Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.23 KB, 38 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
“Tư tưởng chủ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế là giải phóng
mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước
và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN”. Đó chính là lời
khẳng định của Đảng tại Đại Hội VI (1986) về việc đổi mới cơ chế quản lý tập
trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường.
Từ sau Đại Hội VI đến nay nước ta phát triển nền kinh tế hị trường
(KTTT) được 16 năm và đã đạt được nhiều thành tựu, tốc độ tăng trưởng nền
kinh tế hàng năm khá cao, năm 1990: 5.1%; 1991: 5.9%;1999: 4.8%; 2000:
6.8% và rất cao vào những năm 1994: 8.84%; 1995: 9.54%; 1996: 9.34%. Các
thành tựu của nền kinh tế còn được đánh giá qua sự phát triển toàn diện của xã
hội: Việt Nam được coi là đất nước hịa bình và ổn định về chính trị, xã hội; Hà
Nội được bầu là thành phố hịa bình, nhiều hội nghị quốc tế quan trọng đã được
tổ chức ở Việt Nam,… tất cả điều đó nói lên sự tin tưởng của bạn bè thế giới
đối với đất nước ta.
Tuy nhiên nền kinh tế cũng phải đối mặt với những vấn đề nóng bỏng
như lạm phát, thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh, v.v….Nhà nước ta chủ
trương phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN đây là một khó khăn rất
lớn bởi nền kinh tế chúng ta mới là “ định hướng XHCN, đang trong thời kì q
độ cịn q non trẻ, do đó việc giải quyết các mâu thuẫn thị trường rất khó khăn.
Đâu sẽ là giải pháp cho nền kinh tế nước ta? Lúc này chúng ta mới nhắc
đến vai trò của Nhà nước như là nhân tố trung tâm trong việc duy trì ổn định
của KTTT thơng qua các chính sách kinh tế vĩ mơ. Trong nền KTTT chúng ta
phải làm gì để Nhà nước thực hiện tốt vai trị của mình? Chính vì vậy tơi chọn
đề tài: “Tăng cường vai trị kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để
hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay”
làm đề tài của mình.

3



Đề án của em được hoàn thành dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ về nội
dung và tài liệu của thầy Lê Việt – giảng viên chính trực tiếp của em về bộ
mơn kinh tế chính trị.
Em xin chân thành cảm ơn và mong được chỉ bảo thêm của thầy!

4


I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC.
1. Sự cần thiết khách quan về vai trò kinh tế của Nhà nước nói chung.
1.1. Lịch sử ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước qua các thời đại lịch sử:

Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật tự
xã hội sao cho phù hợp với lợi ích của chính giai cấp thống trị. Trong lịch sử từ
khi xuất hiện kiểu Nhà nước đầu tiên đến nay khơng có Nhà nước nào hồn
tồn tách rời các q trình kinh tế bởi Nhà nước nào cũng dựa trên cơ sở kinh tế
nhất định. Thật ra lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được
phôi thai ngay từ buổi ban đầu, khi Nhà nước chỉ vừa xuất hiện. ở các thời kì
khác nhau, ở các chế độ khác nhau, do tính chất Nhà nước khác nhau nên vai
trị và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau.
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ. Nhà nước chủ nô đã trực tiếp dùng
quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của cải được sản xuất ra.
Trong thời đại của Nhà nước chủ nô, của cải được sản xuất ra bởi những người
nô lệ dưới sự chỉ huy điều khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô, nhưng
khối lượng của cải ấy không được phân phối mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt
bằng bạo lực, các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ
chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế.
Trong thời đại phong kiến Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào
việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết

cấu hạ tầng cho sản xuất nơng nghiệp, khuyến khích quan lại đi mở mang các
vùng đất mới để ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kì. Nhìn
chung các hoạt động này diễn ra một cách tự phát. Tuy nhiên chức năng quản lý
kinh tế được các Nhà nước phong kiến phương Đông nhận thức sớm hơn so với
các Nhà nước phong kiến phương Tây.
Phương thức sản xuất phong kiến tan rã, chủ nghĩa tư bản (CNTB) ra
đời, tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản xuất hiện trong giai đoạn này
là chủ nghĩa trọng thương. Tư tưởng xuất phát của chủ nghĩa trọng thương cho
5


rằng: Tiền là nội dung căn bản của của cải, là tài sản thật sự của một quốc gia.
Do đó mục tiêu chủ yếu của các chính sách kinh tế của mỗi nước là tăng gia
khối lượng tiền tệ và Nhà nước có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt
động ngoại thương để ngày càng tạo ra nhiều của cải cho xã hội.
Chủ nghĩa trọng thương đã trở thành lỗi thời và bắt đầu tan rã ngay từ
đầu thế kỉ XVII, trước hết là ở Anh. Những sự kiện kinh tế - xã hội, khoa học ở
cuối thế kỉ XVII như cách mạng tư sản Anh đã chứng tỏ thời kì tích lũy ban đầu
của chủ nghĩa tư bản đã kết thúc và thời kì sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN)
bắt đầu. Tính chất phiến diện của học thuyết trọng thương trở nên quá rõ ràng
đòi hỏi phải có lý luận mới để đáp ứng với sự vận động và phát triển của sản
xuất TBCN. Trên cơ sở đó, chính trị kinh tế học cổ điển Anh ra đời, tiêu biểu
cho trường phái này là nhà kinh tế chính trị cổ diển Anh Adamsmith (1723 1790) với thuyết “ bàn tay vơ hình” và ngun lý “ Nhà nước không can thiệp”
vào hoạt động của nền kinh tế.
Tuy nhiên đầu những năm 30 của thế kỉ XX, khủng hoảng kinh tế rổ ra
thường xuyên, đặc biệt là khủng hoảng 1929 – 1933 đã chứng tỏ rằng “ bàn tay
vơ hình” khơng thể đảm bảo điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường phát triển.
Từ đó nhiều trường phái kinh tế chính trị tư sản lần lượt xuất hiện, tiêu biểu là
các trường phái kinh tế chính trị mới, trường phái Keynes, chủ nghĩa tự do mới
v.v… trong đó tiêu biểu là trường phái keynes – John Menard Keynes (1884 1946) đã đưa ra thuyết “ Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường” hay còn gọi

là “ Bàn tay hữu hình”. Theo thuyết này để hạn chế khủng hoảng thất nghiệp,
đảm bảo cho sự cân bằng kinh tế thì phải có sự can thiệp của Nhà nước vào
kinh tế cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Song những chấn động lớn vẫn diễn ra và ngày
càng trầm trọng. Điều này làm tăng làn sóng phê phán lý thuyết của Keynes và
làm xuất hiện tư tưởng phối hợp “bàn tay vơ hình” với Nhà nước để điều chỉnh
nền KTTT. Nổi bật là quan điểm “kinh tế hỗn hợp” của Paul Samuelson (1915),
một nhà kinh tế người Mỹ. Theo đó, cơ chế thị trường xác định giá cả và sản
lượng, trong khi đó chính phủ điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế và
6


luật lệ, cả chính phủ và thị trường đều có vai trị quan trọng thiết yếu. Chính vì
vậy vai trị quản lý kinh tế của Nhà nước ngày càng được xác lập và nâng cao.
Qua những điều trên ta nhận thấy rằng cho dù có nhiều thuyết khác nhau
nhưng khơng ai phủ nhận được vai trò kinh tế của Nhà nước trong việc ổn định
và phát triển nền KTTT.
1.2. Tính tất yếu khách quan trong việc xuất hiện vai trò kinh tế của Nhà nước:

Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt
nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện những mục đích của giai cấp thống trị và
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị đó trong xã hội. Tuy nhiên Nhà nước cịn là
lực lượng quản lý toàn bộ xã hội, đảm bảo cho tồn xã hội phát triển. Nhà nước
có vai trị về kinh tế, chính trị, đời sống xã hội; và vai trò kinh tế là một trong
những vai trò quan trọng của Nhà nước. Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ
thuật hiện đại, nhiều loại công cụ lao động tiên tiến đã được sử dụng trong các
lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,… đã ngày càng tạo ra được khối
lượng sản phẩm lớn. Trên thị trường xuất hiện nhiều doanh nghiệp cùng sản
xuất một loại sản phẩm vì thế đã xuất hiện sự cạnh tranh không lành mạnh giữa
các doanh nghiệp. Vì vậy cần sự điều tiết của xã hội đối với sản xuất nhằm hạn

chế sự cạnh tranh khơng lành mạnh
Mặc dù nền KTTT có những ưu điểm to lớn khơng thể phủ nhận được
nhưng nó cũng nảy sinh nhiều nhược điểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sản xuất và đời sống xã hội:
• Sản xuất mù quáng gây ra khủng hoảng (thừa, thiếu): Các nhà sản
xuất vì mục tiêu lợi nhuận đã sản xuất ra khối lượng sản phẩm lớn, vượt quá
nhu cầu của thị trường; trong khi đó khả năng mua sắm của dân cư có hạn, dần
dần dẫn đến sự khủng hoảng trên thị trường hàng hóa – dịch vụ.
• Các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hoạt động không thể tránh
khỏi sự cạnh tranh không lành mạnh, đã làm phá sản nhiều doanh nghiệp. Các
7


doanh nghiệp có thể dùng nhiều thủ đoạn, thế lực để gây khó khăn cho nhau
nhằm hạn chế nhau. Các doanh nghiệp phá sản sẽ dẫn theo tỷ lệ thất nghiệp
tăng nhanh, khiến cho đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn, tệ nạn xã
hội phát triển nhanh.
• Cũng vì mục tiêu lợi nhuận nên một số ngành phát triển được nhiều
doanh nghiệp trú trọng đầu tư. Các ngành có lợi nhuận thấp hơn rất ít được trú
trọng đầu tư. Chính hiện tượng này đã dẫn đến việc đầu tư không cân đối giữa
các ngành, nền kinh tế phát triển lệch lạc. Mặt khác cũng tạo ra sự phát triển
không cân đối giữa các vùng trên một lãnh thổ. Có những vùng dân cư tập
trung đơng do có nền kinh tế phát triển, nhưng có những vùng dân cư tập trung
quá thưa thớt cũng gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế.
• Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, người lao động có thu
nhập ngày càng tăng. Tuy nhiên sự tăng lên này không đều giữa các bộ phận
dân cư đã dẫn đến sự phân hóa thu nhập ngày càng sâu sắc. Đây là một khuyết
tật to lớn của nền KTTT. Bộ phận người giàu vẫn có thu nhập ngày càng cao;
cịn bộ phận người nghèo, người lao động có thu nhập đã cao hơn so với trước
đây nhưng nhìn chung thì vẫn cịn thấp. Sự phân hóa thu nhập đi liền với sự

phân hóa giàu nghèo. Trong xã hội xuất hiện hai bộ phận đối lập với nhau về lợi
ích là người giàu và người nghèo.
• Các doanh nghiệp trong quá trinhg sản xuất đã cố ý, hoặc không cố ý
gây ảnh hưởng đến môi trường sinh thái. Sự ô nhiễm môi trường đất, nước
khơng khí, tiếng ồn,… ngày càng gia tăng nhanh. Hiện tượng phá rừng bừa bãi,
khai thác tài nguyên không hợp lý đã đến mức báo động. Nhiều doanh nghiệp
không chú ý đầu tư cho hệ thống sản xuất nhằm hạn chế sự thải chất độc ra
ngồi mơi trường, cũng một phần do sự đầu tư này khá tốn kém.
• Trong nền KTTT, do mục tiêu trên hết là lợi nhuận, là tiền vì vậy con
người có thể dùng nhiều thủ đoạn để kiếm được lời lãi, mà không để ý gì đến
hậu quả mà cơng việc của mình đã gây ra cho mơi trường. Do đó đã làm cho

8


quan hệ của con người dễ bị bóp méo, và thường bị chi phối bởi dục vọng thấp
hèn nhằm hạn chế đối phương và trục lợi cá nhân. Chính vì vậy mà các tệ nạn
xã hội, việc thanh toán lẫn nhau,… ngày càng gia tăng trong xã hội.
Chính vì những ưu, nhược điểm này mà cần có sự quản lý của Nhà nước
nhằm cân bằng lại thị trường và xã hội, với mục đích là ngày càng làm cho nền
kinh tế phát triên cân đối bền vững, và làm cho xã hội ngày càng ổn định.
2. Sự hình thành cơ chế quản lý Kinh tế mới ở Việt Nam:
2.1. Cơ chế quản lý Kinh tế trước năm 1980:

Sau khi miền Bắc được hồn tờn giải phóng (1954) Nhà nước bắt tay bào
khôi phục và xây dựng nền khinh tế miền Bắc đi lên con đường XHCN. Dựa
vào kinh nghiệm của các nước XHCN đi trước, đất nước ta đã bắt đầu xây dựng
mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung dựa trên hình thức sở hữu cơng cộng về
tư liệu sản xuất (TLSX).
Vấn đề chủ yếu của cơ chế quản lý Kinh tế giai đoạn này là: Kế hoạch

hóa được coi là cơ chế quản lý với kế hoạch là cơng cụ số một, có tính chất
pháp lệnh bắt buộc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với tất cả các ngành, các cấp,
các tổ chức kinh tế xã hội, các đơn vị kinh tế và công dân. Luật pháp về kinh tế
(mới có rất ít) và các cơng cụ quản lý khác đều được xếp sau công cụ kế
hoạch. Nhà nước quản lý trực tiếp bằng các chỉ tiêu kế hoạch mang tính chất
pháp lệnh, quy định tỉ mỉ và chặt chẽ: Sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, phân
phối như thế nào,…Doanh nghiệp Nhà nước chỉ có nhiệm vụ chấp hành các
mệnh lệnh sắp xếp đó. Mọi sự thay đổi trong kế hoạch và tổ chức thực hiện
đều phải báo cáo lên cơ quan có trách nhiệm và khi được chấp nhận mới được
triển khai. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp với mọi đơn vị cấp dưới và các
doanh nghiệp Nhà nước. Đầu vào của doanh nghiệp do Nhà nước cấp phát
hoàn toàn, do vậy toàn bộ sản phẩm làm ra đều phải giao nộp lại cho Nhà nước
để Nhà nước phân phối .

9


Từ quan điểm lịch sử mà xét thì cơ chế kế hoạch hóa đã góp phần đắc
lực trong việc động viên nhân tài, vật lực phục vụ cho các nhiệm vụ sản xuất
và chiến đấu phù hợp với đặc điểm tình hình lịch sử của đất nước ta trong hồn
cảnh chiến tranh và sau chiến tranh đất nước còn nhiều khó khăn. Nhà nước
quản lý được tập trung thống nhất và giải quyết được những nhu cầu công
cộng của xã hội và an ninh. Hạn chế được sự phân hóa giàu nghèo và bất công
xã hội, tập trung nguồn lực để giải quyết được những cân đối lớn của nền Kinh
tế Quốc dân.
Tuy vậy sau năm 1975, khi đất nước đã hồn tồn giải phóng thống
nhất, khi tình hình trong nước cũng như tình hình thế giới đã có nhiều biến đổi.
Chúng ta đã không kịp thời thay đổi cơ chế quản lý cho phù hợp, trái lại vẫn
vẫn tiếp tục duy trì cơ chế cũ ở miền Bắc và áp dụng nguyên xi vào miền Nam.
Vì vậy nhiều hậu quả với những tác hại khôn lường đã xảy ra: Động lực của

người lao động và cán bộ quản lý bị triệt tiêu, do Chủ nghĩa bình quân trong
phân phối nên người lao động không năng động, sáng tạo, không nhiệt tình
làm việc, khơng quan tâm tới tiết kiệm vật tư, nguyên liệu,… cho nên năng
suất lao động ngày càng giảm và chi phí trên một đơn vị ngày càng tăng.
- Hiệu quả kinh tế thấp. Do chỉ sản xuất theo kế hoạch mà kế hoạch lại
không thể bao quát toàn bộ mọi nhu cầu của nền kinh tế và xã hội. Vì thế cho
nên sản xuất khơng phù hợp với tiêu dùng (có cái thì thừa, lại có thứ thì thiếu),
đã gây ra lãng phí rất lớn. Do khơng có cạnh tranh cần thiết nên kỹ thuật, cơng
nghệ chậm được đổi mới. Các doanh nghiệp làm ăn tốt không được tạo điều
kiện phát triển mạnh, còn các doanh nghiệp làm ăn kém khơng bị đào thải kịp
thời. Bao bì đóng gói sản phẩm khơng được đổi mới mẫu mã, vì vậy chất
lượng sản phẩm, mẫu mã ngày càng kém giá thành lại ngày càng cao. Do hạch
toán mang nặng tính hình thức dẫn đến tình trạng lỗ lãi khơng rõ ràng. Tất cả
những điều này làm cho hiệu quả kinh tế chung ngày càng giảm sút rõ ràng.

10


- Hàng hóa trên thị trường thiếu hụt trầm trọng do việc phân phối định
lượng theo tem phiếu. Giá cả hàng hóa được quy định thấp một cách giả tạo
và sự chia cắt thị trường theo kiểu “cát cứ” địa phương.
- Nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, sản xuất đình đốn, giá cả leo thang
dẫn đến lạm phát, đời sống nhân dân khó khăn. Tốc độ gia tăng vốn cho sản
xuất giảm sút (do viện trợ từ các nước ngồi trong thời kỳ chiến tranh nay
khơng cịn nữa), khơng theo kịp tốc độ giảm sút năng suất lao động đã làm
cho lạm phát lên đến 700%, khiến giá cả tăng vọt gấp hàng chục lần bình
thường, đời sống của người lao động càng khó khăn hơn.
Chính tình hình trên đã gây áp lực rất mạnh mẽ từ dưới lên trên nhằm
đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng , từng bước ổn định và nâng cao đời
sống nhân dân.

2.2. Cơ chế thị trường:

Khi nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết q trình sản
xuất và lưu thông sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết sự vận động của
nền kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường là một khái niệm rộng, dựa trên Kinh tế chính trị
Mac–Lênin thì “cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ, môi trường,
động lực và quy luật phân phối sự vận đông của thị trường” ( Kinh tế Chính trị
học, NXB Sự Thật, Hà Nội 1993, trang 65), “Cơ chế thị trường là một hình
thức tổ chức kinh tế, trong đó cá nhân người dùng và các doanh nghiệp tác
động qua lại lẫn nhau trên thị trường để xác định vấn đề trung tâm của tổ chức
kinh tế là: Sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào ? Và sản xuất cho ai ?”. Cũng
có thể khái quát cơ chế thị trường là “bộ máy” kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận
động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản xuất và lưu thơng hàng hóa
thơng qua sự tác động của các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường. Đặc

11


biệt là quy luật giá trị – quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thơng
hàng hóa.
Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn độn mà là một trật tự kinh
tế, là bộ máy tinh vi phối hợp một cách khơng có ý thức hoạt động của người
tiêu dùng và người sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Cơ chế thị
trường bao gồm các nhân tố cơ bản là “cung”, “cầu” và “giá cả thị trường”.
Cầu là nhu cầu của xã hội về hàng hóa được biểu hiện trên thị trường ở
một mức giá nhất định, nó bị giới hạn bởi khả năng thanh toán của dân cư. Hay
cụ thể hơn cầu là lượng một mặt hàng mà người mua muốn mua ở một mức
giá nhất định. Khi giá cả càng cao thì lượng hàng hóa mà người mua muốn
mua càng ít và ngược lại giá cả càng thấp thì lượng hàng hóa mà người mua

muốn mua càng nhiều.
Cung là lượng hàng hóa có trên thị trường và có thể đưa đến thị trường
ở một mức giá nhất định. Nói một cách cụ thể hơn, cung là lượng một mặt
hàng mà người bán muốn bán ở một mức giá nhất định. Trong điều kiện các
yếu tố ảnh hưởng đến cung một loại hàng hóa khơng thay đổi, nếu giá cả hàng
hóa càng cao thì người sản xuất càng cung cấp cho thị trường một lượng hàng
hóa nhiều và ngược lại.
Giữa các nhân tố của cơ chế thị trường có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Giá cả thị trưòng phản ánh tương quan cung – cầu, còn các yếu tố cung,
cầu đều phụ thuộc vào giá cả thị trường. Cơ chế thị trường có những ưu điểm
to lớn có tác động đến tồn bộ nền kinh tế hàng hóa.
Khi cơ chế thị trường phát triển thì kích thích mạnh việc áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hóa sản
xuất.
Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận siêu ngạch làm động lực hoạt động.
Chính động lực này là nguyên nhân kích thích hoạt động của các chủ thể kinh
tế, nó địi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao động cá biệt
12


xuống thấp hơn chi phí lao động xã hội cần thiết. Điều này đòi hỏi phải nâng
cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học
kỹ thuật công nghệ sản xuất.
Cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh
chóng. Sở dĩ như vậy vì trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc: Ai đưa
ra thị trường một loại hàng hóa mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được lợi nhuận
cao nhất. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải năng động thường xuyên.
Trong nền kinh tế thị trường hàng hóa rất đa dạng, phong phú cả về mẫu
mã, chất lượng, kích cỡ, giá cả,…Chất lượng hàng hóa khơng ngừng được
nâng cao để đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất văn hóa và sự

phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội.
Tuy nhiên nền kinh tế thị trường cũng tồn tại khơng ít các nhược điểm
mà hiện nay cần khắc phục.
Do chạy theo lợi nhuận tối đa nên giữa các doanh nghiệp có sự cạnh
tranh khơng lành mạnh: Đầu cơ, bn lậu và lối sống duy vật chất, xem thường
truyền thống và các chuẩn mực đạo đức của xã hội. Trong xã hội khó tránh
khỏi sự lừa gạt lẫn nhau, sự giành giật thị trường, hợp đồng của nhau để gây ra
sự phá sản của các doanh nghiệp. Chính sự cạnh tranh không lành mạnh này
đã dẫn đến sự bất ổn định trong nền kinh tế, dần dần dẫn đến sự bất ổn định
của tồn xã hội.
Vì động cơ lợi nhuận cho nên số nhu cầu công cộng rất cần cho xã hội
và mọi người nhưng lợi nhuận thấp hoặc không có nên khơng có doanh nghiệp
nào thực hiện, những u cầu về an ninh quốc phịng và xã hội khơng được
giải quyết thỏa đáng.
Cũng vì mục đích lợi nhuận là tối đa và duy nhất nên các doanh nghiệp
đã lạm dụng tài nguyên quốc gia, tàn phá đất đai, rừng đầu nguồn, ơ nhiễm
khơng khí, đất đai. Lượng khí thải cơng nghiệp thải ra bầu khí quyển ngày
càng nhiều đã làm cho nhiệt độ trái đất ngày càng nóng lên, gây ra lũ lụt, hạn
13


hán ở nhiều nơi trên trái đất. Diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp nhanh chóng
khiến cho đất đai bị xói mịn, ngày càng bị xa mạc hóa.
Kinh tế thị trường tạo ra sự phân hóa giai cấp do đó đã làm tăng thêm
mâu thuẫn giai cấp. Tác động của kinh tế thị trường đã dẫn đến tình trạng một
bộ phận người trở lên giàu có, cịn một số người khác lại nghèo đi, trở thành
những người làm thuê. Sự ngăn cách giàu nghèo ngày càng mở rộng, tỉ lệ
người thất nghiệp ngày càng tăng. Sự đối kháng về kinh tế là cơ sở của đấu
tranh giai cấp.
Khủng hoảng sản xuất là căn bệnh cố hữu của các nền kinh tế thị trường

phát triển. Do mức cung hàng hóa vượt q mức cầu có thể thanh tốn dẫn đến
tình trạng dư thừa hàng hóa, dẫn đến khủng hoảng sản xuất “ thừa”. Các cuộc
khủng hoảng ln mang tính chu kì. Ngun nhân của tình trạng đó là do mâu
thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này được
thể hiện ở tính cao độ trong từng doanh nghiệp với tính vơ chính phủ trên toàn
bộ nền sản xuất xã hội.
2.3. Sự vận dụng cơ chế thị trường vào Việt Nam:

Thực ra mầm mống của sự đổi mới nền kinh tế, đặc biệt là đổi mới về
cơ chế quản lý ở nước ta đã xuất hiện từ đầu thập kỉ 80. Song phải tới đại hội
lần thứ VI của Đảng (Tháng 12 - 1986) mới có những nhận thức mới và thay
đổi quan điểm.
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở Việt Nam được thực hiện thơng qua q
trình phi tập trung hóa, bao hàm 3 khía cạnh chính:
• Thứ nhất: Tạo ra các đơn vị hành chính, kinh tế tương đối độc lập
nhằm phân chia trách nhiệm trong việc cung cấp các dịch vụ công cộng thiết
yếu nhất, mà thiếu nó thì khơng một xã hội nào tồn tại được.
• Thứ hai: Cơng nhận quyền sở hữu tư nhân, quyền được thuê khoán
của tư nhân đối với một số phương tiện sản xuất cụ thể. Chủ yếu là đất canh tác
14


nơng nghiệp. Nước ta đã thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, nền
kinh tế cá thể và tư nhân ngày càng được khuyến khích phát triển mạnh mẽ. Các
doanh nghiệp Nhà nước cố gắng nâng cao hiệu quả kinh tế của mình, cố gắng
làm cho kinh tế quốc doanh thực sự giữ vai trò chủ đạo trong một số ngành và
trong lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Nhà nước ban hành nhiều quyết định,
chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp tích cực làm ăn, mở rộng sản
xuất kinh doanh.
• Thứ ba: tự do hóa giá cả từng bước nhằm làm cho người sản xuất

nhạy cảm hơn với nhu cầu thị trường. Nhờ đó, tự do hóa giá cả đem lại sức
sống mới cho sản xuất. Nhà nước không can thiệp sâu vào việc định mức giá cả
cho các loại hàng hóa trên thị trường mà để cho thị trường tự điều tiết, làm cân
bằng mức giá hàng hóa.
Sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế Việt Nam từ cơ chế kế hoạch hóa hay cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp, sang cơ chế thị trường và sự phát triển của cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ngày càng
làm cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế
– xã hội của đất nước. Tuy nhiên trong nền kinh tế cũng bộc lộ nhiều tiêu cực
vì vậy càng cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước về kinh tế để dần hạn
chế những tiêu cực đó.
II. VAI TRỊ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ MỚI
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1. Sự cần thiết tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước Việt Nam trong
cơ chế mới.
1.1. Các đặc trưng cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta:

KTTT định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa
trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT, vừa dựa trên những nguyên tắc
và bản chất của CNXH. Do đó nền kinh tế ở nước ta ngoài những đặc trưng

15


vốn có của nền KTTT cịn có những đặc trưng cơ bản rất riêng của CNXH và
hoàn cảnh thực tế ở nước ta. Đó là:
• Về chế độ sở hữu:
Cốt lõi của KTTT là sản xuất hàng hóa trao đổi mua bán hàng hóa, dịch
vụ trên thị trường theo nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi. Theo
ngun tắc trên, sản xuất và trao đổi chỉ xảy ra khi mọi chủ thể tham gia vào

nền KTTT ý thức rõ ràng về sở hữu vật đem trao đổi, cũng như lợi ích từ sự
trao đổi đó. Người lao động tư nhân độc lập có thể là một người lao động cá
thể hay một người lao động tổng thể (công xưởng, xí nghiệp hợp tác,...) mà chỉ
sản phẩm của cả tập thể mới trở thành hàng hóa. Xét trên tồn xã hội thì lao
động của mỗi người lao động trước hết biểu hiện là lao động tư nhân, sản
phẩm làm ra trước hết thuộc sở hữu tư nhân đó (nếu khơng xét đến vấn đề sở
hữu đầu vào của các yếu tố sản xuất) và thơng qua trao đổi thì lao động tư
nhân đó mới biểu hiện thành lao động xã hội. Chính vì vậy “muốn cho những
đồ vật đó quan hệ với nhau như những hàng hóa thì những người giữ hàng hóa
phải đối xử với nhau như những người mà ý chí của họ chi phối các vật đó,….
Do đó, họ phải cơng nhận lẫn nhau là những người tư hữu” (C.Mác va
Ph.Anghen, toàn tập, T23 NXB CTQG Hà nội – 1993, trang 132)
Trong nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản có nhiều hình thức sở
hữu nhưng nền tảng của nó là chế độ tư hữu về TLSX. Các công ty tư bản độc
quyền, một bộ phận các nhà tư bản lớn đã giữ vai trò chi phối sự phát triển
toàn diện nền kinh tế, phân phối của cải làm ra trong xã hội.
Trong nền KTTT định hướng XHCN cũng dựa trên nhiều hình thức sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất như: Sở hữu Nhà nước, sở hữu tư nhân, sở
hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp. Đó là các thể chế kinh tế của những chủ thể tự do,
tự chủ kinh doanh theo Pháp luật. Các thành phần tham gia vừa cạnh tranh, vừa
liên kết, hợp tác với nhau để phát triển với trình độ xã hội hóa cao, thơng qua
đan xen, đan kết nhiều hình thức sở hữu. Nhà nước thực hiện việc hợp nhất
quyền sử dụng TLSX với quyền và nghĩa vụ công dân trong người chủ sở hữu
16


nhằm tạo ra những điều kiện pháp lý để xác định rõ ai là chủ nhân đích thực của
những nguồn lực được đưa vào sản xuất kinh doanh. Việc trả lại cho TLSX chủ
nhân đích thực của nó, sẽ làm cho TLSX được sử dụng một các có hiệu quả
hơn, nền kinh tế sẽ trở nên năng động hơn trước những nhu cầu của dân cư về

hàng hóa, dịch vụ…
• Về cơ chế quản lý và vận hành:
Cơ chế vận hành nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta là cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Cơ chế này đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích
XHCN của nền kinh tế theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị
trường hưống dẫn cho doanh nghiệp.
Trong điều hành quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước cần hạn chế tối đa
các mệnh lệnh hành chính để cho các hoạt động thị trường chủ yếu theo sự
hướng dẫn của các quy luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh; đảm bảo nguyên tắc
vận hành của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”. Nhà nước
không can thiệp trực tiếp, không áp đặt thơ bạo ý chí của Nhà nước vào các
q trình hình thành giá, Nhà nước điều khiển sự hoạt động của nền kinh tế
bằng các chiến lược, các kế hoạch dài hạn, can thiệp vào các hiện tượng và
các quá trình kinh tế bằng các cơng cụ lãi suất thuế và chi tiêu thơng qua cơ
chế lợi ích theo ngun tắc mỗi cá nhân theo đuổi lợi ích riêng, đạt được lợi
ích riêng bằng cách làm cho xã hội.
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta được thể hiện
rõ qua các mặt cơ bản sau:
- Một là: Nhà nước XHCN – Nhà nước của dân, do dân, vì dân – là
nhân tố đóng vai trị “nhân vật trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm
tạo dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế, xã hội thuận lợi cho các
doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường; thực hiện chính sách xã hội,
đảm bảo công bằng xã hội, can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế để đạt
được các mục tiêu đề ra.
17


- Hai là: Cơ chế thị trường là nhân tố trung tâm của nền kinh tế đóng
vai trị trung gian giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Một vấn đề quan trọng nữa

là Nhà nước ta quản lý nền kinh tế và xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị
trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, khắc phục và hạn chế mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và của tồn thể nhân
dân. Thực chất của vấn đề kế hoạch hóa thị trường, xét từ góc độ Nhà nước, có
thể được coi là sự kết hợp giữa điều khiển trực tiếp bằng kế hoạch và điều
khiển gián tiếp thông qua cơ chế thị trường đối với các hoạt động kinh tế trong
xã hội. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng sẽ hợp lý và hiệu quả hơn nếu thông
qua công cụ kế hoạch hóa mà Nhà nước điều tiết thị trường để thị trường điều
tiết sản xuất và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch
với thị trường sẽ càng có thêm điều kiện giải phóng lực lượng sản xuất, đẩy
nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội.
• Về phân phối thu nhập:
Sự thành công của nền KTTT định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững mà cịn phải khơng ngừng nâng cao
đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các vấn đề xã hội.
Trong điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta hiện nay, Đảng ta
rất coi trọng việc mở rộng dần các sự nghiệp phúc lợi xã hội. Trong việc giải
quyết các vấn đề xã hội, Đại hội VII của Đảng nêu bật hai quan điểm lớn:
- Một là: Coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển xã hội là
con người, do con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của các chính sách
và chương trình phát triển xã hội, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân,
mỗi tập thể và cả cộng đồng. Coi trọng lợi ích cá nhân người lao động, xem đó
là động lực trực tiếp để phát triển kinh tế xã hội.
- Hai là: Bảo đảm sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính xã
hội. Mục tiêu của hai chính sách đó là thống nhất tất cả vì con người. Phát

18



triển kinh tế là điều kiện để thực hiện chính sách xã hội, nhưng chính sách xã
hội lại là sự cụ thể hóa mục đích của các hoạt động kinh tế.
Để thực hiện các quan điểm này, nền KTTT định hướng XHCN phải
thực hiện 3 vấn đề sau:
- Một là: Kết hợp các vấn đề lợi nhuận với vấn đề xã hội. Mục đích
của sự kết hợp này là vừa đảm bảo cho các chủ thể tham gia KTTT có được lợi
nhuận cao, vừa được tạo điều kiện chính trị – xã hội bình thường cho sự phát
triển kinh tế.
- Hai là: Kết hợp chặt chẽ những nguyên tắc phân phối của CNXH
và nguyên tắc KTTT như: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn, theo
tài năng, phân phối qua quỹ phúc lợi xã hội,…trong đó phân phối theo lao
động là chính.
- Ba là: điều tiết phân phối thu nhập. Một mặt, Nhà nước phải có
chính sách sao cho giảm bớt sự chênh lệch giữa lớp người giàu và lớp người
ngèo; mặt khác phải có chính sách, biện pháp nâng cao thu nhập chính đáng
của người giàu, người ngèo và của toàn xã hội. Việc điều tiết phân phối thu
nhập được thực hiện theo hai kênh: Một là, Nhà nước XHCN là chủ thể duy
nhất tiến hành điều tiết phân phối thu nhập trên phạm vi toàn xã hội, nhằm
đảm bảo cơng bằng xã hội và bình đẳng phúc lợi cho toàn xã hội; hai là, điều
tiết phân phối thu nhập theo những nguyên tắc của thị trường, cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước.
Đây là những đặc trưng cơ bản của nên KTTT theo định hướng XHCN
ở nước ta. Nhà nước đã dựa vào những đặc trưng này để có thể thực hiện vai
trị kinh tế của mình nhằm bảo đảm phát triển kinh tế và giữ vững định hướng
XHCN.
2. Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay:

19



Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN đòi hỏi phải phát hiện ra những khuyết tật của kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa để tìm ra những định chế có khả năng xóa bỏ những khuyết
tật đó và tạo ra dần dần một kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Vai trò kinh tế của Nhà nước ta được thể hiện ở những mặt sau:
2.1. Giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế:

Định hướng XHCN là hướng nền kinh tế quốc dân phát triển theo con
đường đi lên CNXH – mơ hình xã hội lý tưởng của cách mạng Việt Nam mà
Đảng, Bác Hồ và toàn thể nhân dân ta đã chọn. Vì vậy, giữ vững định hướng
XHCN là nhiệm vụ bao trùm nhất và quan trọng nhất trong việc vạch rõ hướng
đích cho cả q trình phát triển lâu dài, ổn định ở nước ta nói chung, trong đó
có phát triển kinh tế.
Chúng ta biết rằng, nền KTTT không phải là mục tiêu, mà chỉ là phương
pháp, phương tiện để đi tới mục tiêu. Mặt khác, nền KTTT mà ta đang nỗ lực
xây dựng không phải là nền KTTT kiểu TBCN mà là định hướng XHCN. Tuy
nhiên, trên thực tế những giải pháp của Nhà nước ta từ khi đổi mới đến nay
phần lớn mang tính quá độ, trung gian. Để đảm bảo giữ vững định hướng
XHCN cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn đổi mới
theo chiều sâu thì khơng chỉ dừng lại ở những tư tưởng, đường lối chung, mà
phải cụ thể hóa thành những nội dung mang tính xác định về mặt pháp lý.
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII trình bày
tại Đại Hội IX có viết: “ Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán
và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó
chính là nền KTTT định hướng XHCN” (Văn kiện Đại Hội IX, WXBCTQG,
Hà Nội – 2001, tr.23).
Nguyên tắc định hướng XHCN là giới hạn quan trọng hàng đầu cho mọi
biện pháp để hoàn thiện chức năng kinh tế của Nhà nước ta. Nguyên tắc này


20


xuất phát từ cơ sở triết học là mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
trong đó kinh tế là nền tảng của chính trị cịn chính trị đóng vai trị quyết định
phương hướng cho sự phát triển kinh tế. Nguyên tắc định hướng XHCN đòi
hỏi chức năng kinh tế của Nhà nước phải được hoàn thiện trong mối liên hệ
hữu cơ với việc hoàn thiện các chức năng chính trị, chức năng xã hội của Nhà
nước và chức năng kinh tế của Nhà nước cũng hướng tới các mục tiêu cao cả
là giải phóng con người, giải phóng xã hội theo lý tưởng của cách mạng
XHCN.
2.2. Đảm bảo sự vận hành tự do và an toàn của nền KTTT:

Bản chất của quan hệ KTTT là tính độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của các chủ thể kinh tế. Vì thế sự vận hành một cách tự do và an toàn của các
quan hệ kinh tế là điều kiện để ổn định và tăng trưởng nền kinh tế quốc dân.
Nhà nước chính là nhân tố đảm bảo cho nền KTTT phát huy được các ưu điểm
và khắc phục được những khuyết tật vốn có của nó.
Vì vậy vai trò đảm bảo sự vận động tự do và an toàn của nền KTTT bao
hàm những nội dung rộng lớn, trong đó cốt lõi là sự bảo đảm từ phía Nhà nước
cho tự do kinh doanh, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh
doanh cũng như phòng tránh những tổn thất cho các chủ thể kinh doanh. Trên
thực tế vai trò này đòi hỏi Nhà nước trước hết phải dành sự ưu tiên cho hoạt
động hợp pháp của các chủ thể kinh doanh chứ không phải chỉ dành sự thuận
tiện cho hoạt động quản lý Nhà nước. Khi Nhà nước bng lỏng quản lý thì tự
do và an tồn có thể bị xâm hại, dẫn đến tình trạng lấn lướt, vi phạm quyền và
lợi ích của nhau; tình trạng độc quyền, lũng đoạn kinh tế hoặc “ cá lớn nuốt cá
bé”’ theo kiểu luật rừng, nhưng cũng có thể bị xâm hại ngay từ chính sự hoạt
động quản lý Nhà nước. Do vậy việc đảm bảo cho sự vận hành tự do và an

toàn của nền KTTT thực chất là xây dựng và củng cố nền dân chủ XHCN trên
lĩnh vực kinh tế, vì đó là giá trị cao cả của xã hội mà chúng ta đang phấn đấu
xây dựng.

21


Để đảm bảo sự vận hành tự do và an tồn của nền KTTT, Nhà nước đã
đề ra nhiều chính sách cụ thể để phát triển kinh tế, tạo lập hành lang pháp lý để
bảo đảm sự an toàn trong các hoạt động kinh doanh. Hệ thống luật pháp luôn
luôn được sửa đổi, bổ xung cho phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kì kinh
doanh. Chức năng kinh tế của Nhà nước là phương thức, là khuôn khổ của dân
chủ XHCN trong lĩnh vực kinh tế. Cho nên hoàn thiện chức năng kinh tế của
Nhà nước nghĩa là Nhà nước phải đảm bảo cho việc thực hiện các quyền tự do,
dân chủ về kinh tế. Nhà nước phải không ngừng mở rộng quyền dân chủ về
kinh tế – xã hội, đảm bảo hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh của các chủ
thể kinh doanh, phải tạo ra được cơ chế kết hợp hài hịa các lợi ích kinh tế.
Quản lý là quyền của Nhà nước còn hoạt động kinh doanh là quyền của các
chủ thể kinh tế, nhưng hai quyền đó phải thống nhất với nhau, khơng hạn chế
hay loại trừ nhau. Vì thế, trong điều kiện hiện nay nếu không mở rộng và phát
huy các giá trị của nền dân chủ XHCN thì khơng thể vận hành nền KTTT một
cách tự do và an tồn, khơng thể tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền
vững.
2.3. Bảo đảm sự phát triển hài hòa về kinh tế và xã hội:
Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển xã hội, kinh tế khơng phải là
mục đích duy nhất của con người mà con người bao giờ cũng có nhiều nhu cầu
đa dạng trên cơ sở thống nhất biện chứng giữa nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội, ngược
lại xã hội tốt đẹp lại là động lực để cho nền kinh tế phát triển. Điều này đòi hỏi
Nhà nước phải đảm bảo tính văn hóa trong tăng trưởng kinh tế đều tác động

tích cực đến đời sống xã hội, nghĩa là nó đã nghe nói về sự phồn vinh cho xã
hội và cho hạnh phúc của con người, đặc biệt là trong xã hội thị trường hiện
đại. Do đó, gần đây ta đã nghe nói về nhiều dạng tăng trưởng kinh tế mà tự bản
thân chúng là không lành mạnh như tăng trưởng không tạo thêm việc làm, tăng
trưởng một cách thơ bạo, tăng trưởng mất gốc,… Vì vậy việc hồn thiện vai
trị kinh tế của Nhà nước khơng thể xem xét trong mối quan hệ biện chứng

22


giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội một cách toàn diện theo quan
điểm của Đảng là “Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng
bước cải tạo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội” (văn kiện Đại Hội IX, NXB CTQG, Hà Nội – 2001, tr 24).
Nhà nước ta luôn cố gắng phát triển một cách toàn diện, phát triển kinh
tế phải gắn liền với bảo vệ tài nguyên môi trường, giảm tỉ lệ thất nghiệp, khắc
phục những hạn chế do nền kinh tế thị trường gây ra như nền kinh tế phát triển
lệch lạc, chỉ chú trọng vào một số ngành nhất định, sự phân bố không đều của
các vùng kinh tế.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là rất quan trọng, nó
là nhân tố bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế, đảm
bảo sự vận hành tự do và an toàn của nền KTTT và phát triển hài hòa về kinh
tế, xã hội.
3. Mục tiêu, chức năng của quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước Việt
Nam.
3.1. Mục tiêu:

Thông qua tác động đối với nền kinh tế, Nhà nước một mặt kiểm soát và
hỗ trợ sư phát triển của bản thân nền kinh tế và mặt khác điều chỉnh cơ cấu và
thúc đẩy tiến bộ xã hội. Tạo được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định là

một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Nhưng kết hợp
được tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội cịn là một thách thức lớn hơn.
Có một loại ý kiến cho rằng cần tăng trưởng kinh tế trước đã, sau một
thời gian mới tính đến mục tiêu đảm bảo cơng bằng xã hội. Nói theo hiện
tượng mà giới kinh tế hay sử dụng thì trước tiên là cần làm sao cho cái bánh to
ra, sau đó mới tính đến chuyện chia nó ra sao cho cơng bằng. Với cách tiếp cận
này, kinh tế sẽ là lĩnh vực mà Nhà nước tập trung chú ý trước hết. Tuy nhiên
cũng cần nhận xét rằng chính CNTB đã phát triển chính theo con đường như
thế. Một loại ý kiến khác cho rằng cần dự báo được cái giá phải trả về mặt xã
hội cho sự tăng trưởng nhanh và Nhà nước phải có những chính sách tác động
23


đồng thời cả hai mặt kinh tế và xã hội để đảm bảo sự phát triển cân đối nhất
định và bền vững của toàn xã hội và của các cộng đồng dân cư khác nhau
trong đó. Nói cách khác, cần phải vừa làm cho cái bánh to hơn, vừa chia nó
cơng bằng hơn. Quan điểm về việc xây dựng nền KTTT có định hướng XHCN
chính thuộc loại ý kiến này. Tất nhiên, phát hiện ra và đi theo một con đường
mới là việc khó khăn và chứa nhiều rủi ro hơn là đi theo con đường đã có
nhiều vết xe đi qua, nhưng nó đáp ứng yêu cầu của nhân dân Việt Nam. Nói
tóm lại, mục đích tổng qt của sự quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước
Việt Nam là bảo đảm kinh tế đất nước phát triển ổn định, đạt hiệu quả kinh tế
cao; ngăn chặn và giải quyết những vấn đề xã hội xuất hiện trong nền kinh tế,
thực hiện việc giữ vững định hướng XHCN.
3.2. Chức năng:

Chức năng tổng quát của việc quản lý kinh tế của Nhà nước Việt Nam
trong nền kinh tế thị trường là Nhà nước tạo môi trường và điều kiện thuận lợi
cho sự hoạt động của các doanh nghiệp.
- Tạo môi trường cho sản xuất kinh doanh.

Nhà nước kiến tạo và bảo đảm mơi trường kinh doanh an tồn, ổn
định, thuận lợi và bình đẳng để thúc đẩy xã hội phát triển.
Nhà nước, trước hết phải tạo được khung Pháp luật phù hợp với cơ
chế thị trường và sử dụng cơng cụ Pháp luật một cách có hiệu quả để thực hiện
chức năng này, trong đó khuyến khích cạnh tranh và kiểm sốt độc quyền, đảm
bảo mơi trường kinh doanh bình đẳng. Để cho nền kinh tế thị trường có thể
phát triển được, Nhà nước cần thực hiện chính sách cạnh tranh tích cực mà nội
dung của nó là: Bảo đảm và khuyến khích cạnh tranh bình đẳng; kiểm soát và
hạn chế độc quyền; kiểm soát và hạn chế cạnh tranh khơng lành mạnh.
Mặt khác Nhà nước duy trì trật tự an toàn xã hội, đảm bảo các điều
kiện ổn định về an ninh khu vực, an toàn kinh doanh. Bằng các chính sách

24


kinh tế, các công cụ quản lý vĩ mô Nhà nước đã khống chế lạm phát, bảo quản
sự ổn định giá cả của thị trường.
Nhà nước phải là người xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất
kinh doanh. Hệ thống giao thông, đường xá công cộng, hệ thống cung cấp
năng lượng, điện nước cho sinh hoạt và sản xuất ngày càng được đầu tư xây
dựng với quy mô ngày càng to lớn, hiện đại. Hệ thống thông tin liên lạc được
chú trọng phát triển: Tỉ lệ điện thoại trong xã hội ngày càng tăng, vùng phủ
sóng của điện thoại ngày càng mở rộng; mạng Internet ngày càng được sử
dụng phổ biến.
Ngồi ra Nhà nước cịn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về mặt xã hội
như giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa,… ngày càng lớn hơn. Hệ thống các
trường học, trường đào tạo, các bệnh viện được xây dựng nhiều với cơ sở vật
chất hiện đại; hệ thống giáo dục - đào tạo được soạn thảo cho phù hợp với
trình độ của con người, yêu cầu giáo dục ngày càng cao.
- Nhà nước dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thơng qua nhiều kế

hoạch và các chính sách phát triển kinh tế. Các chính sách tiền tệ, lãi suất đã
được sử dụng một cách linh hoạt biến đổi cho phù hợp với nhu cầu của thị
trường.
- Đồng thời Nhà nước cịn là người hoạch định, thực hiện các chính sách
về mặt xã hội, bảo đảm sự thống nhất giữa phát triển kinh tế với phát triển xã
hội; thực hiện công bằng xã hội; công bằng trong phân phối thu nhập. Nhà
nước tạo ra một hệ thống các loại phân phối đảm bảo thực hiện theo nguyên
tắc: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, khơng làm khơng hưởng. Đối với
những người tàn tật, các hồn cảnh khó khăn, các đối tượng chính sách Nhà
nước đã sử dụng các quỹ phúc lợi xã hội để đảm bảo lợi ích cho họ.
- Chức năng quản lý và kiểm soát việc sử dụng các nguồn tài nguyên
quốc gia.

25


Nền kinh tế thị trường phát triển mạnh càng đòi hỏi Nhà nước phải quản
lý chặt chẽ việc sử dụng các nguồn tài nguyên. Các chính sách xây dựng, bảo
vệ và khai thác rừng một cách hợp lý; chính sách khai thác các nguồn tài
nguyên biển, tài nguyên khoáng sản, năng lượng được ban hành nhằm sử dụng
hợp lý nguồn tài nguyên; đảm bảo sử dụng tiết kiệm và tái tạo nguồn tài
ngun có thể tái tạo được.
4. Các cơng cụ Nhà nước sử dụng trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Trong khoa học kinh tế hiện nay không thể khẳng định một yếu tố nào
đó trong hệ thống quản lý chỉ là mục tiêu hay là cơng cụ vì tùy theo góc độ
tiếp cận của người nghiên cứu yếu tố được xem xét có thể được quan niệm là
cái này hay cái kia. chính vì vậy có thể nói mỗi hiện tượng kinh tế có thể được
xem xét vừa là mục tiêu, vừa là cơng cụ.
Tuy nhiên cũng có thể cho rằng hệ thống cơng cụ quản lý có ba yếu tố
cơ bản sau đây:

- Kế hoạch hóa định hướng
- Pháp luật
- Hệ thống các chính sách và cơng cụ kinh tế
Kế hoạch hóa: Là cơng cụ thể hiện các mục tiêu lý tưởng của một nền
kinh tế, nhờ có kế hoạch hóa mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các
doanh nghiệp, của các bộ các ngành các địa phương. Kế hoạch hóa là cơng cụ
duy nhất để chính phủ có thể truyền tải nội dung đường lối chính sách kinh tế
quản lý tập trung cơng cụ kế hoạch hóa đã được sử dụng một cách không thành
công bởi phương pháp kế hoạch và các mục tiêu lựa chọn. Khi chuyển sang cơ
chế mới kế hoạch hóa vẫn cịn là cơng cụ đóng vai trị quan trọng, vấn đề là
phải đổi mới công cụ này cho thích hợp. Kế hoạch trong cơ chế mới khơng
phải là áp đặt mà là định hướng và thực hiện theo dự án.
Hệ thống các chính sách và cơng cụ kinh tế: Sẽ giúp Nhà nước có thể
điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi chính sách kinh tế là một
hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, hướng dẫn
26


các doanh nghiệp hành động một cách phù hợp với lợi ích tồn xã hội. Các
chính sách kinh tế có nhiều loại, tuy nhiên có hai cách sử dụng:
Thứ nhất: Sử dụng để tác động vào phía cung hay cầu. Mỗi chính
sách kinh tế đều có thể tác động vào cả hai phía. Khi Nhà nước định sử dụng
một chính sách cụ thể nào đó để tác động vào phía cung thì phải tạo ra các
phản ứng phụ để hạn chế ảnh hưởng của nó vào phía cầu và ngược lại.
Thứ hai: Phân loại theo khu vực. Các chính sách kinh tế có thể tác
động đồng thời lên các lĩnh vực sau:
- Lĩnh vực tài chính.
- Lĩnh vực tiền tệ.
- Lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
- Lĩnh vực tỷ giá hối đối…

Chính vì vậy một chính sách nào đó được ban hành cần phải xác định rõ
nó là chính sách gì? Chính sách tiền tệ, Chính sách tỷ giá hối đối, Chính sách
đối ngoại,… Để có thể tạo ra cơ chế phối hợp giữa các chính sách.
Các chiến lược phát triển kinh tế kế hoạch hóa định hướng và các
chính sách kinh tế chỉ có thể đi vào cuộc sống khi nó được thể chế hóa Pháp
luật:
Trong nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước, Pháp luật thể hiện vai trị
của nó trên hai phương diện:
Thứ nhất: Pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh
nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có thể làm tổn hại đến
lợi ích của tồn xã hội như: Trốn thuế, buôn lậu, ô nhiễm môi trường, hàng
kém chất lượng…
Thứ hai: Pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh, tự
do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có Pháp luật mà
doanh nghiệp biết được cái gì được làm, cái gì khơng được làm và đương
27


×