thác quá mức hay bị lãng quên, phát huy và phát hiện
các giá trị sử dụng của các bộ phận đa dạng sinh học
trên cơ sở phát triển bền vững các giá trị tài nguyên,
phục vụ các mục tiêu kinh tế của đất nước.
Nội dung chính của kế hoạch bao gồm một loạt biện
pháp về: Chính sách và pháp luật; Xây dựng và quản
lý các khu bảo vệ; Nâng cao nhận thức chung; Tăng
cường tiềm lực, đào tạo cán bộ; Nghiên cứu khoa
học; Giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội của kế
hoạch; Hợp tác quốc tế.
Trong các biện pháp này có những biện pháp đáng
chú ý như: Xây dựng các ngân hàng gien thực vật,
vật nuôi, vi sinh vật; Cung cấp vật liệu di truyền cho
công tác lai tạo, tuyển chọn giống phục vụ các mục
tiêu kinh tế đồng thời bảo hiểm cho các nguồn gien
trong tự nhiên; Tăng cường năng lực cho các vườn
thú là nơi tham quan, đào tạo, giáo dục ý thức môi
trường chung, nghiên cứu khoa học, bảo tồn những
loài hoang dại đang có nguy cơ tuyệt chủng và khi có
điều kiện cung cấp trở lại những loài này cho các khu
bảo vệ thiên nhiên; Tăng cường các biện pháp bảo vệ

đa dạng sinh học nông nghiệp, phát huy hình thức
“bảo tồn nông trại” để thu hút người nông dân tham
gia nhiệm vụ bảo vệ đa dạng sinh học, đặc biệt chú ý
giữ gìn những giống cây/con cổ truyền đã thích nghi
lâu đời với điều kiện địa lý và khí hậu địa phương, rất
phổ biến ở các vùng khác nhau của đất nước.
Bảo vệ và phát triển rừng là lĩnh vực có rất nhiều văn
bản quy phạm pháp luật trực tiếp liên quan đến vấn
đề bảo vệ, tiếp cận và chia sẻ lợi ích đối với các
nguồn gien sinh vật. Trong số các văn bản hiện hành
về lĩnh vực này, có các văn bản điển hình sau đây:
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 1991; Nghị định
số 17/HĐBT ngày 17/1/1992 Hướng dẫn thi hành
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 1991; Nghị định
số 18/HĐBT ngày 17/1/1992 Quy định Danh mục
thực vật rừng, động vật rừng quý, hiếm (cấm khai
thác 13 loài cây, 36 loài động vật và hạn chế khai
thác 18 loài cây và 10 loài động vật).
Vấn đề quản lý, bảo hộ giống cây trồng được quy
định tại Nghị định số 07/CP ngày 5/2/1996 của Chính
phủ về quản lý giống cây trồng và Nghị định
13/2001/NĐ-CP ngày 20/4/2001 của Chính phủ về
bảo hộ giống cây trồng mới. Các Nghị định này quy
định: Nguồn gien để chọn tạo giống là tài sản quốc
gia do Nhà nước thống nhất quản lý, bảo quản tại các
cơ quan nghiên cứu khoa học được chỉ định; Nhà
nước khuyến khích các tổ chức cá nhân tìm kiếm
khai thác, sử dụng, trao đổi, bảo vệ và làm phong phú
thêm nguồn gien có lợi cho quốc kế dân sinh; Bộ
Nông nghiệp và phát triển Nông thôn quy định danh

mục các nguồn gien quý hiếm và quy chế quản lý
việc trao đổi, khai thác, sử dụng nguồn gien trong
danh mục này, quy định danh mục giống cây trồng
quý hiếm và nguồn thực liệu tạo giống không được
xuất khẩu ra nước ngoài và công bố trong từng thời
kỳ, thực hiện quản lý việc sưu tập, bảo tồn quỹ gien,
nghiên cứu, chọn tạo giống, khảo nghiệm, sản xuất
thử, công nhận giống mới, sản xuất kinh doanh, xuất
nhập khẩu, kiểm định, kiểm nghiệm, kiểm dịch, quản
lý chất lượng giống cây trồng và có trách nhiệm tổ
chức chỉ đạo các hoạt động về giống cây trồng trong
phạm vi cả nước.
Trong việc bảo vệ và khai thác các nguồn lợi thủy
sản có Pháp lệnh Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy
sản năm 1989 và nhiều văn bản của Chính phủ và các
Bộ, ngành hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.
Các quy định hiện hành về bảo vệ, khai thác các cây
thuốc được ghi nhận trong rất nhiều văn bản pháp
quy thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm các
lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng, phát triển nông
nghiệp, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, các quy định
trực tiếp liên quan đến vấn đề bảo vệ và khai thác tài
nguyên cây thuốc được thể hiện trước hết ở các văn
bản như: Chỉ thị số 210/TTg ngày 6/12/1996 của Thủ
tướng Chính phủ về bảo vệ và khai thác dược liệu;
Thông tư liên tịch Y tế – Nông nghiệp ngày
12/2/1968 hướng dẫn thi hành Chỉ thị này; Chỉ thị số
23/BYT-CT ngày 17/7/1976 của Bộ Y tế về việc
trồng 25 – 35 cây thuốc nam tại xã để chữa 07 chứng
bệnh thông thường; Nghị quyết số 200/CP ngày

21/8/1978 của Hội đồng Chính phủ về phát triển
dược liệu trong nước; Quyết định số 312/ Chính phủ
ngày 1/10/1980 của Hội đồng Bộ trưởng và Quyết
định số 24/CT ngày 28/7/1981 của Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng về việc quản lý thuốc và nguyên liệu làm
thuốc dùng cho người; Nghị định số 160/HĐBT ngày
10/12/1984 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thống
nhất quản lý các loại đặc sản rừng; Nghị định số
18/HĐBT ngày 17/1/1992 quy định Danh mục thực
vật rừng, động vật rừng quý hiếm và vấn đề quản lý,
bảo vệ; Nghị quyết số 37/CP ngày 20/6/1996 của
Chính phủ về chính sách quốc gia về thuốc của Việt
Nam thời kỳ 1996 – 2001…
Qua tìm hiểu nội dung của các văn bản pháp luật nêu
trên, chúng tôi rút ra một số nhận xét như sau:
- Vấn đề bảo vệ đa dạng sinh học nói chung và bảo
vệ các nguồn gien nói riêng đã được Nhà nước Việt
Nam quan tâm và cũng đã được thể hiện khá sớm
trong các văn bản pháp luật với nội dung ngày càng
bao quát hơn, đầy đủ hơn, cụ thể hơn.
- Vấn đề bảo vệ đa dạng sinh học nói chung và bảo
vệ các nguồn gien nói riêng được quy định tản mạn ở
rất nhiều văn bản pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau, nhưng chủ yếu tập trung trong các văn bản
pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, về bảo vệ và
phát triển nguồn lợi thủy sản, bảo vệ và kiểm dịch
thực vật, quản lý, bảo hộ giống cây trồng và bảo vệ
môi trường.
- Các quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ các
nguồn gien trong từng lĩnh vực vẫn chủ yếu là các

quy định có tính chất chung, tính nguyên tắc, chưa
được cụ thể hóa ở mức cần thiết để đảm bảo tính
thống nhất và hiệu quả trong thi hành.
- Vấn đề bảo vệ kiến thức bản địa trong các văn bản
pháp luật được đề cập khá mờ nhạt, chưa có quy định
chi tiết hay hướng dẫn cụ thể để triển khai trên thực
tế.
- Nguồn gien di truyền cây thuốc ở Việt Nam có giá
trị rất lớn. Song cho đến nay trong các luật, pháp lệnh
chỉ có một vài quy định có tính chất chủ trương,
nguyên tắc, chưa có văn bản nào của Chính phủ, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội hay Quốc hội điều chỉnh
riêng, toàn diện và chi tiết vấn đề khai thác, sử dụng,
bảo tồn cho phù hợp với đặc thù của lĩnh vực này,
đặc biệt phải phù hợp với yêu cầu bảo vệ và khai thác
tri thức y học cổ truyền của các dân tộc sống trên
lãnh thổ Việt Nam.
- Vấn đề bảo hộ quyền tác giả của các tổ chức, cá
nhân tạo giống mới chưa được quy định đầy đủ để
khuyến khích và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các tác giả, chỉ dừng ở quy định chung.
- Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với
các giống cây mới – sản phẩm của công nghệ sinh
học, và đối với cả kiến thức bản địa, vì nhiều lý do
khác nhau, chưa được đề cập đầy đủ trong các văn
bản pháp luật hiện hành. Đây là một trong những
khiếm khuyết lớn của pháp luật Việt Nam hiện hành
trong lĩnh vực bảo vệ các nguồn gien và kiến thức
bản địa.
- Trong một số lĩnh vực, pháp luật đã có quy định gắn

lợi ích của cộng đồng, của tổ chức, cá nhân với việc
bảo vệ đa dạng sinh học như bảo vệ và phát triển
rừng, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, bảo vệ
và kiểm dịch thực vật v.v…. Có thể nói rằng, việc
chia sẻ lợi ích cho cộng đồng địa phương, cho các tổ
chức, cá nhân liên quan chưa thỏa đáng do pháp luật
không quy định rõ.
2. Quan điểm và giải pháp điều chỉnh pháp luật đối
với việc bảo vệ, tiếp cận và chia sẻ lợi ích về nguồn
gien sinh vật ở Việt Nam
2.1. Quan điểm:
Những điều đã trình bày ở mục 1 cho thấy hệ thống
các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ đa
dạng sinh học, bảo vệ các nguồn gien tuy đã được
hình thành, nhưng còn có nhiều khiếm khuyết và bất
cập. Chính những khiếm khuyết và bất cập đó đã hạn
chế hiệu quả của các hoạt động bảo vệ đa dạng sinh
học, bảo vệ các nguồn gien sinh vật.
Để góp phần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt
động bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ các nguồn gien,
cần phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống các quy
định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ đa dạng sinh
học, bảo vệ các nguồn gien sinh vật.
Theo chúng tôi, việc hoàn thiện hệ thống các quy
định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ đa dạng sinh
học, bảo vệ các nguồn gien sinh vật cần quán triệt
một số quan điểm cơ bản sau đây:
- Phải bảo đảm các quy định của pháp luật có tính
thống nhất, đầy đủ, đồng bộ, hợp lý, rõ ràng, cụ thể
và phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực.

- Hoạt động quản lý nhà nước phải phù hợp với cơ
chế thị trường, yêu cầu của quá trình thương mại hóa.
- Gắn tối đa lợi ích của từng cấp, từng ngành, từng
địa phương, từng tổ chức, từng cá nhân với hoạt động
bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ các nguồn gien thực
vật trên cơ sở xử lý hài hòa và thỏa đáng mối quan hệ
giữa lợi ích nhà nước, lợi ích cộng đồng địa phương,
lợi ích của tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ đa dạng
sinh học, bảo vệ các nguồn gien thực vật. Về bản
chất, đây là vấn đề chia sẻ lợi ích thỏa đáng cho các
cộng đồng, tổ chức, cá nhân liên quan nhằm nâng cao
hiệu quả công tác bảo vệ đa dạng sinh học nói chung
và bảo vệ sự phong phú các nguồn gien và đặc biệt là
bảo vệ kiến thức bản địa.
- Bảo đảm tính hiệu lực và hiệu quả thực tế của hệ
thống các quy định của pháp luật; xử lý thật nghiêm
khắc các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ đa
dạng sinh học, bảo vệ các nguồn gien và cả kiến thức
bản địa.
- Bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia đồng thời
nghiêm túc thực hiện các cam kết quốc tế về đa dạng
sinh học và bảo vệ môi trường.
2.2. Các căn cứ của sự điều chỉnh pháp luật đối với
việc bảo vệ, tiếp cận và chia sẻ lợi ích từ các nguồn
gien:
Sự điều chỉnh pháp luật đối với việc bảo vệ, tiếp cận
và chia sẻ lợi ích từ các nguồn gien ở Việt Nam cần
dựa vào những căn cứ sau đây:
- Thực trạng pháp luật về khai thác, bảo vệ nguồn
gien Việt Nam. Mỗi một quốc gia có một truyền

thống lập pháp riêng vì vậy việc xây dựng pháp luật
về tiếp cận và chia sẻ lợi ích từ việc sử dụng nguồn
gien cần xuất phát từ cách thức xây dựng pháp luật ở
Việt Nam và hiện trạng điều chỉnh pháp luật về khai
thác, quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn gien thực vật.
- Các quy định có tính chất nguyên tắc trong các công
ước quốc tế, trong đó quan trọng nhất là Công ước
Đa dạng sinh học (CBD) và Hiệp định WTO về
thương mại liên quan đến khía cạnh của sở hữu trí tuệ
(TRIPS). Hiện nay Việt Nam đang trong tiến trình
đàm phán gia nhập WTO (Tổ chức Thương mại thế
giới). Việt Nam chỉ có thể gia nhập WTO với điều
kiện các điều khoản thương mại thể hiện trong các
hiệp định thương mại khác nhau đi kèm với hiệp định
WTO phải trở thành nghĩa vụ đối với nước ta.
Việt Nam ta đã là thành viên của Công ước Đa dạng
sinh học, nhưng cho đến nay chưa có văn bản quy
phạm pháp luật nào tương đối hoàn chỉnh để thực
hiện Công ước này. Các văn bản đã có mới chỉ tập
trung vào việc bảo tồn đa dạng sinh học, trong khi đó
Công ước Đa dạng sinh học nêu ra ba mục tiêu: 1/
Bảo tồn đa dạng sinh học; 2/ Sử dụng lâu bền tài
nguyên; 3/ Chia sẻ trung thực và công bằng lợi ích có
được từ việc sử dụng tài nguyên gien.
- Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng, phát triển pháp
luật quốc gia về tiếp cận các nguồn gien1. Trong bối
cảnh nước ta chưa có nhiều kinh nghiệm về xây dựng
pháp luật tiếp cận nguồn gien thực vật thì việc học
tập kinh nghiệm của các nước là điều rất cần thiết.
Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về tiếp cận nguồn

gien có ý nghĩa đối với chúng ta không chỉ về cách
tiếp cận mà còn gợi ý những giải pháp về xây dựng
và phát triển pháp luật quốc gia về tiếp cận nguồn
gien.
2.3. Các giải pháp điều chỉnh pháp luật đối với việc
bảo vệ, tiếp cận và chia sẻ lợi ích từ các nguồn gien:
Trên cơ sở các quan điểm và căn cứ đã được phân
tích ở mục trên, chúng tôi cho rằng việc xây dựng và
phát triển pháp luật về tiếp cận nguồn gien sinh vật ở
Việt Nam cần song song tiến hành theo hai hướng:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật
hiện hành để thể hiện rõ các vấn đề về tiếp cận nguồn
gien; thứ hai, xây dựng một văn bản pháp luật chung
về tiếp cận nguồn gien sinh vật ở Việt Nam. Về hình
thức văn bản, theo chúng tôi nên ban hành văn bản
này dưới hình thức pháp lệnh do Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thông qua.
Tại sao chúng tôi đặt vấn đề: Đồng thời cần tiến hành
hai loại công việc: Sửa đổi, bổ sung một số văn bản
pháp luật và xây dựng một văn bản pháp luật chung
về tiếp cận nguồn gien? Kiến nghị này được đưa ra
dựa vào những căn cứ sau đây:
- Thực tiễn xây dựng pháp luật ở Việt Nam, chẳng
hạn, ở nước ta trong lĩnh vực bảo vệ môi trường pháp
luật cần được xây dựng và phát triển theo hai hướng
chủ yếu: 1/ Ban hành một văn bản quy phạm pháp
luật chung về bảo vệ môi trường (Luật bảo vệ môi
trường năm 1993); 2/ Đưa các yêu cầu về bảo vệ môi
trường vào trong các văn bản pháp luật (ví dụ, Luật
Bảo vệ và phát triển rừng, Luật Khoáng sản, Luật Tài

nguyên nước…).
- Trong việc tiếp cận các nguồn gien sinh vật và chia
sẻ lợi ích từ việc sử dụng nguồn gien rất cần một văn
bản chung đưa ra các khái niệm, các quy định có tính
nguyên tắc về tiếp cận nguồn gien và chia sẻ lợi ích.
Việc ban hành một văn bản chuyên về tiếp cận nguồn
gien chứng tỏ Nhà nước ta đã thấy rõ tầm quan trọng
của vấn đề này. Đồng thời nó cũng giải quyết những
vấn đề vừa có tính nguyên tắc vừa riêng biệt của lĩnh
vực tiếp cận và chia sẻ lợi ích từ việc sử dụng nguồn
gien.
Sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật hiện hành
để thể hiện rõ các vấn đề về tiếp cận nguồn gien thực
vật ở Việt Nam.
- Trước mắt nên sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Bảo vệ
và Phát triển nguồn lợi thủy sản, Luật Bảo vệ và Phát
triển rừng để làm rõ hơn, đầy đủ hơn các quy định về
bảo vệ các nguồn gien thực vật, các quy định về bảo
vệ kiến thức bản địa trong từng lĩnh vực này.
- Khẩn trương hoàn chỉnh để trình Thủ tướng Chính
phủ ký ban hành Quy chế quản lý an toàn các sinh
vật đã biến đổi gien và sản phẩm của chúng.
- Nghiên cứu soạn thảo trình cơ quan có thẩm quyền
văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ khai thác các
cây thuốc và tri thức y học cổ truyền. Không thể chỉ
đặt vấn đề bảo vệ và khai thác tài nguyên cây thuốc
mà không bảo vệ và khai thác tri thức y học cổ
truyền. Đây là hai vế của một vấn đề không thể tách
rời nhau.
Xây dựng văn bản pháp luật chung về bảo vệ, tiếp

cận và chia sẻ lợi ích đối với nguồn gien sinh vật ở
Việt Nam.
Theo chúng tôi, văn bản pháp luật chung về bảo vệ,
tiếp cận và chia sẻ lợi ích đối với nguồn gien sinh vật
ở Việt Nam cần có những nội dung chủ yếu sau đây:
1/ Các nguyên tắc về bảo vệ, tiếp cận và chia sẻ
nguồn gien sinh vật; 2/ Các quy định về bảo vệ, chia
sẻ lợi ích về nguồn gien thực vật (điều kiện tiếp cận,
chủ thể cung cấp và chủ thể sử dụng, thông tin về
nguồn gien, cho phép tiếp cận, mục đích cung cấp và
tiếp cận nguồn gien, kiểm tra, giám sát việc sử dụng
nguồn gien); 3/ Quyền và nghĩa vụ của người dân bản
địa và cộng đồng dân cư địa phương trong việc tiếp
cận và chia sẻ lợi ích nguồn gien sinh vật; 4/ Quản lý
nhà nước về bảo vệ, tiếp cận và chia sẻ nguồn gien
sinh vật; 5/ Hợp tác quốc tế về bảo vệ, tiếp cận và
chia sẻ nguồn gien sinh vật.·

1 Theo Giáo sư Lê Quý An, có thể nói đến 4 phương
thức xây dựng pháp luật về tiếp cận các nguồn gien
sinh vật: 1/ Dựa vào các luật khung về môi trường
(Kênya, Uganđa…);
2/ Dựa vào luật khung về phát triển lâu bền, bảo tồn
thiên nhiên hay đa dạng sinh học (Côtstarica,
Mêhicô, Pêru…);
3/ Ban hành luật hoặc nghị định riêng về tiếp cận tài
nguyên gien (thí dụ: Philippin);
4/ Sửa đổi các văn bản pháp luật hiện hành để thể
hiện rõ hơn các vấn đề về tiếp cận tài nguyên gien và
chia sẻ lợi ích (Nêgiêria, Hoa Kỳ). (Xem: Lê Quý

An, Pháp luật tiếp cận tài nguyên di truyền: kinh
nghiệm nước ngoài và khả năng ứng dụng ở Việt
Nam, Hội thảo về pháp luật tiếp cận tài nguyên gien,
TP. HCM, 1 – 2/3/2001, tr. 2-3).

×