Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Nhà nước quy định các kế hoạch đề hoàn thiện và triển khai các chính sách về tiền tệ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.71 KB, 47 trang )

Lời mở đầu !
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên đất nước ta đang diễn ra sôi động quá trình
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải
nghiên cứu một cách có hệ thống nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế theo cơ chế mới,
trong đó một lĩnh vực có vị trí hết sức quan trọng được coi là huyết mạch trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững đó là lĩnh vực Tiền tệ - Ngân hàng.
Ở nước ta, với tư cách là thiết chế đầu não của toàn bộ hệ thống tài chính và ngân
hàng. Ngân hàng Trung ương là cơ quan chủ chốt, thiết kế và vận hành các công cụ
Chính sách tiền tệ phục vụ cho mục tiêu điều tiết vĩ mô trong từng thời kỳ. Kinh
nghiệm phát triển kinh tế của các nước đã chỉ ra rằng, mỗi bước thăng trầm của nền
kinh tế đều có nguyên nhân sâu xa gắn liền với Chính sách tiền tệ và hoạt động của
Hệû thống ngân hàng.
Với nhận thức trên, bằng những kiến thức tiếp nhận trong quá trình học tập cũng
như nghiên cứu thêm một số tài liệu có liên quan, Em đã lựa chọn và đi sâu vào
phân tích đề tài: “CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ PHƯƠNG THỨC VẬN HÀNH
CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM HIỆN NAY ” làm đề án môn học năm 3 của mình. Đề án gồm 2 phần
chính :
PHẦN 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA
PHẦN 2. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM
Dù đã cố gắng nhiều trên cơ sở nỗ lực của bản thân cũng như sự giúp đỡ tận tình
của Giáo viên hướng dẫn, ThS. Trịnh Thị Trinh. Song, do đề tài là một vấn đề lớn,
trình độ hiểu biết lại có hạn nên đề án cũng khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế
nhất định.
Kính mong được sự chỉ bảo của thầy cô và ý kiến đóng góp của các bạn để nội dung
đề án được hoàn thiện hơn.
PHẦN 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA
I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1. Khái niệm và vai trò của CSTT


Chính sách tiền tệ (CSTT) là một bộ phận trong tổng thể hệ thống Chính sách Kinh
tế của Nhà nước, do Ngân hàng Trung Ương (NHTW) thực hiện để thực hiện việc
quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, nhằm đạt tới những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất
định trong từng thời kỳ nhất định.
Theo nghĩa rộng: CSTT là Chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền
kinh tế quốc dân nhằm tác động đến mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững
sức mua của đồng tiền và ổn định giá cả của hàng hóa.
Theo nghĩa thông thường: CSTT là Chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung
ứng tăng thêm trong thời kỳ tới phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ
số lạm phát nếu có.
Theo điều 2 luật NHNNVN: “CSTT quốc gia là một bộ phận của Chính sách Kinh
tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo ddamr quốc phòng an ninh và nâng
cao đời sống nhân dân.
Nhà nước quản lý thống nhất mọi hoạt động của Ngân hàng, có chính sách để động
viên các nguồn lực trong nước là chính, tranh thủ tối đa nguồn lực ngoài nước, phát
huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, đảm bảo vai trò chủ đạo và chủ
lực của các tổ chức tín dụng nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân
hàng, giữ vững định hướng Xã hội chủ nghiã, chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác
và hội nhập quôïc tế, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.”
CSTT có một vai trò cực kỳ quan trọng, thể hiện ở việc nó có nhiệm vụ tác động và
nhiều hướng tạo ra đầu tư, tiết kiệm và ổn định tiền tệ, giá cả. Qua đó góp phần
quan trọng vào sự thành công hay thất bại của cả nền kinh tế. Trên cơ sở 4 mục tiêu
kinh tế vĩ mô, một CSTT được đánh giá là hoàn hảo nếu:
Tốc độ lạm phát: 1% - 3%.
Tăng trưởng kinh tế: 3% - 5%.
Thất nghiệp khoản 4% tổng lao động.
Số dư trong cán cân thanh toán quốc tế chiếm 2% - 3% trên GDP.
2. Hình thức và đối tượng quản lý

Chính sách tiền tệ có 2 hình thức thể hiện cơ bản sau:
CSTT nới lỏng: cung tiền tệ trở nên dồi dào, thừa thải nhằm khuyến khích đầu tư,
mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm và chống suy thoái.
CSTT thắc chặt: nền kinh tế trở nên đắt đỏ, khó khăn do lương cung tiền bị hạn chế
nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển “quá nóng” của nền kinh tế và chống
lạm phát
Đối tượng quản lý của CSTT: chính là khối tiền. Theo quan niệm tiền tệ của cơ chế
thị trường thì tùy theo mục đích khác nhau mà phân chia tiền theo nhiều phương
thức, tiêu chuẩn khác nhau.
Theo chức năng lưu thông, tiền được thể hiện ở khối tiền mặt (M) do NHTW phát
hành gồm: tiền mặt trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế và phi kinh tế cùng với
tiền mặt tồn quỹ tại quỹ tín dụng, kho bạc, quỹ điều hành nghiệp vụ, quỹ dự trữ của
NHTW.
Theo chức năng lưu thông và phương tiện thanh toán, tiền được xác định là khối
tiền M1 = M + những khoản tiền gởi không kỳ hạn bằng bản tệ.
Theo chức năng lưu thông thanh toán và cất trữ thì tiền tệ thể hiện bằng khối tiền
M2 = M1 + những khoản tiền gởi có kỳ hạn bằng bản tệ.
Với tổng số tín dụng thì biểu hiện dưới khối tiền M3 = M2 + những công cụ tài
chính khác.
Dựa trên việc căn cứ vào mục tiêuđiều tiết trong chính sách kinh tế cũng như căn cứ
vào khả năng điều tiết của NHTW, ở Việt Nam đã chọn khối tiền M2 là đối tượng
quản lý của CSTT vì M2 ổn định hơn.
II. MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
Có Trên tổng thể, mục tiêu của Chính sách tiền tệ là điều tiết. Hay nói khác hơn,
mục tiêu của NHTW có thể quy thành hai nhóm là: Mục tiêu tiền tệ và Mục tiêu
kinh tế.
1. Mục tiêu tiền tệ (mục tiêu trực tiếp )
Về phương diện tiền tệ, có 4 mục tiêu mà Chính sách tiền tệ mong muốn đạt tới là:
điều hòa khối tiền tệ, kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền, bảo vệ giá trị quốc nội
của đồng tiền và ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền.

1.1 Điều hòa khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế - xã hội :
Đó là nhằm duy trì mối tương quan Tiền - Hàng được ổn định bằng cách điều hòa
khối lượng tiền tệ. Cơ chế điều hòa dưới hai nội dung chính là Mức độ và Cách luân
chuyển. Có một nguyên tắc tổng quát là nếu mỗi năm nền kinh tế đều tăng trưởng
thì phải tăng khối lượng tiền tệ bằng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế.
Điều hòa khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo tiền và sử dụng tiền
trong hệ thống Ngân hàng hai cấp. Một khả năng kỳ bí của hệ thống Ngân hàng hai
cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để ổn định tiền tệ. Do việc phân chia hệ
thống Ngân hàng thành hai cấp nên có việc phân chia hai loại tiền : tiền Ngân hàng
trung ương và tiền Ngân hàng. Tiền trung ương là tiền do NHTW độc quyền phát
hành. Tiền Ngân hàng (tiền tín dụng) là tiền do các NHTM tạo ra thông qua việc
cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặt biệt là tiền trên các tài khoản thanh toán séc. Nó
được tạo ra như là một sự mở rộng gấp nhiều lần quỹ dự trữ Ngân hàng thông qua
hệ số tạo tiền. Để điều hòa khối lượng tiền tệ NHTW sử dụng các công cụ trực tiếp
và gián tiếp :
Những phương tiện trực tiếp có ảnh hưởng thẳng đối với khối lượng tiền lưu hành.
Những phương tiện trực tiếp bao gồm : Kiểm soát các NHTM, sự bất động hóa
vàng nhập khẩu, hạn chế nhập nội các ngoại tệ
Với những phương tiện gián tiếp có ảnh hưởng không chắc chắn, ảnh hưởng có xãy
ra hay không là tùy ở phản ứng của các đối tượng, bao gồm : Tăng hay giãm lãi suất
chiết khấu, Chính sách thị trường mở Những phương tiện gián tiếp chủ yếu thực
hiện thông qua cơ chế thị trường, mà công cụ chủ yếu trong cơ chế thị trường là lãi
suất.
Như vậy, thông qua cung ứng tiền trung ương và các phương tiện trực tiếp hoặc
gián tiếp, NHTW hoàn toàn làm chủ khả năng điều hòa khối lượng tiền tệ cung ứng
cho nền kinh tế và đó là lẽ sống còn của NHTW.
1.2 Kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền :
Việc kiểm soát khối tiền tệ đơn thuần có nhược điểm là không lưu ý tới tốc độ lưu
hành tiền tệ. Sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến vật giá không phải chỉ có khối tiền (M) mà
còn cả tốc độ lưu hành tiền tệ (V) nửa. Hay nói cách khác, kiểm soát tổng số thanh

toán bằng tiền chính là kiểm soát độ lớn của tiền tệ mà có tính tới tốc độ lưu thông
của tiền (V) để từ đó xác định mức cung tiền phù hợp.
Nhưng việc kiẻm soát M.V. là rất khó bởi vì tùy thuộc vào cách hành động của các
chủ thể kinh tế riêng biệt trong sử dụng tiền tệ. Nó tùy thuộc vào niềm tin của
những người này đối với giá trị tiền tệ, sự tiên liệu của họ về thời cơ kinh tế, những
cơ hội làm ăn sinh lời, khuynh hướng tiêu xài của dân chúng, lòng tin vào chính
sách kinh tế của Nhà nước Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của
ngân hàng, trình độ kỷ thuật công nghệ ngân hàng, mức độ tin tưởng của dân chúng
đối với ngân hàng.
Ơí ínhững nước công nghiệp phát triển, các tiện ích ngân hàng được sử dụng rộng
rãi, các chủ thể kinh tế quen dùng séc trong thanh toán vì vậy NHTW kiểm soát số
chi trả của toàn xã hội qua hệ thống ngân hàng bằng cách tính tổng giá trị séc đưa đi
giao hoán tại NHTW và theo dõi biến chuyển của nó. Còn ở nước ta, việc dùng séc
và các phương tiện thanh toán khác qua ngân hàng còn ít thông dụng, dùng tiền mặt
để chi trả là phổ biến cho nên có một khối tiền mặt rất lớn lưu thông bên ngoài hệ
thống ngân hàng, vượt qua tầm kiểm soát của NHTW. Đó là đầu mối gây bất ổn cho
nền kinh tế một các đột biến. Đó cũng là lý do cần thu hút lượng tiền trong tay dân
cư vào hệ thống ngân hàng dưới hình thức tiền gởi không kỳ hạn và dùng séc để
thanh toán, một yếu tố cần thiết để cho việc thực thi Chính sách tiền tệ được hữu
hiệu.
1.3 Bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền :
Giá trị quốc nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hóa và dịch vụ trong
nước. Sức mua của đồng tiền biến đổi ngược chiều với vật giá. Khi mức vật giá
chung gia tăng, sức mua của đồng tiền giảm và ngược lại. Do đó, bảo vệ giá trị quốc
nội của đồng tiền cũng chính là bảo vệ sức mua của đồng tiền quốc nội. Muốn vậy,
Chính sách tiền tệ phải bảo đảm được mức giá chung ổn định, nghĩa là phải kiểm
soát lạm phát ở một tỷ lệ vừa phải.
Sự ốn định của vật giá là điều cần thiết để mọi người được an tâm, tin tưởng trong
việc tính toán công việc đầu tư, vì đầu tư là cuộc tính toán lâu dài. Vậy, cần có sự
ổn định lâu dài mới khuyến khích sức đầu tư.

Trong trường hợp không duy trì được sự ổn định, một mức vật giá gia tăng hằng
năm ở mức 2 hay 3% là mức gia tăng thuận lợi cho sự phát triển mà Chính sách tiền
tệ có thể chấp nhận được. Lẽ tất nhiên, một Chính sách tiền tệ có thể tác động tới sự
gia tăng năng suất trong hoạt động sản xuất của các chủ thể kinh tế vẩn là điều
mong mỏi.
1.4 Đảm bảo giá trị quốc ngoại của đồng tiền :
Giá trị quốc ngoại của đồng tiền thể hiện thông qua tỷ giá hối đoái. Sự biến động
của tỷ giả hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh tế trong nước tùy theo
mức độ hướng ngoại của nền kinh tiền tệ. Trái lại, mọi biến chuyển về tiền tệ cũng
tác động tới mối tương quan giữa tiền tệ trong nước và tiền tệ nước ngoài Chính
vì vậy, Chính sách tiền tệ phải chú trọng đến việc bảo đảm và ổn định giá trị quốc
ngoại của đồng tiền trong nước.
Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của khối dự trữ ngoại hối, thị trường và
chính sách hối đoái, tình hình giá cả trong nước do đó, một Chính sách tiền tệ
nhằm ổn định kinh tế trong nước cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm ổn định
tỷ giá hối đoái. Có nhiều biện pháp như kiểm soát lạm phát, tăng cung tiền để tăng
trưởng kinh tế, xác định lĩnh vực đầu tư ưu tiên
2. Mục tiêu kinh tế (mục tiêu gián tiếp)
Chính sách tiền tệ còn nhằm đến một mục đích xa hơn, đó là mục tiêu kinh tế, Mục
tiêu kinh tế gồm có hai điểm chính sau đây :
Tăng trưởng kinh tê,ú trong đó có mục tiêu đạt đến mức nhân dụng cao.
Giảm thiểu những thăng trầm trong chu chuyển kinh tế.
2.1 Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của tiền tệ đối với tăng trưởng
kinh tế. Tuy có nhièu ý kiến khác nhau về chi tiết nhưng vẫn xác định được quan
điểm chung về tác động của lãi suất và số cầu tổng hợp của khối tiền tệ trên mức
tăng trưởng đó. Tác động đó thông qua hai ngõ :
Khi khối tiền tệ M tăng, nói chung có tác dụng làm giảm lãi suất, khuyến khích đầu
tư, làm cho tổng sản phẩm xã hội cũng tăng. Nếu tỷ lệ gia tăng của tổng sản phẩm
xã hội lớn hơn nhịp gia tăng dân số sẽ có tăng trưởng kinh tế.

Mặt khác, sự gia tăng khối tiền tệ đưa đến tác dụng làm tăng số cầu tổng hợp : các
thành phần dân cư có tiền nhiều hơn sẽ tiêu thụ nhiều hơn và mãi lực trên thị trường
tăng giúp giải quyết hàng tồn đọng, làm cho các doanh nghiệp gia tăng sản xuất,
hàng hóa lưu thông phân phối với nhịp điệu rộn rịp hơn. Đến một lúc nào đó doanh
nghiệp cũng phải gia tăng thêm việc mua sắm máy móc, thiết bị, nhà xưởng Cả
hai sức cầu về sản phẩm tiêu dùng và về sản phẩm đầu tư đều tăng, từ đó tổng sản
phẩm xã hội cũng tăng. Nếu mức gia tăng đó lớn hơn nhịp gia tăng dân số sẽ có
tăng trưởng kinh tế.
Trong cả hai trường hợp đều có sự gia tăng nhân dụng, vì nhân công, tư bản, kỷ
thuật công nghệ là ba yếu tố quan trọng quyết định số lượng sản xuất, trong đó yếu
tố nhân công được tăng lên trước khi xí nghiệp gia tăng sản xuất. Đối với xí nghiệp
quản lý có hiệu quả, việc tuyển dụng thêm nhân công chỉ xãy ra khi số nhân lực
hiện hữu được tận dụng.
Như vậy, muốn đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ngoài việc gia tăng khối tiền
tệ trong Chính sách tiền tệ cần có những biện pháp đẩy mạnh đầu tư sản xuất để
thâm dụng nhân công.
2.2 Giảm thiểu những thăng trầm trong chu chuyển kinh tế
Với những tác động của các công cụ Chính sách tiền tệ có thể rút ngắn chu kỳ và
thay đổi những nhược điểm của chu kỳ kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế bất cứ nước
nào cũng không thể kéo dài mãi. Lý do cơ bản là số cầu dù tiếp tục gia tăng nhưng
số cung không thể đáp ứng mãi được. Nó bị hạn chế bởi nhiều yếu tố, đáng kể trước
tiên là nhân công. Khi nền kinh tế tăng trưởng liên tục đến một lúc nào đó nhân
công khan hiếm, hạn chế mức gia tăng sản xuất. Đó là chưa kể nguyên liệu cũng có
thể khan hiếm. Sự khan hiếm của yếu tố nhân công, nhiên liệu làm tăng phí tổn sản
xuất, nâng cao giá thành và giá bán trên thị trường.
Vào thời điểm này, nếu khối lượng tiền tệ tiếp tục gia tăng mà không thể kiềm chế,
số cầu tăng mạnh, hậu quả tất yếu làm tăng vật giá, tình trạng lạm phát ngày càng
trầm trọng hơn. Tình hình đó buộc phải giảm bớt khối tiền tệ, từ đó làm giảm số
cầu, làm giảm khuynh hướng tiêu thụ của dân cư. Hoạt động kinh tế rơi vào tình
trạng ngưng trệ. Trước tình hình đó, các nhà sản xuất hàng hóa bán chậm lại, tích

lũy hàng tồn kho nhiều, giảm lương, thậm chí sa thải công nhân, dẩn đến thất
nghiệp tình trạng suy thoái kinh tế lan rộng.
Để chặn đứng suy thoái, NHTW sẽ phải thi hành chính sách bành trướng khối tiền
tệ, khuyến khích các ngân hàng cho vay để nâng số cầu lên, nhu cầu đầu tư tăng
những sự kiện đó đưa nền kinh tế từ giai đoạn suy thoái sang giai đoạn phục hưng
để từ đó có thể chuyển sang giai đoạn tăng trưởng mạnh.
III. PHƯƠNG THỨC VẬN HÀNH CÁC CÔNG CỤ CỦA CSTT
Để kiến thiết Chính sách tiền tệ, NHTW phải vận dụng những công cụ đặt biệt của
nó, người ta gọi đó là “công cụ của Chính sách tiền tệ”. Công cụ là những phương
tiện cụ thể của hoạt động. Phần lớn các công cụ hoạt động đều có thể được sử dụng
hoặc vì mục đích điều hòa toàn bộ các luồng tiền tệ, hoạt động tiền tệ và giá cả hoặc
để điều hành một số chính sách chung. Một công cụ Chính sách tiền tệ được xem là
hữu ích nếu công cụ đó có tính linh hoạt và mang lại hiệu quả, tức là công cụ này có
thể thay đổi khi cần thiết, thường xuyên hay không thường xuyên với mức tăng
giảm khối tiền lớn hay nhỏ tùy thuộc vào mục tiêu của NHTW đã đề ra.
Phương thức vận hành các công cụ Chính sách tiền tệ của NHTW thường được thực
hiện để điều hành các NHTG và thị trường tiền tệ, thứ hai là nhằm xử lý mối quan
hệ đối với khu vực tài chính tiền tệ đối ngoại.
1. Vận dụng đối với các NHTG và thị trường tiền tệ
Có tất cả 7 công cụ mà NHTW có thể vận dụng, đó là : Dự trữ bắt buộc, tái chiết
khấu, thị trường tiền tệ mở, kiểm soát tín dụng chọn lọc, lãi suất tiền gởi, kiểm soát
tín dụng tài trợ Thị trường Chứng khoán và kiểm soát tín dụng tiêu dùng. Chúng ta
sẽ lần lượt đi sâu phân tích từng công cụ một.
1.1 Thay đổi dự trữ bắt buộc đối với Ngân hàng trung gian
NHTW được giao quyền bắt buộc các NHTG phải ký gởi tại NHTW một phần của
tổng số tiền gởi mà họ nhận được từ dân cư và các thành phần kinh tế thao một tỷ lệ
nhất định. Phần ký gởi bắt buộc đó gọi là dự trữ bắt buộc. NHTW ấn định một tỷ lệ
bao nhiêu tùy theo tình hình, mục đích là để giới hạn khả năng cho vay của NHTM,
tránh trường hợp ngân hàng này ham kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay quá mức,
có thể gây hại tới quyền lợi của người ký gởi tiền ở ngân hàng. Ngoài ra, nó còn là

phương tiện để NHTW có thêm quyền lực điều khiển hệ thống ngân hàng, tạo nên
mối quan hệ lệ thuộc của NHTM đối với NHTW. Khả năng cho vay của NHTM bị
hạn chế buộc họ phải đi vay lại ở NHTW. NHTW là người cho vay sau cùng của
mọi ngân hàng và là cứu tinh của họ trong những trường hợp khẩn cấp như tình
trạng đồng loạt rút tiền gởi của công chúng.
Về nguyên tắc, khi ấn định một mức dự trữ bắt buộc ở mức thấp, NHTW muốn
khuyến khích các NHTG mở rộng mức cho vay của họ, tức muốn bành trướng khối
tiền tệ. Ngược lại, khi nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc, NHTW muốn giới hạn khả
năng cho vay của các NHTG, báo hiệu một Chính sách tiền tệ thắc chặt; từ đó ảnh
hưởng đến doanh thu lợi nhuận của các ngân hàng, đây là vấn đề hết sức nhạy cảm
và luôn được quan tâm của NHTW.
Chính vì vậy một sự gia tăng DTBB đòi hỏi phải nguyên cứu trước sức chịu đựng
của NHTG đối với mức dự trữ mới sẽ ban hành. Có thể vận dụng mức DTBB cho
loại tiền gửi không kỳ hạn và một mức dự trữ thấp hơn cho loại tiền gửi tiết kiệm và
tiền gửi có kỳ hạn hoặc một tỷ lệ DTBB thấp hơn cho ngân hàng hoạt động ở khu
vực nông thôn
Nhìn chung, DTBB là công cụ mang tính chất hành chính của NHTW nhằm điều
tiết mức cung tiền của NHTM cho nền kinh tế thông qua hệ số nhân tiền tệ. Mức dự
trữ do luật pháp quy định theo đó NHTM phải gởi tiền vào một tài khoản không lãi
ở NHTW. Dự trữ bắt buộc là biện pháp kiểm soát cung ứng tiền tệ chứ không phải
là cách để cho tiền ổn định. Nó có ý nghĩa to lớn để điều hòa cung cầu trên thị
trường tiền tệ, thực hiện yêu cầu của Chính sách tiền tệ.
1.2 Thay đổi điều kiện và lãi suất chiết khấu
Tái chiết khấu là phương thức để NHTW đưa tiền vào lưu thông, thực hiện vai trò là
người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu, NHTW đã tạo cơ sở đầu
tiên thúc đẩy hệ thống NHTM thực hiện vai trò tạo tiền đồng thời khai thông thanh
toán.
Đối với NHTM, lẽ sống của họ là nhận tiền gởi của mọi giới và cho vay phần lớn
tiền gởi đó để thu lãi. Tuy nhiên, không phải lúc nào hoạt động ngân hàng cũng diển
ra thuận lợi. Có những lúc người gởi tiền đến rút tiền quá nhiều (theo chu kỳ kinh tế

), ngân hàng dể rơi vào tình trạnh thiếu khả năng chi trả. Chính vào những lúc
“ngàn cân treo sợi tóc” đó, NHTM tìm đến sự giúp đở của NHTW, người cho vay
cuối cùng có khả năng vô biên, không bao giờ bị phá sản.
NHTW cấp tín dụng cho các NHTG qua nhiều hình thức. Hình thức thông dụng và
cổ điển là chiết khấu các thương phiếu của NHTG hoặc tái chiết khấu nếu NHTG đã
chiết khấu trước đó. Khi nhận chiết khấu hay tái chiết khấu, NHTW làm tăng khối
tiền tệ. Đó là hình thức tạo tiền được các nhà kinh tế xem là lành mạnh vì nó có khả
năng tự thanh toán Với việc nâng cao hoặc giảm mức lãi suất chiết khấu NHTW
có thể khuyến khích giảm hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của NHTM đối với nền
kinh tê,ú đồng thời qua đó cũng giảm hoặc tăng mức cung ứng tiền tệ.
Chính sách chiết khấu còn là công cụ định hướng tín dụng. Nếu muốn kích thích
xuất khẩu, NHTW sẽ cho tái chiết khấu trước hết các thương phiếu xuất khẩu hoặc
nâng hạn mức tái chiết khấu đối với các thương phiếu đó. Ngoài ra, NHTW còn
thực hiện chiết khấu trong những trường hợp: giúp NHTG điều chỉnh dự trữ bắt
buộc bị thiếu hụt, giúp NHTG thực hiện tín dụng theo mùa, các NHTG nào thiếu
hụt thanh khoản (vì những nghiệp vụ cho vay tương đối dài hạn) để khuyến khích
phát triển.
1.3 Chính sách thị trường mở (Open Market Operations)
Chính sách thị trường mở (OMO) là việc NHTW mua bán giấy tờ có giá với mục
đích tác động tới thị trường tiền tệ, điều hòa về cung và cầu về giấy tờ có giá, gây
ảnh hưởng đến khối dự trữ của các NHTM tại NHTW, từ đó tác động đến khả năng
cung cấp tín dụng của các ngân hàng này.
Thị trường mở là một trong những cửa ngõ để NHTW phát hành tiền vào guồng
máy kinh tế hoặc rút bớt khối tiền lưu thông trong đó, bằng cách mua hay bán
những trái phiếu, bằng những nghiệp vụ gọi là “nghiệp vụ thị trường mở” (open
market operations). Nếu như chính sách chiết khấu có tác động tổng hợp và có
những hạn chế tạm thời thì Chính sách thị trường mở là công cụ tác động nhanh và
linh hoạt. Khi mua bán giấy tờ có giá với việc quy định mức giá có lợi, NHTW
muốn tác động tới nguồn vốn của các NHTM ở NHTW và do đó tác động tới mức
cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế và dân cư.

Trên thị trường mở, NHTW chủ yếu mua bán trái phiếu của Chính phủ. Bằng cách
này, NHTW tăng khối dự trữ của NHTG, vì ngân hàng này cần dự trữ nên đem bán
trái phiếu hoặc bán trái phiếu với lãi suất thấp để cho vay sinh lợi nhiều hơn. Khi dự
trữ của ngân hàng thặng dư, thí dụ tăng thêm 1, NHTW có thể mở rộng khả năng
cho vay gấp 4 hoặc 5 lần tùy theo mức DTBB, vì phần dự trữ tăng thêm có tác dụng
như phần tiền gởi ở ngân hàng này. Thêm vào đó, còn có tác dụng của việc NHTW
mua trái phiếu của Chính phủ với giá cao hơn, lãi suất hạ xuống kích thích giới
doanh nghiệp đi vay, tức là tăng thêm của khối tiền tệ.
Ngược lại khi muốn giảm bắt khối tiền tệ NHTW bán trái phiếu chính phủ trên thị
trường mở cho bất cứ ai muốn mua, ngân hàng doanh nghiệp hoặc cá nhân. Hậu quả
là dự trữ của NHTG tại NHTW giảm xuống, khả năng cho vay của NHTG bị thu
hẹp, nhất là khi tiền mua trái phiếu chính phủ do cá nhân hay doanh nghiệp mua và
trả bằng chi phiếu tiền gửi không kỳ hạn giảm, làm giảm thiểu khối tiền tệ.
Như vậy, Sự phát triển của thị trường tài chính nói chung và của hệ thống ngân
hàng nói riêng đã tạo điều kiện cho NHTW các nước có thể điều hành chính sách
tiền tệ của mình một cách linh hoạt và chủ động hơn, đáp ứng sự vận động ngày
càng nhanh chóng của luồng vốn lưu chuyển trong nền kinh tế. Với Thị trường mở,
NHTG có thể tìm cho mình nguồn tài trợ cần thiết với những thủ tục nhanh gọn.
Cho nên hoạt động của thị trường mở ngày càng quan trọng hơn, làm giảm bớt hoạt
động tái chiết khấu. Qua thị trờng này, NHTW có thể tác động đến việc tăng giảm
khối tiền tệ một cách trực tiếp đối với ngân hàng.
1.4 Kiểm soát tín dụng có chọn lọc (Selective Credit Controls)
Ba công cụ vận dụng để thực thi Chính sách tiền tệ kể trên có tác dụng tổng quát là
kiểm soát khối lượng cho vay của ngân hàng, mức lãi suất và khối tiền tệ nói chung.
Nhưng NHTG còn thoải mái ở chổ là muốn cho ai vay tùy sự xét đoán của mình.
Điều đó có nghĩa là ba công cụ nêu trên chưa ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng mà
NHTG cấp cho khách hàng. Nếu không áp dụng chính sách kiểm soát tín dụng
“chọn lọc”, NHTG sẽ chỉ hướng tín dụng vào những ngành kinh doanh lớn, cho xí
nghiệp nước ngoài vay hoặc cho vay để mua bán chứng khoán, ít chú trọng đến
những ngành hoạt động có lợi ích xã hội nhiều hơn như xây dựng nhà cửa, doanh

nghiệp nhỏ
Một chính sách kiểm soát tín dụng chọn lọc sẽ giới hạn mức tín dụng tối đa cấp cho
những ngành mà Nhà nước không ưu tiên phát triển nữa, ngược lại ưu đãi những
ngành hoạt động nào được xem như ưu tiên, cần yểm trợ tín dụng mạnh hơn. Ví dụ
như xây cất nhà, doanh nghiệp nhỏ, hay có sự phân biệt để ưu tiên phát triển những
vùng lãnh thổ đặc biệt so với những ngành khác. Việc yểm trợ tín dụng ưu đãi với
một lãi suất ưu đãi là một đòn bẩy giúp thực hiện chính sách kinh tế của Nhà nước.
Chính sách này muốn đạt mục tiêu của nó cần nâng cao chất lượng kiểm soát và
thanh tra NHTG, chất lượng đó tùy thuộc trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đội
ngũ cán bộ và đạo đức liêm khiết của họ.
1.5 Thực hiện chính sách lãi suất
Lãi suất là một công cụ quan trọng đặc biệt trong tay NHNN để hạch định và điều
hành chính sách tiền tệ. Lãi suất là vấn đề hết sức nhạy cảm trong nền kinh tế, nó
tác động đến mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, tích luỹ tiêu dùng, tiết
kiệm và đầu tư Kinh nghiệm cho thấy vai trò quan trọng của cơ chế điều hành lãi
suất đối với mục tiêu ổn dịnh và phát triển thị trường tài chính tiền tệ, thúc đẩy sản
xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế.
Chính sách lãi suất có thể bao gồm tiền vay và tiền gởi ngân hàng. Thông thường,
chính sách lãi suất tiền gởi và tiền vay biến động cùng chiều, nghĩa là cả hai mức lãi
suất đó đều tăng lên hay giảm xuống: khi tăng lãi suất tiền gởi lên, lãi suất cho vay
cũng được nâng lên và ngược lại tùy theo chính sách của NHTW.
Các chính sách lãi suất mà ngân hàng các nước cũng như Việt Nam đã từng áp dụng
là: chính sách lãi suất trần, lãi suất sàn, chính sách chênh lệch lãi suất, chính sách lãi
suất cơ bản, lãi suất thỏa thuận, tự do hóa lãi suất Các mức và cơ cấu lãi suất cần
hướng đến các mục tiêu sau :
Khuyến khích tích lũy và sự trung gian tài chính.
Hướng các nguồn tài chính vào hoạt động có tỷ suất lợi nhuận cao nhất.
Điều chỉnh cơ cấu thời hạn của các luồng tài chính, có nghĩa là phân định vốn ngắn
hạn và vốn dài hạn.
Cho phép các tổ chức tài chính có sự chênh lệch lãi suất thích hợp để bù đắp chi

phí hoạt động và có lãi.
Dựa vào chính sách lãi suất mà các NHTG tùy thuộc vào từng thời kỳ và mục tiêu
của Chính sách tiền tệ mà NHTW đề ra các chính sách lãi suất phù hợp nhằm điều
tiết hoạt động tín dụng của NHTG, từ đó sẽ tác động đến mức tổng mức cung tiền
trong lưu thông.
1.6 Ấn định một biên vực bắt buộc trong cho vay
Aïp dụng đối với việc kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Trong kinh doanh
chứng khoán, người đầu tư thường sử dụng vốn tín dụng do ngân hàng cung cấp.
Nhà nước hay NHTW quy định một giới hạn tiền mặt phải trả trong kinh doanh
chứng khoán gọi là biên vực. Khi biên vực mở rộng thì hoạt động tín dụng sẽ bị thu
hẹp và ngược lại.
Ơ ínhững nước công nghiệp phát triển, thị trường chứng khoán hoạt động rất rộn
rịp, các NHTM thường tài trợ các nghiệp vụ mua cổ phiếu và trái phiếu theo thể
thức thiếu chịu: trong đó người mua chi trả tiền ngay một phần trị giá mua, số còn
lại thì nợ người trung gian giá khoán. Người này giữ chứng khoán làm vật thế chấp
và dùng nó vay lại ở NHTM, số tiền trả ngay gọi là “biên vực”.
Ơ ínhững nước còn đang phát triển hoặc chưa có thị trường chứng khoán, người ta
có thể áp dụng thể thức này hơi khác bằng cách ấn định tỷ lệ cho vay áp dụng cho
sản xuất, kinh doanh cao hay thấp tùy theo tình hình. Nếu muốn bành trướng khối
tiền tệ, tỷ lệ cho vay trên vốn lưu động hay trên trịo giá lô hàng thế chấp cao. Ngược
lại khi muốn hạn chế tín dụng NHTM. NHTW ấn định tỷ lệ cho vay thật thấp, làm
như vậy là để buộc các đơn vị phải tung hàng tồn kho ra bán, không giữ hàng lại để
chờ giá lên. Và như vậy nghiệp vụ này giống chính sách kiểm soát tín dụng có chọn
lọc áp dụng cho từng ngành hoạt động.
1.7 Kiểm soát tín dụng tiêu dùng
Ơ ícác nước công nghiệp phát triển, thường người ta hay khuyến khích tiêu dùng
bằng nhiều cách, chẳng hạn như bán trả góp. Nhưng trong nhiều trường hợp nhất là
trong tình trạng chiến tranh, NHTW có quyền quy định mức trả tiền ngay cao hay
thấp đối với những nghiệp vụ bán hàng tiêu dùng trả góp hay mua nhà trả góp, để
hạn chế hay khuyến khiïch các nghiệp vụ này. NHTW cũng có thể rút ngắn thời hạn

thiếu chịu bằng cách tăng thêm tiền trả góp hằng tháng.
Ơ ínước ta, thể thức mua bán này ít thông dụng nhưng cũng đề cập tới, khi nền sản
suất đến giai đoạn sản xuất nhiều thì thể thức bán hàng trả góp rất phổ biến và
NHTW sẽ thấy lúc nào cần áp dụng sự can thiệp của mình.
Các công cụ để thực thi Chính sách tiền tệ trên đây chỉ liên quan đến hai đầu mối
quan hệ của NHTW với NHTG và với thị trường tiền tệ.
2. Vận dụng đối với khu vực tài chính tiền tệ đối ngoại
Ngân Hàng Trung ương thường được giao phó nhiệm vụ giao dịch với khu vực tài
chính tiền tệ nước ngoài, tức là với NHTW khác, các cơ quan tài chính tiền tệ, tín
dụng quốc tế và thực hiện quản lý ngoại hối, thực hiện những nghiệp vụ liên quan
tới cán cân thanh toán quốc tế, tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước,
giao dịch mua bán ngoại hối trên thị trường quốc tế nhằm bảo vệ giá trị quốc ngoại
của đồng tiền tệ quốc gia. Các chính sách đưa ra bao gồm:
2.1 Dự trữ ngoại hối
Được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo mục tiêu của Chính sách tiền tệ.
Mỗi nước đều có khối dự trử ngoại hối, lớn hay nhỏ tùy theo khả năng của nền kinh
tế nước đó có thể tạo lập được nhiều hay ít. Nó là kết quả của tổng số thu và chi
ngoại tệ (kể cả vàng) của một nước trong một thời hạn nhất định, thường là một
năm. Dự trữ ngoại hối tăng khi thu lớn hơn chi bất kể thu chi ngoại hối vì lý do gì.
Điều đó có được khi ngân hàng trung ương mua bán ngoại hối. Ngân hàng trung
ương mua ngoại hối, khối tiền tệ tăng thêm; ngược lại khi bán ngoại hối khối tiền tệ
giảm, nếu những yếu tố khác không thay đổi.Nói chung, dự trữ ngoại hối được
thành lập là do :
Do tích lũy của NHTW, nguồn quỹ dự trữ của Ngân sách Nhà nước.
Phần trăm tỷ lệ ngoại tệ của các đơn vị, tổ chức có thu nhập ngoại tệ phải bán lại
cho Ngân hàng trung ương.
Sự biến chuyển trong Dự trữ ngoại hối tùy thuộc vào hai yếu tố chính là Thị trường
hối đoái và Chính sách hối đoái mà ta sẽ xem xét tiếp sau đây :
2.2 Thiết lập và điều tiết hoạt động của thị trường ngoại hối
Thị trường hối đoái là nơi mua bán ngoại tệ. Thị trường hối đoái tạo điều kiện môi

trường để việc mua bán giao dịch trao dịch trao ngoại hối diển ra một cách thuận lợi
dể dàng. Trong một nước mà thị trường hối đoái tổ chức quá đơn sơ, thị trường hối
đoái không tổ chức sẽ bành trướng mạnh mẽ, khiến cho NHTW chẳng những không
tích lũy được dự trữ ngoại hối, mà cũng không chủ động được nguồn cung ứng tiền
tệ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các đơn vị này khi có nhu cầu ngoại tệ
lại đi mua ngoại tệ trôi nổi trên thị thị trường không tổ chức bằng lượng tiền đồng
trong nước mà hậu quả cuối cùng là số lượng tiền nội địa lớn luân chuyển ngoài hệ
thống Ngân hàng: một yếu tố làm tăng áp lực vay tiền Ngân hàng để bổ sung nguồn
vốn lưu động và NHTM lại thiếu tiền. Từ đó áp lực trên nhu cầu phát hành tiền sẽ
gia tăng.
Thị trường hối đoái có tổ chức hoàn hảo hay không còn tùy thuộc vào chính sách
hối đói (đáp ứng chính sách kinh tế mở cửa tới mức độ nào )
2.3 Chính cách ngoại hối
Tập hợp tất cả những quy chế, chính sách, điều kiện, yêu cầu về quản lý ngoại hối.
Trên cơ sở đó mà đảm bảo cho mọi công cụ liên quan đến ngoại hối hoạt động có
hiệu quả.
Đối với Việt Nam, nguyên tắc là áp dụng chính sách ngoại hối có quản lý chặt.
Theo đó, tất cả các tổ chức, các cá nhân có ngoại tệ đều phải bán cho ngân hàng
được phép kinh doanh ngoại hối, khi có nhu cầu thì mua ngoại tệ tại ngân hàng. Các
tổ chức thì có thể mua ngoại tệ tại thị trường hối đoái trong nước.
Nhưng trong thực tế, các tổ chức cá nhân lại có thể mua bán ngoại tệ trôi nổi ngoài
những nơi chỉ định trên, mặc dầu bị cấm đoán. Chính vì vậy một lượng lớn ngoại tệ
đang lưu hành bên ngoài hệ thống ngân hàng.
Lại nữa, chúng ta đang tổ chức thị trường mua bán ngoại tệ với tỷ giá dựa trên cơ sở
cung cầu thị trường, đồng thời vẫn duy trì một cơ chế tiền gởi bằng ngoại tệ trong
hệ thống ngân hàng để rồi nhận lấy hết những rủi ro không đáng có. Có một nghịch
lý là: Trong khi chúng ta đang khuyến khích thu hút ngoại tệ vào trong nước để đầu
tư phát triển kinh tế, nhưng với cơ chế và cách làm của ta, chúng ta phải đem ngoại
tệ ra gởi ở nước ngoài, vô tình đã làm lợi cho những nước có ngoại tệ đó !
Tóm lại, một chính sách ngoại hối độc quyền, quá cứng nhắc sẽ không tránh khỏi

những căng thẳng như trên. Đó là điểm cần lưu ý khi thiết lập một thị trường hối
đoái có tổ chức với những quy định sao cho uyển chuyển thích hợp với tình hình
thực tế trong nước mà không cản trở sản xuất kinh doanh.
2.4 Tỷ giá hối đoái (hối suất)
Tỷ giá hối đoái là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, cũng là đòn bẩy kinh tế tác
động mạnh đến các hoạt động sản suất kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu trong
nước. Việc hình thành tỷ giá hối đoái phải theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước trong một giai đoạn nhất định tùy theo điều kiện, đặc điểm của từng thời
kỳ.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp (tức đồng bản tệ có giá trị tăng lên so với ngoại tệ) có
tác dụng khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng xuất khẩu
tương đối đắt, khó bán ra nước ngoài, tức là gây trở ngại cho ngành sản xuất trong
nước hướng về xuất khẩu, bất lợi cho việc chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào
trong nước, khối lượng dự trữ ngoại hối sẽ bị xói mòn. Ngược lại, một tỷ giá hối
đoái cao sẽ có tác động bất lợi cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu vì làm cho
hàng nhập khẩu đắt hơn, hàng xuất khẩu rẻ hơn, dể cạnh tranh trên thịo trường quốc
tế, dể tìm được thị trường hơn. Do đó, những ngành sản xuất có nguyên liệu nhập
khẩu hay thay thể hàng nhập khẩu gặp trở ngại trong khi ngành sản xuất hàng cho
thị trường nước ngoài thuận lợi hơn, lượng ngoại tệ có khuynh hướng chuyển vào
trong nước khá hơn, khối dự trử ngoại tệ có cơ hội gia tăng.
Trong các trường hợp trên, NHTW can thiệp để giữ cho tỷ giá hối đoái không thăng
trầm quá đáng, làm dịu bớt những tình trạng bất ổn định của nền kinh tế trong nước.
NHTW can thiệp trên thị trường hối đoái bằng cách tham gia mua hay bán ngoại tệ
để duy trì tỷ giá hối đoái biến đổi trong một biên vực không quá lớn, nhờ đó chế
ngự bớt tác động đối với nền kinh tế trong nước. Khi giá ngoại tệ lên cao, NHTW
đưa ngoại tệ ra bán để làm chậm bớt nhịp tăng giá ngoại tệ. Dĩ nhiên, chỉ làm được
điều đó khi dự trữ ngoại còn ở mức độ tương đối khả quan. Ngược lại, khi giá ngoại
tệ xuống quá thấp, NHTW dùng tiền trong nước mua ngoại tệ vào để duy trì một
biên vực biến đổi ít tác động mạnh đối với sinh hoạt kinh tế trong nước nhất là để
tái tạo khối dự trữ ngoại tệ đã bị thiếu hụt.

PHẦN 2. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VIỆT NAM
A . TÌNH HÌNH VẬN HÀNH CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA
NHNN VIỆT NAM HIỆN NAY
I. MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC
Mục tiêu chiến lược theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là
: “Thực thi Chính sách tiền tệ góp phần ổn định kinh tế vi mô, kiểm soát lạm phát,
thúc đẩy sản suất tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển. Sử dụng linh hoạt các công
cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo nguyên tắc
thị trường. Nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đông Việt
Nam hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động
của hệ thống Ngân hàng “
II. CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CSTT HIỆN NAY
Mục điïch của Chính sách tiền tệ là điều tiết lượng tiền trong lưu thông, sự điều tiết
này thể hiện qua hai hướng: mở rộng và thắc chặc tiền tệ. Việc điều tiết lượng cung
tiền như thế nào để cho nền kinh tế phát triển một cách nhịp nhàng luôn là vấn đề
nan giải của các quốc gia, thiếu hay thừa tiền luôn có tác dụng tiêu cực của nó. Tuy
nhiên, trong thực tế điều hành CSTT tùy vào từng thời kỳ phát triển kinh tế, tùy vào
hoàn cảnh cụ thể của Kinh tế - xã hội mà sử dụng CSTT thắt chặt hay mở rộng tiền
tệ. Đây cũng là vấn đề nhạy cảm đối với các nhà điều hành CSTT. Để làm được
điều này, NHTW phải sử dụng hàng loạt các công cụ như: dự trữ bắt buộc, lãi suất,
tỷ giá hối đoái, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở. Ơ í nước ta trong thời gian
qua, NHNN đã thể hiện vai trò của mình trong việc thực thi CSTT, được thể hiện
thông qua việc sử dụng các công cụ như sau:
1. Công cụ lãi suất
Lãi suất là một công cụ quan trọng đặc biệt trong tay NHNN để hạch định và điều
hành Chính sách tiền tệ. Lãi suất là vấn đề hết sức nhạy cảm trong nền kinh tế, nó
tác động đến mọi khâu của quá trình sản xuất kinh doanh, tích luỹ tiêu dùng, tiết
kiệm và đầu tư Kinh nghiệm quốc tế và thực tiển nước ta trong nhiều năm đổi
mới cho thấy vai trò quan trọng của cơ chế điều hành lãi suất đối với mục tiêu ổn
định và phát triển thị trường tài chính tiền tệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tăng

trưởng kinh tế.
Thật vậy, cùng với tiến trình đổi mới, điều hành CSTT, việc điều hành lãi suất của
NHNN đã không ngừng hoàn thiện. Từ việc NHNN bắt đầu chuyển sang thực hiện
chính sách lãi suất thực dương từ chế độ lãi suất âm năm 1992, từng bước xoá bỏ
bao cấp qua lãi suất, đánh dấu bước khởi đầu cho thực hiện mục tiêu tự do hóa lãi
suất. Từ cơ chế trần lãi suất thực hiện từ năm 1996, NHNN đã chuyển sang điều
hành theo lãi suất cơ bản năm 2000, thực hiện tự do hóa lãi suất cho vay ngoại tệ từ
tháng 6/2001 và thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng (TCTD)
với khách hàng từ tháng 6/2002.
Điểm khác biệt và nội dung đổi mới chủ yếu của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản
khác với các cơ chế lãi suất trước đó kể cả cơ chế lãi suất trần gần đây được coi là
có nhiều tính ưu việc hơn, đó là việc xác định một mức lãi suất dựa vào quan hệ
cung cầu vốn tín dụng trên thị trường, thông qua việc tính toán bình quân các mức
lãi suất huy động và cho vay của một số NHTM được chọn làm đại diện, đồng thời
có tham khảo cân nhắc thêm lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất thị trường
mở, lãi suất đấu thầu trái phiếu kho bạc và một số chỉ tiêu mức tăng trưởng kinh tế,
chỉ số lạm phát, tỷ giá mức lãi suất này được công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín
dụng thực hiện cho vay. Rõ ràng là nếu như các cơ chế lãi suất trước đó chủ yếu
được điều hành theo ý thức chủ quan áp đặt hành chính thì với cơ chế lãi suất này
đã thực hiện một bước đổi mới cơ bản là NHNN đã điều hành lãi suất theo tín hiệu
thị trường chú trọng đến cung cầu vốn tín dụng và mục tiêu của Chính sách tiền tệ.
Điều đáng ghi nhận là quá trình đổi mới điều hành lãi suất đã được NHNN thực
hiện theo hướng tiến tới mục tiêu tự do hóa với những bước đi thận trọng phù hợp
với xu hướng phát triển của Thị trường tiền tệ, khả năng kiểm soát tiền tệ của
NHNN và mức độ hội nhập của kinh tế Việt Nam vào Thị trường tài chính khu vực
và thế giới. Việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận giữa TCTD va khách hàng đã
tạo điều kiện cho các quan hệ tín dụng, lãi suất phát triển, thúc đẩy cạnh tranh lành
mạnh giữa các TCTD.
Vấn đề nổi bật trong cả năm 2002 là lãi suất diễn biến trái chiều nhau, trong khi lãi
suất ngoại tệ giảm xuống thì lãi suất nội tệ tăng lên. Trước yêu cầu khách quan của

thực tiễn, từ ngày 1/6/2002 NHNN quyết định chuyển sang cơ chế lãi suất thoả
thuận Đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó các tổ
chức tín dụng được chủ động thoả thuận lãi suất đối với khách hàng trên cơ sở cung
cầu vốn, lãi suất cơ bản do NHNN công bố chỉ có tính chất tham khảo. Tuy nhiên
NHNN vẫn tiếp tục điều hành và thực hiện lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp
vốn đối với các tổ chức tín dụng. Nếu như lãi suất huy động vốn cao nhất của các tổ
chức tín dụng trong các tháng đầu năm 2002 chỉ dừng ở mức 0,6% /tháng, lãi suất
cho vay bình quân 0,7% /tháng thì từ tháng 6 và đặc biệt từ tháng 8/2002 và 9/2002
đã tăng lên cao. Lãi suất huy độngvốn cao nhất của nhiều NHTM lên tới 0,7% thậm
chí 0,72%, cao nhất trong vòng 3 năm gần qua. Ngay cả Ngân Hàng Ngoại Thương
Việt Nam và Ngân Hàng Công Thương Việt Nam luôn có thế mạnh về huy động
vốn, có lãi suất tiền gửi thấp, thường xuyên bán buôn vốn và chi phối trên thị
trường tiền tệ nhưng từ tháng 8 và 9/2002 tung ra chiến dịch huy động vốn bằng các
kỳ phiếu và trái phiếu lên tới 8% - 8,2%/năm. Tình hình đó đã thực sự cho thấy sự
sôi động của thị trường vốn. Điều này trước hết do nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng
lên, tiếp theo là do sự phát triển của thị trường bất động sản và cuối cùng là do
nhiều tổ chức phi ngân hàng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường vốn như
hoạt động của Trung tâm giao dịch Chứng khoán tại Thành Phố Hồ Chí Minh, các
Công ty bảo hiểm, Quỹ đầu tư, Công ty tài chính, Công ty cho thuê tài chính, Công
ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện làm cho các NHTM không còn độc quyền trên thị
trường vốn như trước đây nữa.
Như vậy, qua gần 20 năm đổi mới, cơ chế lãi suất của NHNN đã được hoạch định
theo hướng tích cực nới lỏng, từng bước hướng tới tự do hoá, phù hợp với điều kiện
kinh tế xã hội trong nước, mức độ hội nhập của nền kinh tế nước ta với thị trường
tài chính khu vực và thế giới. Cơ chế điều hành lãi suất ngày càng trở nên linh hoạt
hơn, bám theo cung cầu vốn thị trường, dần dần mở rộng quyền chủ động xác định
lãi suất kinh doanh cho các tổ chức tài chính để tăng khả năng cạnh tranh nhưng vẫn
đảm bảo sự kiểm soát và điều hành của NHNN đối với lãi suất trên thị trường tiền
tệ.
2. Công cụ tỷ giá hối đoái

Với hiệp định thương mại Việt Mỹ và những nội dung trong cam kết AFTA lĩnh
vực ngân hàng Việt Nam đang từng bước xoá bỏ những khác biệt trong trong chính
sách giữa các NHVN và ngân hàng nước ngoài. Vì vậy chính sách ngoại hối, tỷ giá,
Việt Nam cũng cần phải có những bước thay đổi phù hợp.
Để thực hiện mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức ổn định 7-9%/năm, Việt
Nam cần có những chính sách kinh tế nói chung và những chính sách tỷ giá nói
riêng hợp lý, ổn định tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài
góp phần quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, duy trì
tỷ giá hối đoái phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường đồng thời không ngừng
nâng cao uy tín của Đồng Việt Nam nhằm từng bước làm cho Đồng Việt Nam trở
thành đồng tiền tự do chuyển đổi, góp phần ngăn chặn tình trạng đô la hoá trong
nền kinh tế, tỷ giá hối đoái cần được điều hành một cách linh hoạt, phù hợp với
cung cầu ngoại tệ nhằm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng dự trữ
ngoại tệ cho đất nước, không để xảy ra những biến động lớn gây ảnh hưởng xấu đến
nền kinh tế xã hội.
Cơ chế điều hành TGHĐ hiện nay là không ấn định một cách cứng nhắc bằng mệnh
lệnh hành chính, chênh lệch nhiều với tỷ giá thực tế giao dịch trên thị trường mà là
tỷ giá thực tế hình thành khách quan trên thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Thay thế việc quản lý mang tính hành chính của NHNN bằng một cơ chế mềm dẻo
hơn, ít mang tính áp đặt hơn, dựa vào công cụ kinh tế là chính nhưng không buông
lỏng, thả nổi tỷ giá một cách tuỳ tiện. Cụ thể:
Lấy tỷ giá thực tế bình quân trên thị trường liên ngân hàng làm căn cứ xác định giá
mua bán ngoại tệ giữa ngân hàng với ngân hàng, giữa ngân hàng với doanh nghiệp
và dân cư.

×