Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

STRESS VÀ CÁC RỐI LOẠN LIÊN QUAN ĐẾN STRESS pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.48 KB, 16 trang )

STRESS VÀ CÁC RỐI LOẠN
LIÊN QUAN ĐẾN STRESS

I- KHÁI NIỆM CHUNG VỀ STRESS
- Stress là một thuật ngữ tiếng Anh được dùng trong vật lý học để chỉ một sức nén
mà vật liệu phải chịu đựng.
- Đến thế kỷ thứ 17 stress từ ý nghĩa sức ép trên vật liệu được chuyển sang dùng
cho người với ý nghĩa một sức ép hay một xâm phạm nào đó tác động vào con
người gây ra một phản ứng căng thẳng.
- Hiện nay stress là một thuật ngữ được dùng rộng rãi. Tuy nhiên nhiều tác giả sử
dụng với những sắc thái khác nhau. Theo Hans Selye: "Stress là một phản ứng
sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước những tình huống căng thẳng".
Theo J.Delay: "Stress là một trạng thái căng thẳng cấp diễn của cơ thể buộc phải
huy động các khả năng phòng vệ để đối phó với một tình huống đang đe doạ".
- Hiểu khái niệm chung về stress cho cả hai ý nghĩa bao gồm:
1. Tình huống stress dùng để chỉ tác nhân xâm phạm hay kích thích gây ra stress
(stresseur).
2. Đáp ứng stress dùng để chỉ trạng thái phản ứng với stress (reaction).
- Stress bình thường là một tình huống stress nhẹ, đối tượng chịu đựng được và
phản ứng thích nghi tốt. Đối tượng thu xếp được cân bằng mới thoả đáng.
- Stress trở nên bệnh lý khi tình thuống stress xuất hiện bất ngờ và quá mạnh hoặc
không mạnh nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần vượt quá khả năng chịu đựng của đối
tượng gây ra các rối loạn cơ thể, tâm thần và ứng xử gọi là các rối loạn liên quan
stress (RLLQS).
* Cơ chế gây bệnh của stress:
Hàng ngày, hàng giờ mỗi cá nhân trong xã hội phải chịu tác động của nhiều loại
stress. Ví dụ: điều kiện sống khó khăn, làm việc quá tải và căng thẳng, thất vọng
trong sự nghiệp, mâu thuẫn trong gia đình, vợ chồng, con cái, mâu thuẫn với hàng
xóm, với đồng nghiệp v.v
Tuy nhiên stress có gây bệnh hay không còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố phức
tạp. Có hai nhân tố chính là: đặc điểm gây bệnh của stress và sức chống đỡ của


nhân cách.
a) Đặc điểm gây bệnh của stress:
- Stress gây bệnh thường là những stress mạnh và cấp diễn (người thân chết đột
ngột, tổn thất về kinh tế nặng nề). Có những stress tuy không mạnh và cấp diễn
nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần gây căng thẳng nội tâm cũng có khả năng gây bệnh.
- Thành phần gây bệnh của stress là ý nghĩa thông tin chứ không phải là cường độ
của stress (ý nghĩa gây bệnh của đám cháy không phải là cường độ ngọn lửa mà là
giá trị của tài sản bị thiêu huỷ và hậu quả cụ thể đối với mỗi cá nhân).
- Những stress gây xung đột nội tâm làm cho cá nhân không tìm được lối thoát
cũng thường gây bệnh (một đôi vợ chồng mâu thuẫn gay gắt và kéo dài nhưng
không thể ly dị được vì đang còn lo nghĩ về những đứa con).
- Stress đập vào cá nhân thường gây bệnh nhiều hơn stress đập vào một cộng đồng
(cơ chế chia sẻ gánh nặng, nỗi buồn).
b) Sức chống đỡ của nhân cách:
- Nếu đối tượng nhận thức tình huống stress không nguy hiểm và có thể chống đỡ
được thì sẽ có một phản ứng thích hợp bình thường. Ngược lại nếu đối tượng nhận
thức tình huống là nguy hiểm và không thể chống đỡ được thì sẽ xuất hiện một
phản ứng bệnh lý.
- Cảm xúc không ổn định, lo âu, căng thẳng, né tránh cũng là những nét nhân cách
dễ bị tổn thương.
- Cùng một phản ứng stress tuỳ theo phương thức phản ứng của đối tượng mà có
thể biểu hiện bệnh lý khác nhau: lo âu, trầm cảm, khó thở, rối loạn tiêu hoá, cao
huyết áp v.v
- Những nét nhân cách sau đây dễ bị tổn thương: dễ xúc động, khó làm chủ bản
thân, bi đát các tình huống stress; đánh giá cao các khó khăn và đánh giá thấp bản
thân.
- Những nét nhân cách sau đây có sức chống đỡ với stress: sớm làm chủ được tình
huống stress, có ý chí và tinh thần trách nhiệm, có khả năng thích nghi, mềm dẻo.
c) Môi trường và nhân cách tác động qua lại cảm ứng lẫn nhau rất mật thiết, khi
cảm ứng những nét tiêu cực có thể gây ra trạng thái bệnh lý tập thể, khi cảm ứng

những nét tích cực thì mỗi nhân cách trong tập thể lại được tăng thêm sức mạnh để
chống đỡ stress.
d) Cơ thể khoẻ mạnh hỗ trợ tốt cho nhân cách chống đỡ với stress.
II- QUAN NIỆM VÀ PHÂN LOẠI CÁC RỐI LOẠN LIÊN QUAN ĐẾN
STRESS
Người đầu tiên đưa ra thuật ngữ tâm căn (neurosis, nevrose) là William Cullen
(1769). Neurosis của Cullen bao gồm nhiều trạng thái bệnh lý khác nhau, có chung
một chẩn đoán âm tính là: không có sốt, không có tổn thương khu trú. Nó là biểu
hiện của rối loạn hệ thần kinh gây trở ngại chủ yếu đến cảm giác và vận động.
Thuật ngữ neurosis được nhiều nhà tâm thần học sử dụng, nhưng mỗi tác giả lại
đưa ra những quan niệm riêng của mình.
1. Quan niệm và phân loại neurosis của học thuyết phân tâm (Freud):
Xuất phát từ lý thuyết về ưu thế của vô thức trong hoạt động tâm thần với thành
phần chủ yếu là bản năng tình dục. Freud chia ra 2 loại neurosis chính: Neurosis
hiện thời và neurosis chuyển di (tức là chuyển từ những xung đột vô thức thành
những triệu chứng neurosis). Freud còn đưa ra loại neurosis tự yêu, khác với
neurosis chuyển di ở chỗ xung đột vô thức không chuyển di được, cố định vào bản
ngã.
Học thuyết phân tâm về neurosis ảnh hưởng rất lớn đến quan niệm của các nhà
tâm thần học trên thế giới, đặc biệt ở các nước phương Tây trong gần nửa đầu của
thế kỷ 20.
2. Quan niệm và phân loại neurosis của học thuyết Paplov:
Paplov cho rằng neurosis xuất hiện do sự mất thăng bằng của hai quá trình hưng
phấn và ức chế trong hoạt động của vỏ não, trên những loại hình thần kinh đặc
biệt: tâm căn Hysteria trên loại hình thần kinh nghệ sĩ yếu, tâm căn suy nhược tâm
thần (Psychasthenia) trên loại hình thần kinh lý trí yếu, tâm căn suy nhược trên
loại hình thần kinh trung gian yếu.
Học thuyết Paplov về neurosis có ảnh hưởng lớn đến các nhà tâm thần học ở các
nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa cũ trong gần nửa thế kỷ trước đây.
Ở nước ta, trước khi có ICD.10, chủ yếu áp dụng cách phân loại của Liên Xô cũ và

các rối loạn có liên quan stress được áp dụng trong lâm sàng tâm thần học gồm có:
- Tâm căn suy nhược
- Tâm căn Hysteria
- Tâm căn ám ảnh
- Tâm căn suy nhược tâm thần
- Các bệnh cơ thể tâm sinh
- Các trạng thái loạn thần phản ứng.
3. Quan niệm và phân loại neurosis của học thuyết tập tính hay hành vi:
- Dựa vào những thành công trong thực nghiệm về neurosis, học thuyết tập tính
cho rằng các triệu chứng neurosis là những tập tính đã bị thâm nhiễm trong quá
trình đáp ứng lại những kích thích của môi trường trong cơ chế khái quát hoá kích
thích ban đầu, các tập tính này có thể làm mất đi bằng những phương pháp khử tập
nhiễm.
- Học thuyết tập tính không đưa ra cách phân loại riêng về neurosis, không quan
tâm đến cơ chế bệnh nguyên, bệnh sinh, chỉ quan tâm đến cơ chế tập nhiễm và các
phương pháp khử tập nhiễm.
Học thuyết tập tính đã chiếm ưu thế ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở Mỹ
trong cuối thế kỷ 20.
4. Quan niệm và phân loại neurosis của ICD.8:
ICD.8 vốn dùng thuật ngữ neurosis và quan niệm truyên thống về neurosis. Trong
bảng phân loại, chủ yếu có 7 loại neurosis (xem bảng 1: so sánh ICD.8 với ICD.9)

5. Quan niệm và phân loại neurosis của ICD.9:
- ICD.9 bắt đầu thay thuật ngữ neurosis bằng từ rối loạn tâm căn hoặc bằng trạng
thái (trạng thái lo âu, trạng thái ám ảnh).
- ICD.9 đã bắt đầu theo hướng mô tả triệu chứng thuần tuý không đề cập đến các
quan niệm khác nhau nằm sau từ neurosis.
- ICD.9 vẫn giữ 7 loại neurosis truyền thống theo mã 300.
- ICD.9 chưa có các tiêu chuẩn chẩn đoán kèm theo các rối loạn hay trạng thái của
neurosis và tập hợp các rối loạn tâm căn vào một chương riêng, mã 300. (xem

bảng 1: so sánh ICD.8 với ICD.9).
6. Quan niệm và phân loại neurosis của ICD.10:
Các tác giả biên soạn tập ICD.10 thận trọng hơn trong việc sử dụng thuật ngữ,
không gọi các rối loạn do stress mà chỉ gọi là các rối loạn có liên quan đến stress
(RLLQS).
Trong ICD.10 các rối loạn có liên quan đến stress được phân loại ở các chương
F4, F5, F9 mà chủ yếu ở chương F4.
a) Chương F4, ICD.10:
- Các rối loạn bệnh tâm căn (neurosis) như lo âu, ám ảnh, phân ly v.v
Trong các rối loạn tâm căn này, nhân cách có vai trò quan trọng hơn stress.
- Các rối loạn dạng cơ thể: ICD.10 dùng thuật ngữ rối loạn dạng cơ thể chỉ một số
các rối loạn trước kia gọi là rối loạn tâm thể (Psycho-somatic).
Đó là:
· Các rối loạn cơ thể hoá F45.0
· Các rối loạn dạng cơ thể không biệt định F45.1
· Các rối loạn chức năng thần kinh tự trị dạng cơ thể F45.3
. Các phản ứng với stress trầm trọng (F43.0)
Các phản ứng này bao gồm:
· Phản ứng stress cấp F43.0
· Rối loạn stress sau sang chấn F43.1
· Các rối loạn sự thích ứng F43.2
Đây là những rối loạn có liên quan chặt chẽ nhất và trực tiếp nhất với stress. Các
đặc điểm cơ bản của các phản ứng này là: Các rối loạn làm phát sinh do hậu quả
trực tiếp của stress, stress gây bệnh là những stress trầm trọng hoặc tác động liên
tục; rối loạn không xảy ra nếu không có tác động của stress.
b) Chương F5, ICD.10:
Các rối loạn hành vi và cảm xúc khởi phát ở trẻ em và thanh thiếu niên có liên
quan đến stress: rối loạn hành vi do cảm xúc, rối loạn lo âu - ám ảnh, không nói
chọn lọc, rối loạn vận động Tic, đái dầm, nói lắp, rối loạn ăn uống v.v Một số
trong các rối loạn này trước kia gọi là các bệnh tâm căn đơn chứng ở trẻ em.

Các rối loạn này có liên quan nhiều đến đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em như: nhân
cách chưa hoàn chỉnh, sức chống đỡ chưa vững vàng, khó kiềm chế bản thân, dễ bị
ám thị, dễ bị tổn thương, lo âu sợ hãi trước kích thích lạ. Những rối loạn này ở trẻ
em khó đánh giá vai trò của stress trong chơ chế sinh bệnh.
* ICD.10 khác với ICD.9 ở chỗ:
- ICD.10 không những bỏ thuật ngữ neurosis mà còn bỏ cả ranh giới cổ điển của
neurosis, cho hoà nhập các rối loạn tâm căn với các rối loạn tâm sinh khác.
- ICD.10 không tuân theo các mã của ICD.9 mà dùng một hệ thống mã khác.
- ICD.10 đưa thêm vào chương F4 nhiều rối loạn chưa được ghi trong ICD.9 và
thêm các mục nhỏ. Một số rối loạn tâm căn trong ICD.9 thành những mục riêng
nhưng trong ICD.10 trở thành những rối loạn thứ yếu, những mục nhỏ nằm trong
mục các rối loạn khác.
- Các rối loạn có liên quan đến stress trong ICD.10 được xếp vào các chương mục
phần F của ICD.10 và mỗi rối loạn đều kèm theo những tiêu chuẩn chẩn đoán chặt
chẽ.
Ở nước ta ngành Tâm thần thống nhất trong cả nước lấy ICD.10 làm cơ sở cho
tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh ở bệnh viện cũng như ở cộng đồng.
III- ĐIỀU TRỊ CÁC RỐI LOẠN LIÊN QUAN ĐẾN STRESS:
A. Nguyên tắc chung:
Stress gây nhiều rối loạn sinh học, thần kinh, tâm thần và cơ thể cho nên phải điều
trị toàn diện và kết hợp nhiều liệu pháp lấy liệu pháp tâm lý là chủ yếu:
+ Liệu pháp tâm lý thích hợp
+ Điều trị bằng các thuốc hướng thần
+ Vitamine, chất khoáng
B. Điều trị cụ thể:
1. Điều trị bằng liệu pháp tâm lý:
- Liệu pháp thư giãn: nhằm tạo ra một đáp ứng sinh lý để đối kháng lại phản ứng
stress. Thư giãn có thể làm giảm nhịp tim, nhịp thở, giảm mức tiêu thụ oxy, giảm
huyết áp, giảm lưu lượng máu nội tạng có lợi cho các cơ ở ngoại biên.
Thư giãn cũng làm giảm căng thẳng của cơ trơn và cơ vòng.

- Liệu pháp tập tính: Điều trị tập tính bao gồm việc đánh giá các rối loạn chức
năng, đề xuất các mục tiêu và phương pháp điều trị đặc biệt.
a. Điều chỉnh lại cách sống: phải làm cho đối tượng ý thức rõ rệt lợi ích của sự cân
bằng hài hoà giữa hoạt động và thư giãn để tăng cường sức đề kháng với stress.
b. Khẳng định bản thân: Giúp bệnh nhân làm chủ được tình huống, cho bệnh nhân
tập đối phó lại với các tình huống stress.
- Liệu pháp nhận thức: chú trọng đến cách đánh giá chủ quan của người bệnh về
tình huống stress, đặc biệt xử lý thông tin nhằm xác định rõ hoàn cảnh đưa đến
tình huống stress, đồng thời đánh giá khả năng đương đầu với stress của người
bệnh một khi đã xác định các sai lệch chủ yếu, để tìm cách điều chỉnh chung.
Mục tiêu là chỉnh đốn lại các nhận thức giúp bệnh nhân tiến bộ xử lý các thông tin
trước một tình huống stress, làm cho quá trình thích nghi tốt hơn tức là tăng cường
khả năng đương đầu với stress.
2. Điều trị bằng các thuốc hướng thần:
- Các thuốc giải lo âu: dùng để điều trị dự phòng các trường hợp lo âu xuất hiện
sớm do các tình huống stress gây ra. Với các phản ứng stress cấp, thuốc giải lo âu
làm giảm cường độ và rút ngắn thời gian biểu hiện stress. Với các stress kéo dài
thuốc giải lo âu làm giảm các triệu chứng do dó giúp cải thiện khả năng giao tiếp.
- Các thuốc chống trầm cảm: dùng để điều trị dự phòng nhằm tránh các cơn stress
tái phát dưới dạng gia tăng lo âu, còn được dùng để phòng ngừa một số phản ứng
ám ảnh sợ của stress. Trong stress bệnh lý kéo dài xuất hiện trầm cảm rõ rệt, dùng
thuốc chống trầm cảm ngay từ khi chúng vừa mới xuất hiện.
- Các thuốc chẹn beta: điều trị dự phòng các cơn lo âu đến trước của stress, các
thuốc chẹn beta có tác dụng làm giảm các triệu chứng thần kinh thực vật của tim,
do đó tránh hay giảm một cách gián tiếp lo âu tâm thần.
3. Các thuốc đặc hiệu:
Ví dụ các thuốc chống loét trong các chứng loét dạ dày do stress.
4. Các thuốc bổ sung khoáng chất và vitamin:
+ Magnesium (Mg): lợi ích của Mg trong việc cân bằng hoạt động của các nơron
đặc biệt trong hoạt động của các acid amin gây kích thích.

+ Calcium (Ca): tham gia vào các trao đổi ion khi co cơ và giãn cơ cũng như trong
quá trình kiểm soát kích thích thần kinh cơ.
+ Các vitamin: đặc biệt là vitamin nhóm B tham gia vào các giai đoạn chuyển hoá
năng lượng, vitamin C cũng giữ vai trò tổng hợp cortisol. Vitamin còn tăng khả
năng sức đề kháng của cơ thể.
5. Glucocorticoid:
Làm tăng khả năng đề kháng sinh lý của chủ thể đối với stress.
IV- PHÒNG TRÁNH CÁC RỐI LOẠN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN STRESS VÀ
CÁC TÁC HẠI CỦA NÓ:
1. Môi trường và các hoạt động xã hội luôn luôn phát sinh ra những tình huống
stress. Vì vậy cần cải thiện điều kiện cải thiện sinh hoạt và lao động. Cần loại trừ
tác động của stress trường diễn, cải thiện mối quan hệ giữa các thành viên trong
gia đình, tập thể, cơ quan, giảm kích thích xấu trong đời sống hàng ngày. Lao
động trí óc xen kẽ với lao động chân tay, phổ biến rộng rãi vệ sinh phòng bệnh
tâm thần để các thành viên trong cộng đồng biết cách đảm bảo môi trường ít gây
ra tình huống stress.
2. Vai trò của nhân cách rất quan trọng trong việc hình thành và phát triển các rối
loạn liên quan đến stress. Stress có gây ra bệnh hay không phụ thuộc chủ yếu vào
nhân cách. Một nhân cách mạnh thì sang chấn tâm thần ác liệt đến đâu cũng mất
tính gây bệnh, ngược lại một nhân cách yếu có thể bị bệnh dưới tác dụng của một
sang chấn nhẹ. Vì vậy cần có biện pháp bồi dưỡng nhân cách, tuyên truyền giáo
dục cho các bậc cha mẹ biết cách giáo dục con cái từ bé để hình thành một nhân
cách vững mạnh có nhiều tính cách tốt như: chịu đựng gian khổ, kìm chế bản thân,
có ý chí và tinh thần trách nhiệm, có khả năng thích nghi mềm dẻo.
3. Bồi dưỡng cơ thể khoẻ mạnh để tăng sức đề kháng của cơ thể chống đỡ với
stress. Vì vậy hàng ngày cần tập thể dục, thể thao, ăn uống điều độ, điều hoà hợp
lý giữa lao động và giải trí để luôn luôn khoẻ mạnh về thể chất và tâm thần.
V- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC RỐI LOẠN LIÊN QUAN ĐẾN
STRESS Ở NƯỚC TA:
1. Những khó khăn và hạn chế:

- Bệnh học tâm thần các RLLQS là rất phức tạp, triệu chứng học xen kẽ lẫn nhau
và rất khó tách biệt.
- Bệnh nhân có các RLLQS phần lớn ban đầu thường đến khám và điều trị tại các
cơ sở lâm sàng các chuyên khoa khác, khi đến chuyên khoa tâm thần thì đã quá
muộn, điều trị gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao.
- Các trắc nghiệm tâm thần và các liệu pháp tâm lý chưa được áp dụng rộng rãi
trong các cơ sở lâm sàng tâm thần học nước ta.
- Kiến thức và kỹ năng áp dụng các liệu pháp tâm lý của các thầy thuốc chuyên
khoa còn yếu kém. Vì vậy trong thực hành lâm sàng thường thích dùng thuốc, ngại
sử dụng các liệu pháp tâm lý.
- Điều tra dịch tễ các rối loạn có liên quan đến stress cũng gặp khó khăn vì tính
cách người Việt Nam không muốn cởi mở những vấn đề nội tâm cho người khác,
đặc biệt vấn đề về sức khoẻ tâm thần.
2. Những thuận lợi bước đầu:
- Mạng lưới ngành tâm thần phát triển rộng khắp trong cả nước, đội ngũ làm công
tác chăm sóc sức khoẻ tâm thần ngày càng được nâng cao cả về số lượng và chất
lượng.
- Việc tiếp cận và giao lưu với các nhà khoa học trên thế giới và việc áp dụng bảng
phân loại quốc tế ICD.10 thông qua các cuộc hội thảo, trao đổi chuyên môn, tài
liệu và giảng dạy đã nâng cao dần nhận thức về bệnh học tâm thần, về kỹ năng áp
dụng các trắc nghiệm tâm lý.
- Những kết quả nghiên cứu bước đầu về sơ kết lâm sàng, chăm sóc sức khoẻ ban
đầu, về điều trị đã mở ta những triển vọng mới cho sự phát triển lĩnh vực phức tạp
này ở nước ta.

×