Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng tiêu dùng và công tác thẩm định tài chính pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.09 KB, 72 trang )


Lời mở đầu
Đầu tư là một hoạt động cần thiết nhằm đảm bảo cho việc tồn tại và
phát triển không ngừng của xã hội. Muốn có sự phát triển thì tất cả mọi quốc gia,
doanh nghiệp hay công ty đều phải tiến hành đầu tư. Có thể nói nhờ có hoạt động
đầu tư mà mọi lĩnh vực được phát triển cả về chất và lượng, đặc biệt là trong lĩnh
vực kinh tế. Các dự án chính là nhịp cầu nối hoạt động đầu tư đến với hiện thực.
Thông qua dự án mà các ý tưởng đầu tư được thể hiện và thực hiện. Tuy nhiên ý
tưởng đầu tư sẽ trở nên bị méo mó, không được phản ánh trung thực nếu như các dự
án lập ra không chính xác, không được kiểm tra cẩn thận. Xuất phát từ lý do đó mà
môn thẩm định dự án ra đời trong đó có thẩm định tài chính dự án. Thẩm định tài
chính dự án là công việc mà không có một dự án nào bỏ qua vì tài chính là một vấn
đề sống còn đối với dự án. Thấy được tầm quan trọng của công tác thẩm định tài
chính dự án nên trong thời gian thực tập tại công ty kinh doanh bất động sản Kinh
Đô ( là một công ty mà hoạt động chủ yếu là đầu tư vào các dự án), em đã chọn đề
tài :
Công ty Kinh đô với việc hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án"
cho chuyên đề thực tập của mình. Nội dung chuyên đề gồm có 3 phần chính sau:
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về dự án và thẩm định tài chính dự án.
Phần 2: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án tại công ty Kinh Đô
Phần 3: Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại công ty
Kinh Đô.
Em xin chân thành cảm ơn trước hết là giảng viên Trần thị thanh tú vừa là cô giáo
giảng dạy bộ môn Tài chính doanh nghiệp vừa là giáo viên hướng dẫn em làm bản

chuyên đề thực tập này. Tiếp theo em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa
Ngân hàng-Tài chính của trường đã cung cấp cho em những kiến thức về môn thẩm
định tài chính dự án để giúp em hoàn thành chuyên đề của mình. Cuối cùng em xin
cảm ơn cán bộ công ty Kinh Đô nói chung và các cán bộ phòng kế toán tài chính,
phòng kinh doanh đầu tư tiếp thị nói riêng đã tạo điều kiện rất thuận lợi và giúp đỡ
em trong thời gian tiến hành thực tập tại công ty. Sau đây là toàn bộ nội dung


chuyên đề của em.
Phần 1: Những vấn đề cơ bản về dự án và thẩm định dự án.
1.1 Dự án
1.1.1 Khái niệm dự án.
Hiện nay từ “dự án” được sử dụng rất rộng rãi - ta thường nghe nói
đến các dự án đầu tư phát triển tầm cỡ quốc gia hoặc quốc tế, song cũng có thể nói
đến dự án của cá nhân mỗi người, như tiến hành một nghiên cứu thử nghiệm, viết
một cuốn sách Vậy có thể hiểu "dự án” là gì?
Thường có hai cách hiểu về dự án. Theo cách hiểu thứ nhất (tĩnh) dự
án là hình tượng về một tình huống (một trạng thái ) mà ta muốn đạt tới.
Trong cách hiểu thứ hai (động) theo từ điển về quản lý dự án AFNOR,
dự án là một hoạt động đặc thù tạo nên một thực tế mới một cách có phương pháp
và tịnh tiến, với các phương tiện ( nguồn lực đã cho).
Theo nghị định 177/CP ngày 20/10/1994 của Chính phủ quy định:
“ Dự án đầu tư là tập hợp đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo
những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng, cải tiến hoặc

nâng cao chất lượng sản phẩm hay dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian nhất
định”.
Qua đây ta có thể nhận thấy:
+Dự án không chỉ là một ý định hay phác thảo, mà có tính cụ thể và
mục tiêu xác định, nhằm đáp ứng một nhu cầu chuyên biệt.
+Dự án không phải là một nghiên cứu trừu tượng hay ứng dụng, mà
phải cấu trúc nên một thực tế mới, một thực tế mà trước đó còn chưa tồn tại nguyên
bản tương đương. Ngoài ra mỗi dự án phải có tính sáng tạo riêng.
+ Vì liên quan đến một thực tế trong tương lai, bất kì dự án nào cũng
có một độ bất định và những rủi ro có thể xảy ra.
+Cuối cùng, như một hoạt động đặc thù, dự án phải có bắt đầu, có kết
thúc và chịu những hạn chế nói chung là đã cho về nguồn lực( phương tiện).
Ta cũng thấy rõ các đặc trưng sau đây cho phép nhận dạng một dự án:

+Mục tiêu dự án.
+Thời gian (Với các giai đoạn khác nhau).
+Đặc thù (Tính độc nhất vô nhị) của dự án.
+Môi trường xung quanh dự án (nhất là phần tiếp giao giữa dự án với
môi trường xung quanh).
Khi nói đến dự án bao gìơ cũng liên quan đến hoạt động đầu tư bởi lẽ
nếu dự án không được đầu tư thì không thể nào tiến hành được. Khi một doanh
nghiệp có dự án thì một điều tất nhiên là doanh nghiệp đó có hoạt động đầu tư. Đầu
tư là hoạt động chủ yếu quyết định sự phát triển và tăng trưởng của doanh nghiệp.
Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động đầu tư, đặc điểm và sự phức tạp về mặt

kỹ thuật, hậu quả và hiệu quả tài chính, kinh tế xã hội của nó đòi hỏi khi tiến hành
một hoạt động đầu tư cần phải có sự chuẩn bị cẩn thận và nghiêm túc. Có nghĩa là
mọi hoạt động đầu tư phải thực hiện theo dự án thì mới đạt hiệu quả mong muốn. Vì
ta có thể nhận thấy:
1.1.2 Vai trò của dự án.
1.1.2.1 Đối với nhà đầu tư.
-Dự án là một căn cứ quan trọng nhất để nhà đầu tư quyết định có nên
tiến hành đầu tư hay không.
-Là phương tiện để chủ đầu tư thuyết phục các tổ chức tài chính tài trợ
vốn cho dự án.
-Là cơ sở cho các nhà đầu tư xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi đôn
đốc và kiểm tra quá trình thực hiện dự án.
-Là công cụ để tìm kiếm các đối tác liên doanh.
-Là công cụ giúp nhà đầu tư xác định được cơ hội đầu tư tốt, giảm
thiểu rủi ro, giảm thiểu chi phí cơ hội.
-Là căn cứ để soạn thảo hợp đồng liên doanh cũng như để giải quyết
các mối quan hệ trong tranh chấp giữa các đối tác trong quá trình thực hiện dự án.
1.1.2.2 Đối với Nhà nước.
Dự án là tài liệu để các cấp có thẩm quyền xét duyệt cấp giấy phép

đầu tư, là căn cứ pháp lý để tòa án xem xét giải quyết khi có sự tranh chấp giữa các
bên tham gia đầu tư trong quá trình thực hiện dự án sau này.
1.1.2.3 Đối với các tổ chức tài trợ vốn.

Dự án là căn cứ để các cơ quan này xem xét tính khả thi của dự án để
quyết định có nên tài trợ hay không, tài trợ đến mức độ nào cho dự án để đảm bảo
rủi ro ít nhất cho nhà tài trợ.
1.1.3 Phân loại dự án.
Các dự án trong thực tế rất đa dạng và dựa vào các tiêu chuẩn khác nhau, ta có các
cách phân loại khác nhau:
+Xét theo người khởi xướng, ta có các dự án của cá nhân, tập thể hay
quốc gia (quốc tế).
+Xét theo phân ngành kinh tế xã hội, ta có các dự án sản xuất, dự án
thương mại, xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội
+Xét theo địa chỉ khách hàng, ta có dự án xuất khẩu; tiêu thụ địa
phương ( thậm chí nội bộ) hoặc trong nước.
+Xét theo thời gian, ta có dự án ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Một cách tổng hợp, ta có thể phân biệt các dự án lớn và các dự án nhỏ.
*Các dự án lớn ( xây dựng một nhà máy hay một tổ hợp công nghiệp,
quy hoạch phát triển vùng lãnh thổ ) được đặc trưng bởi tổng kinh phí huy động
lớn, số lượng các bên tham gia đông và sử dụng nhiều công nghệ khác nhau, thời
gian thực hiện ra dài, có ảnh hưởng mạnh đến môi trường kinh tế và sinh thái.
Chúng đòi hỏi phải thiết lập các cấu trúc tổ chức chuyên biệt, với các mức phân cấp
trách nhiệm khác nhau, đề ra quy chế hoạt động và các phương pháp kiểm tra chặt
chẽ. Tầm bao của các dự án này rộng tới mức người quản lý không thể nào đi sâu
vào từng chi tiết trong quá trình thực hiện. Trái lại, nhiệm vụ chủ yếu của người
quản lý là, một mặt thiết lập hệ thống quản lý và tổ chức (Phân chia dự án thành các

dự án bộ phận và phối kết hợp các dự án bộ phận đó) cho phép mỗi cấp thực hiện
được trách nhiệm của mình, và mặt khác đảm nhận các mối quan hệ giữa dự án với

bên ngoài.
Các dự án lớn hiện nay thường mang tính quốc gia hoặc quốc tế.
*Các dự án nhỏ, ngoài những đặc tính ngược lại với các dự án lớn,
như không đòi hỏi kinh phí nhiều, thường nằm trong một bối cảnh sẵn có hoặc
không được ưu tiên. Các nguồn lực huy động chẳng những eo hẹp, mà thường
không có ngay. Mục tiêu và trách nhiệm đôi khi không được xác định rõ ràng, và
những người tham gia không có kinh nghiệm trong hoạt động dự án. Chủ nhiệm dự
án thường kiêm luôn cả việc quản lý dự án ( đối nội) lẫn việc liên hệ với các chuyên
gia bên ngoài (đối ngoại).
Mỗi xí nghiệp, cơ quan thường chỉ chủ trì hoặc tham gia vào một
hay vài dự án lớn, trong khi đó có thể có nhiều dự án nhỏ cùng đồng thời thực hiện.
Về phương diện quản lý, các dự án lớn và các dự án nhỏ, tuy có
những nét chung, nhưng cũng nhiều đặc điểm riêng đòi hỏi phải áp dụng các
phương pháp và công cụ quản lý khác nhau. Các dự án lớn thường đặt ra nhiều vấn
đề về quản lý cần được ngiên cứu và giải quyết. Ngược lại, các dự án nhỏ cho phép
áp dụng một cách đơn giản và công hiệu các phương pháp định lượng.
1.1.4 Các giai đoạn của dự án.
Dự án được xây dựng và phát triển trong một quá trình gồm nhiều giai
đoạn riêng biệt, song gắn bó chặt chẽ với nhau và đi theo một tiến trình logic. ở đây
ta phân thành 5 giai đoạn cụ thể là: Xác định dự án, phân tích và lập dự án, duyệt dự
án, triển khai thực hiện, nghiệm thu tổng kết và giải thể.

1.1.4.1 Xác định dự án.
Là giai đoạn đầu tiên trong chu trình dự án có nhiệm vụ phát hiện
những lĩnh vực có tiềm năng để đầu tư phát triển, trên cơ sở đó hình thành sơ bộ các
ý đồ đầu tư. Trong thực tế ý đồ về một dự án đầu tư mới có thể xuất phát từ các
nguồn như sau:
-Từ những chiến lược phát triển ngành hay chiến lược phát triển kinh
tế quốc dân.
-Thông qua việc phát hiện những nguồn tài nguyên, nguyên nhiên vật

liệu chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả.
-Dự án có thể được đề xuất để đáp ứng những nhu cầu sản xuất tiêu
dùng ở thị trường trong nước và ngoài nước còn chưa được thỏa mãn.
-ý đồ dự án có thể nảy sinh từ yêu cầu khắc phục những khó khăn và
trở ngại đối với sự phát triển kinh tế-xã hội do thiếu các điều kiện vật chất cần thiết.
Trên cơ sở các lĩnh vực và ý đồ đầu tư khác nhau được đề xuất, cần
tiến hành nghiên cứu chi tiết hóa, lựa chọn ra những ý đồ dự án có triển vọng nhất
để tiến hành chuẩn bị và phân tích trong giai đoạn tiếp theo.
Việc xác định và sàng lọc các ý đồ dự án có ảnh hưởng quyết định tới
quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án. Dự án có thể thất bại hay không đạt được kết
quả mong muốn, tuy rằng việc thực hiện và chuẩn bị dự án tốt đến đâu, nếu như ý
đồ ban đầu đã hàm chứa những sai lầm cơ bản.
1.1.4.2 Phân tích và lập dự án.
Sau khi xác định ý đồ, mục tiêu và phương tiện của dự án, ta có thể
tiến hành quá trình phân tích và lập dự án. Phân tích và lập dự án là giai đoạn

nghiên cứu chi tiết ý đồ đầu tư đã được đề xuất trên tất cả mọi phương diện như: thể
chế - xã hội, thương mại, tài chính, kinh tế kỹ thuật, tổ chức - quản lý. Để thực hiện
nhiệm vụ này phải thu thập đầy đủ những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu về
thị trường, môi trường tự nhiên, các nguồn nguyên vật liệu tại chỗ, các quy định và
chính sách có liên quan của Chính phủ, về đặc điểm kinh tế- văn hóa - xã hội của
dân cư trong vùng có liên quan đến dự án.
Nội dung chủ yếu của giai đoạn phân tích và lập dự án là nghiên cứu
một cách toàn diện tính khả thi của dự án. Tuy vậy, đối với những dự án có quy mô
lớn, thì trước khi thực hiện nghiên cứu khả thi thì nên có bước nghiên cứu tiền khả
thi. Trong bước nghiên cứu này, tất cả mọi phương diện chuẩn bị và phân tích dự án
đều được đề cập tới, song chỉ ở mức độ chi tiết vừa đủ để chứng minh một cách
khái quát rằng, ý đồ dự án được đề xuất là đúng đắn và việc tiếp tục phát triển ý đồ
này là có tiềm năng. Nghiên cứu tiền khả thi cũng giúp loại bỏ bớt những vấn đề
không cần thiết, cũng như xác định các vấn đề cần đặc biệt chú ý, nhờ đó giúp cho

việc định hướng nghiên cứu và tiết kiệm chi phí chuẩn bị đầu tư vào dự án.
Nghiên cứu khả thi ( còn gọi là lập luận chứng kinh tế kỹ thuật) là
bước nghiên cứu dự án đầy đủ và toàn diện nhất, có nhiệm vụ tạo cơ sở để chấp
thuận hay bác bỏ dự án, cũng như để xác định một phương án tốt nhất trong số các
phương án còn lại. Nghiên cứu khả thi, đúng như tên gọi của nó, nhằm chứng minh
khả năng thực hiện của dự án về tất cả mọi phương diện có liên quan.
Thiết kế và chỉ đạo nghiên cứu khả thi là một công tác phức tạp đòi
hỏi sự tham gia của nhiều lĩnh vực khác nhau. Phạm vi và thời gian nghiên cứu khả
thi phụ thuộc vào tính chất của dự án: dự án có phức tạp hay không, đã được nhận

thức đến mức độ nào, dự án có tính chất sáng tạo hay chỉ là lặp lại. Về kinh phí,
nghiên cứu khả thi thường chiếm khoảng 5% toàn bộ chi phí đầu tư của dự án. Thời
gian nghiên cứu có thể là một tháng, hai năm hoặc dài hơn nữa phụ thuộc vào quy
mô tính chất của dự án. Kết thúc nghiên cứu khả thi cũng là hết giai đoạn phân tích
và lập dự án.
Thực tế đã xác nhận tầm quan trọng của công tác chuẩn bị và phân
tích dự án. Chuẩn bị tốt và phân tích kỹ lưỡng sẽ làm giảm những khó khăn trong
giai đoạn thực hiện, cũng như cho phép đánh giá đúng đắn hơn tính hiệu quả và khả
năng thành công của dự án. Chẳng hạn việc chuẩn bị đầy đủ trên phương diện kỹ
thuật sẽ làm giảm nguy cơ chi phí vượt định mức.
1.1.4.3 Duyệt dự án.
Giai đoạn này thường được thực hiện với sự tham gia của các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức tài chính và các thành phần khác tham gia dự án, nhằm xác
minh lại toàn bộ những kết luận đã được đưa ra trong quá trình chuẩn bị và phân
tích dự án, trên cơ sở đó chấp nhận hay bác bỏ dự án. Dự án sẽ được thông qua và
được đưa vào thực hiện nếu nó được xác nhận là có hiệu quả và khả thi. Ngược lại,
trong trường hợp còn có những bất hợp lý trong thiết kế dự án, thì tùy theo mức độ,
dự án có thể được sửa đổi bổ xung hay buộc phải xây dựng lại hoàn toàn.
1.1.4.4 Triển khai thực hiện.
Giai đoạn triển khai thực hiện dự án bắt đầu khi kinh phí được đưa

vào. Trong giai đoạn triển khai thực hiện có thể chia thành những thời kỳ nhỏ hơn.
Chẳng hạn, thời kỳ thứ nhất là thi công xây dựng các công trình cơ sở. Sau khi hoàn
thành xây dựng cơ bản, dự án chuyển sang thời kỳ phát triển. Trong thời kỳ này dự

án bắt đầu sinh lợi và trả dần những khoản nợ trong thời kỳ đầu. Thời kỳ thứ ba bắt
đầu khi dự án đã đạt tới sự phát triển toàn bộ, nói cách khác các công trình đầu tư
ban đầu đã được sử dụng hết công suất và kéo dài cho tới khi dự án chấm dứt hoạt
động.
Thực hiện dự án là kết quả của một quá trình chuẩn bị và phân tích kỹ
lưỡng, song trong thực tế rất ít khi dự án được tiến hành hoàn toàn đúng như hoạch
định. Nhiều dự án đã không đảm bảo được tiến độ thời gian và chi phí dự kiến,
thậm chí một số dự án đã phải thay đổi thiết kế ban đầu do giải pháp kỹ thuật không
thích hợp hay do thiếu vốn hoặc do nhiều yếu tố khách quan đem lại. Nói chung
những khó khăn mà dự án phải đối phó trong khi thực hiện, đặc biệt trong thời kỳ
thi công là:
+Các khó khăn tài chính: Thường xuất hiện do những biến động về
giá cả hay do việc thiếu các nguồn vốn cần thiết trong quá trình thực hiện. Hậu quả
là dự án bị trì hoãn, chi phí tăng và trong một số trường hợp quy mô của dự án bị
thu hẹp lại.
+Các hạn chế về mặt quản lý: Phổ biến nhất đối với nhiều dự án trong
các nước đang phát triển là thiếu những cán bộ quản lý giỏi, cơ cấu tổ chức, phân
công trách nhiệm không rõ ràng, sự phối hợp kém hiệu quả giữa các cơ quan khác
nhau tham gia dự án. Những yếu kém trong quản lý thường gây ra tình trạng chậm
trễ khi thực hiện và chi phí vượt mức, giám sát thiếu chặt chẽ và kém linh hoạt,
phản ứng chậm trước những thay đổi trong môi trường kinh tế- xã hội.
+Các vấn đề kỹ thuật: Thường xuyên phát sinh trong quá trình thực
hiện các dự án do việc cung ứng vật tư, máy móc, thiết bị (gồm cả đất đai) không

thích hợp hay kém chất lượng, hoặc do những sai phạm, khuyết điểm ngay trong
thiết kế ban đầu hoặc do sự tiến bộ không ngừng trong việc áp dụng công nghệ mới.

+Các biến động chính trị: Những án thực hiện trong một thời gian dài,
có thể vài chục năm, thường phải đối phó với những khó khăn về chính trị. Không
kể tới các biến động hay sự hỗn loạn chính trị, dự án thường chịu tác động của
những thay đổi trong các chính sách kinh tế - xã hội của Chính phủ, hay do mức độ
ưu tiên và ủng hộ của Chính phủ đối với dự án không còn như trước.
Những khó khăn và biến động thường xảy ra trong giai đoạn thực hiện
dự án, như vậy đòi hỏi các nhà quản lý dự án phải hết sức linh hoạt. Đồng thời phải
thường xuyên đánh giá và giám sát quá trình thực hiện để kịp thời thấy được vướng
mắc khó khăn và đề ra các biện pháp giải quyết thích hợp, thậm chí xem xét điều
chỉnh lại các mục tiêu và phương tiện nếu cần.
1.1.4.5 Nghiệm thu, tổng kết và giải thể.
Giai đoạn đánh giá nghiệm thu tiến hành sau khi thực hiện xong dự
án. Đánh giá nghiệm thu khác với việc đánh giá và giám sát như là một bộ phận
quan trọng trong quá trình thực hiện. Đánh giá nghiệm thu có nhiệm vụ làm rõ
những thành công và thất bại trong toàn bộ quá trình xác định, phân tích và lập dự
án, cũng như trong khi thực hiện để rút ra những kinh nghiệm và bài học cho quản
lý các dự án khác trong tương lai.
Kết thúc và giải thể dự án như thế nào cũng là vấn đề cần nghĩ, tốt
hơn cả là ngay từ khi lập dự án. ít nhất ở đây có hai việc quan trọng cần bàn là bàn
giao (hay phân chia) sử dụng các kết quả của dự án, cũng như những phương tiện
mà dự án còn để lại, và bố trí lại công việc cho các thành viên tham gia dự án, nhất

là những người đã được biệt phái hoàn toàn khỏi xí nghiệp, cơ quan họ sau một thời
gian dài làm việc cho dự án.
1.2 Thẩm định dự án.
1.2.1 Khái niệm
Thẩm định dự án là rà soát, kiểm tra lại một cách khoa học, khách
quan toàn diện mọi nội dung của dự án và liên quan đến dự án nhằm khẳng định
tính hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu tư.
1.2.2 Nội dung thẩm định dự án.

Công tác thẩm định dự án là khâu quan trọng trong thời kỳ chuẩn bị
dự án, được thực hiện bằng kỹ thuật phân tích dự án đã được thiết lập để ra quyết
định đầu tư.
Công tác thẩm định dự án gồm các bước: Thẩm định thị trường, thẩm
định kỹ thuật, thẩm định tổ chức- quản lý dự án, thẩm định tài chính và thẩm định
kinh tế - xã hội.
1.2.2.1 Thẩm định thị trường.
Là việc tiến hành phân tích các kết quả nghiên cứu thị trường nhằm
đưa ra các kết luận hợp lý, chính xác về thị trường tiêu thụ sản phẩm của dự án.
Thẩm định thị trường là tiền đề cho việc thực hiện các bước thẩm định tiếp theo.
Thẩm định thị trường giúp nhà đầu tư lựa chọn mục tiêu, xác định rõ phương hướng
và quy mô của dự án.
Thẩm định thị trường bao gồm các nội dung sau:
- Thẩm định nhu cầu hiện tại và tương lai về sản phẩm của dự án trên
thị trường dự kiến xâm nhập chiếm lĩnh: Xác định xem ai là khách hàng tiềm năng,

ai là khách hàng mới, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trong hiện tại và tương lai, mức gia
tăng nhu cầu hàng năm về sản phẩm của dự án.
- Thẩm định các nguồn và các kênh đáp ứng nhu cầu: Mức độ đáp ứng
nhu cầu hiện tại, xác định khối lượng sản phẩm của dự án dự kiến bán ra hàng năm
- Thẩm định các yếu tố về sản phẩm: Chất lượng, giá bán, quy cách,
hình thức trình bày, dịch vụ sau khi bán sản phẩm của dự án…
- Thẩm định các vấn đề về tiêu thụ sản phẩm: Các cơ sở tiếp thị và
phân phối sản phẩm, chi phí cho công tác tiếp thị và phân phối sản phẩm, kênh phân
phối dự kiến ( bán trực tiếp, bán qua các đại lý ), phương thức thanh toán…
-Xem xét các vấn đề về cạnh tranh: Các đối thủ cạnh tranh, mức độ
cạnh tranh trên thị trường, lợi thế so sánh ( về chi phí sản xuất, kiểu dáng, chất
lượng, giá cả…)và khả năng thắng trong cạnh tranh của sản phẩm dự án.
- Thẩm định mức độ thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường của dự án trong
suốt thời gian tồn tại.

1.2.2.2 Thẩm định kỹ thuật
Là việc phân tích mặt kỹ thuật của dự án. Thẩm định kỹ thuật là công
việc phức tạp, đòi hỏi phải có các chuyên gia kỹ thuật chuyên sâu về từng khía cạnh
kỹ thuật của dự án. Sự đúng đắn trong thẩm định kỹ thuật sẽ quyết định tính khả thi
của dự ánvề mặt kỹ thuật, làm cơ sở để tiếp tục các bước thẩm định tiếp theo, nhằm
đưa ra quyết định đầu tư chính xác cho chủ doanh nghiêp.
Nội dung của thẩm định kỹ thuật gồm:
- Mô tả sản phẩm sẽ sản xuất của dự án: Đặc điểm của sản phẩm
chính, sản phẩm phụ, chất thải; các tiêu chuẩn chất lượng cần phải đạt được là cơ sở

cho việc nghiên cứu các vấn đề kỹ thuật khác; các hình thức bao bì đóng gói, các
công dụng và cách sử dụng của sản phẩm.
Các phương pháp và phương tiện để kiểm tra chất lượng sản phẩm,
các yêu cầu về chất lượng sản phẩm phải đạt được, dự kiến bộ phận kiểm tra chất
lượng, các thiết bị và dụng cụ cần thiết cho việc kiểm tra, phương pháp kiểm tra, chi
phí cho công tác kiểm tra.
- Xác định công suất của dự án: Xác định công suất bình thường có
thể của dự án: Là số sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian để đáp ứng nhu
cầu của thị trường mà dự án dự kiến sẽ chiếm lĩnh.
Xác định công suất tối đa danh nghĩa của dự án: là số sản phẩm sản
xuất trong một đơn vị thời gian vừa đủ để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường
mà dự án sẽ chiếm lĩnh, vừa để bù vào những hao hụt tổn thất trong quá trình sản
xuất, lưu kho, vận chuyển và bốc dỡ.
Xác định công suất thực tế khả thi của dự án và mức sản xuất dự kiến
qua các năm cần căn cứ vào nhu cầu thị trường, trình độ kỹ thuật của máy móc thiết
bị, khả năng cung cấp nguyên vật liệu, chi phí sản xuất và chi phí vốn đầu tư.
- Thẩm định công nghệ và phương pháp sản xuất: Lựa chọn trong các
công nghệ và phương pháp sản xuất hiện có loại nào thích hợp nhất đối với loại sản
phẩm mà dự án định sản xuất, phù hợp với điều kiện của máy móc, thiết bị cần mua
sắm, với khả năng tài chính và các yếu tố có liên quan khác như tay nghề, trình độ

quản lý…
Tuỳ thuộc công nghệ và phương pháp sản xuất, đồng thời căn cứ vào
trình độ tiến bộ kỹ thuật, chất lượng và giá cả phù hợp với khả năng vận hành và

vốn đầu tư, điều kiện bảo dưỡng, sửa chữa, công suất, tính năng, điều kiện vận
hành, năng lượng sử dụng, điều kiện khí hậu… mà lựa chọn máy móc thiết bị thích
hợp.
- Xác định nguyên vật liệu đầu vào: Nguyên vật liệu đầu vào bao gồm
tất cả các nguyên vật liệu chính và phụ, vật liêu bao bì đóng gói. Đây là một khía
cạnh kỹ thuật quan trọng của dự án.
- Xem xét các điều kiện về cơ sở hạ tầng: Nhu cầu năng lượng, nước,
giao thông, thông tin liên lạc của dự án phải được xem xét, nó có ảnh hưởng đến
chi phí đầu tư và chi phí sản xuất hay không.
- Xem xét lựa chọn địa điểm thực hiện dự án: Các khía cạnh về địa lý,
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, kỹ thuật… có liên quan đến sự hoạt động và
hiệu quả h oạt động của dự án.
- Thẩm định kỹ thuật xây dựng công trình của dự án: Tìm các giải
pháp kỹ thuật xây dựng vừa đảm bảo yêu cầu sản xuất sau này, vừa rút ngắn được
thời gian xây dựng công trình, mau chóng đưa công trình vào sử dụng, vừa đảm bảo
chi phí xây dựng công trình phải căn cứ vào yêu cầu về đặc tính kỹ thuật của máy
móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất, cơ sở hạ tầng, cách tổ chức điều hành, nhu cầu
dự trữ nguyên vật liệu và sản phẩm, về lao động sẽ sử dụng.
- Thẩm định tiến độ thi công dự án: Việc lập lịch trình thực hiện dự án
phải đảm bảo dự án đi vào hoạt động đúng thời gian dự định.
- Thẩm định vấn đề xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường: Xác định
các chất thải có khả năng gây ô nhiễm môi trường của dự án. Lựa chọn phương
pháp và phương tiện xử lý chất thải căn cứ vào điều kiện cụ thể về luật bảo vệ môi

trường tại địa phương, địa điểm và quy mô hoạt động của dự án, loại chất thải, chi
phí để xử lý chất thải…

1.2.2.3 Thẩm định tổ chức, quản lý dự án.
Là việc phân tích mặt tổ chức, quản lý nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt
động của dự án.
Cần phân tích nội dung sau:
- Xây dựng bộ máy tổ chức, quản lý dự án đảm bảo các nguyên tắc sau:
Các mục tiêu của dự án phải được quy định và hiểu rõ.
Thống nhất về chức năng.
Tổ chức phải tinh gọn, mối quan hệ giữa các bộ phận phải rõ ràng.
Mọi cá nhân phải thực hiện tốt các công việc thuộc trách nhiệm củamình.
Mọi cá nhân đều có quyền hạn tương xứng với trách nhiệm được trao để có thể
hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Sự giám sát và lãnh đạo phải được xác lập đối với mọi hoạt động của dự án để đạt
được mục tiêu đã định.
Quy định rõ phạm vi kiểm soát của các đơn vị.
- Lao động và chính sách tiền lương:
Xác định nhu cầu về lao động: Căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật của sản xuất và hoạt
động điều hành dự án.
Xác định nguồn lao động và chi phí tuyển dụng, đào tạo, chi phí tiền lương; Xác
định hình thức trả lương thích hợp, tính ra quỹ lương hàng năm cho mỗi loại lao
động và cho tất cả lao động của dự án.

Đối với dự án mà trình độ khoa học kỹ thuật chưa đủ khả năng để tiếp nhận một số
kỹ thuật hoặc đảm nhiệm một số khâu công việc thì khi chuyển giao công nghệ sản
xuất phải thoả thuận với bên bán công nghệ đưa chuyên gia sang trợ giúp.
- Phương pháp quản lý mua sắm vật tư, thiết bị, tiến độ dự án:
Lựa chọn đơn vị cung ứng
Quản lý chặt chẽ các điều kiện của hợp đồng mua hàng: điều kiện về thương
mại(số lượng, giá cả, thời gian giao hàng…), điều kiện về kỹ thuật.
Quản lý kế hoạch mua sắm.
Quản lý việc thực hiện dự án: Xây dựng kế hoạch thực hiện dự án, xác định thời

gian thực hiện các công việc, phương pháp giám sát tiến độ dự án.
- Xác định các tiêu thức đánh giá kết quả thực hiện dự án: Chỉ tiêu hiệu qủa
sử dụng nguyên vật liệu cho dự án, hiệu quả sử dụng lao động máy móc…
1.2.2.4 Thẩm định kinh tế - xã hội dự án.
Là đánh giá việc thực hiện dự án có những tác động gì đối với nền
kinh tế và xã hội. Ta phải tiến hành xem xét những lợi ích kinh tế xã hội ròng do
thực hiện dự án đem lại. Lợi ích kinh tế xã hội ròng của dự án là chênh lệch giữa
các lợi ích mà nền kinh tế và xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và
xã hội đã phải bỏ ra khi thực hiên dự án.
Lợi ích mà xã hội thu được chính là sự đóng góp của dự án đối với
việc thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những lợi ích nàycó
thể được xem xét mang tính chất định tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh
tế, phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sách của Nhà nước, góp phần chống
ô nhiễm môi trường, cải tạo môi sinh…hoặc đo lường bằng cách tính toán định

lượng như mức tăng thu cho ngân sách, mức gia tăng số người có việc làm, mức
tăng thu ngoại tệ…
Những chi phí mà xã hội phải bỏ ra cho việc thực hiện dự án cũng
được xem xét trên khía cạnh mang tính chất định tính và định lượng.
Khi thẩm định kinh tế - xã hội dự án cần căn cứ vào các mục tiêu chủ
yếu sau:
Nâng cao mức sống của dân cư được thể hiện gián tiếp qua các số liệu cụ thể về
mức gia tăng sản phẩm quốc dân, mức gia tăng tích luỹ vốn, mức gia tăng đầu tư,
tốc độ phát triển, tốc độ tăng trưởng…
Phân phối lại thu nhập thể hiện qua sự đóng góp của dự án vào việc phát triển các
vùng kinh tế, nâng cao đời sống của tầng lớp dân cư nghèo.
Gia tăng số lao động có việc làm.
Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ.
Nâng cao năng suất lao động, đào tạo lao động có trình độ tay nghề cao, tiếp nhận
chuyển giao công nghệ hoàn thiện cơ cấu sản xuất của nền kinh tế.

Phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của
các ngành khác.
1.2.2.5 Thẩm định tài chính dự án
Là thẩm định dự án dưới giác độ của doanh nghiệp. Đó là việc xem
xét đánh giá và đưa ra những con số cụ thể về khả năng sinh lợi của vốn đầu tư.
Thẩm định tài chính dự án cho phép nhà đầu tư đánh giá tính khả thi về mặt tài
chính của dự án.Do đó, có thể đưa ra được kết luận cuối cùng về tính khả thi của dự
án đầu tư phải xem xét khả năng sinh lợi của vốn đầu tư, tính toán các giá trị biểu

hiện khả năng này được dựa trên dòng tiền ròng của dự án. Cụ thể hơn, nhà đầu tư
phải tiến hành thẩm định các khía cạnh liên quan đến giá trị dòng tiền vào và dòng
tiền ra của dự án.
Điều quan trọng trong thẩm định tài chính dự án là phải xây dựng
được một hệ thống định mức tiêu chuẩn các chỉ tiêu thông qua việc nghiên cứu kỹ
thị trường cũng như mặt bằng hàng hóa, dịch vụ cung ứng ở thời điểm tiến hành
triển khai dự án.
Đây là một số nội dung trong thẩm định dự án và hợp lý nhất cho các
dự án sản xuất. Đối với mỗi loại hình dự án hay các dự án thuộc các lĩnh vực khác
nhau sẽ có những nội dung thay đổi phù hợp.
1.3 Thẩm định tài chính dự án.
1.3.1 Mục đích, ý nghĩa của thẩm định tài chính dự án.
-Nhằm khẳng định tiềm lực tài chính cho việc thực hiện dự án.
-Phân tích những kết quả hạch toán kinh tế của dự án.
Thẩm định tài chính dự án nhằm xác định chi phí và lợi ích của dự án,
từ đó xây dựng và xem xét các tiêu chuẩn đánh giá dự án.Thông qua phân tích, ta
xác định được quy mô đầu tư, cơ cấu các loại vốn, nguồn tài trợ cho dự án, tính toán
thu chi lỗ lãi, những lợi ích thiết thực mang lại cho nhà đầu tư và cho cả cộng đồng.
Đánh giá được hiệu quả về mặt tài chính của việc đầu tư nhằm quyết định có nên
đầu tư hay không? Nhà nước cũng căn cứ vào đây để xem xét lợi ích tài chính có
hợp lý hay không? Dự án có đạt được các lợi ích tài chính hay không và dự án có an

toàn về mặt tài chính hay không? Thẩm định tài chính là cơ sở để tiến hành phân
tích kinh tế xã hội.

Thẩm định tài chính dự án đầu tư giúp cho bảo vệ dự án tốt khỏi bị
bác bỏ, ngăn chặn những dự án tồi, góp phần đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả
vốn đầu tư. ý nghĩa của thẩm định tài chính dự án đầu tư được thể hiện:
+Giúp cho chủ đầu tư lựa chọn được phương án đầu tư tốt nhất.
+Giúp cho cơ quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đánh giá được tính
phù hợp của dự án với quy hoạch phát triển chung của ngành, vùng lãnh thổ và của
cả nước trên các mặt mục tiêu, quy mô, quy hoạch và hiệu quả.
+Giúp cho việc xác định được mặt lợi, mặt hại của dự án trên các mặt
khi đi vào hoạt động, từ đó có biện pháp khai thác các khía cạnh có lợi và hạn chế
các mặt có hại.
+Giúp đỡ các nhà tài chính ra quyết định chính xác về cho vay hoặc
tài trợ cho dự án đầu tư.
+Qua thẩm định giúp cho việc xác định rõ tư cách pháp nhân của các
bên tham gia đầu tư.
Ta có thể thấy sự cần thiết của thẩm định tài chính dự án còn bắt đầu
từ vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với các hoạt động đầu tư. Nhà nước với
chức năng công quyền của mình sẽ can thiệp vào quá trình lựa chọn dự án đầu tư.
Tất cả các dự án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng
góp vào lợi ích chung của đất nước. Bởi vậy trước khi ra quyết định đầu tư hay cho
phép đầu tư, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cần biết xem dự án đó góp
phần đạt được mục tiêu của quốc gia hay không? Nếu có thì bằng cách nào và đến
mức độ nào.

Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng
mang tính chủ quan của người soạn thảo. Vì vậy để đảm bảo tính khách quan của
dự án, cần thiết phải thẩm định. Người soạn thảo thường đứng trên góc độ hẹp để
nhìn nhận các vấn đề của dự án. Các nhà thẩm định thường có cách nhìn rộng hơn

trong việc đánh giá dự án. Họ xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã hội, của cả
cộng đồng để xem xét các lợi ích kinh tế mà dự án đem lại.
Măt khác khi soạn thảo dự án có thể có những sai xót, các ý kiến có
thể mâu thuẫn không logic, thậm chí có thể có nhiều câu văn, những chữ dùng sơ hở
có thể gây ra những tranh chấp giữa các đối tác tham gia đầu tư. Thẩm định dự án
sẽ phát hiện và sửa chữa được những sai xót đó.
1.3.2 Nội dung thẩm định.
1.3.2.1 Dự tính số vốn đầu tư cần cho dự án trong từng giai đoạn thực hiện
cho dự án.
Để đảm bảo cho dự án hoạt động có hiệu quả thì điều quan trọng
trước tiên là phải dự tính được lượng vốn đầu tư cần thiết theo từng loại công việc
trong từng giai đoạn của quá trình thực hiện đầu tư. Ta cần phải tiến hành lập biểu
ghi chép tình hình thực hiện đầu tư, thẩm định số lượng, chất lượng, thời hạn cung
cấp đầu vào cho dự án theo từng loại công việc trong từng giai đoạn của quá trình
thực hiện và thẩm định giá cho các yếu tố đầu vào nhằm dự tính hợp lý số vốn đầu
tư trong từng giai đoạn của chu trình dự án.
Về cơ bản, đây là việc xem xét tính toán tổng vốn đầu tư cho dự án có
đầy đủ, chính xác và phù hợp hay không. Vốn đầu tư cho dự án thường bao gồm
vốn đầu tư cơ bản, vốn lưu động và các chi phí khác.

Vốn đầu tư cơ bản là toàn bộ lượng vốn cần thiết để hoàn thành công
trình sẵn sàng đưa vào sử dụng bao gồm vốn đầu tư xây lắp, vốn đầu tư thiết bị, chi
phí chuẩn bị mặt bằng…
Vốn lưu động là toàn bộ chi phí cần thiết để khai thác và sử dụng
công trình. Vốn lưu động thường bao gồm: Nguyên vật liệu, tiền lương, phụ tùng,
thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán chịu, chi phí đột xuất.
Việc xác định đúng chi phí khác như chi phí thành lập, chi phí trả lãi
vay có chú ý đến giá trị thời gian của tiền, chi phí dự phòng… cũng là yếu tố rất
quan trọng trong quyết định bỏ vốn đầu tư.
Các khoản tài chính dài hạn phải trang trải đủ các chi phí đầu tư của

dự án bao gồm vốn cố định và vốn lưu động cần thiết cho việc vận hành bình
thường. Các khoản tài chính có thể huy động dưới dạng vốn cổ phần và vốn vay dài
hạn. Việc giải quyết nhu cầu của dự án không những quyết định khả năng sinh lợi
trong tương lai mà cả những cân đối thu chi của nó. Bởi vậy, trong quá trình đánh
giá dự án, cơ cấu vốn do chủ đầu tư dự tính sẽ được xét một cách chặt chẽ trên cơ
sở xét đoán khả năng sinh lợi trong tương lai của doanh nghiệp.
Việc xác định đúng lượng vốn cần thiết cho một vòng đời của dự án là
chưa đủ nếu không xem xét đến tiến độ bỏ vốn. Tiến độ bỏ vốn được căn cứ theo
tiến độ triển khai đầu tư dự án, các điều kiện về tạm ứng vốn hoặc thanh toán khối
lượng trong các hợp đồng giao nhận thầu cũng như khả năng tham gia của các
nguồn vốn đầu tư vào dự án.
1.3.2.2 Xem xét các nguồn tài trợ cho dự án, khả năng đảm bảo vốn từ mỗi
nguồn về mặt số lượng và tiến độ.

Các nguồn tài trợ cho dự án có thể là vốn chủ sở hữu, vốn vay và đi
thuê.
Vì vốn đầu tư phải được thực hiện theo tiến độ ghi trong dự án vừa để
đảm bảo tiến độ thực hiện các công việc chung của dự án, vừa tránh ứ đọng vốn nên
các nguồn tài trợ được xem xét không chỉ về mặt số lượng mà cả thời điểm nhận
được tài trợ. Tiếp đó phải so sánh nhu cầu với khả năng đảm bảo vốn cho dự án từ
các nguồn về số lượng và tiến độ. Nếu khả năng nhỏ hơn nhu cầu thì phải giảm quy
mô của dự án, xem xét lại khía cạnh kỹ thuật, lao động để đảm bảo tính đồng bộ
trong việc giảm quy mô của dự án.
1.3.2.3 Lập các báo cáo tài chính dự kiến cho từng năm hoặc từng giai đoạn
của chu trình dự án:
Các báo cáo thường lập và cần lập là báo cáo chi phí sản xuất kinh
doanh, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, bảng cân đối kế toán. Các báo cáo tài
chính là phương tiện thuận lợi và dễ hiểu để tóm tắt các thông tin phù hợp về dự án.
Trên các báo cáo tài chính này sẽ một phần nào dự tính các luồng tiền của dự án. Từ
các thông tin trên các báo cáo tài chính này, các cán bộ thẩm định sẽ tính được các

chỉ tiêu phản ánh về chất lượng dự án, từ đó ra quyết định đối với dự án.
1.3.2.4 Phân tích các chỉ tiêu phản ánh mặt tài chính của dự án
* Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng: NPV
Phân tích tài chính một dự án đầu tư là phân tích căn cứ trên các
luồng tiền của dự án. Sau khi tính đến các yếu tố, chúng ta có thể xây dựng được
một dãy các luồng tiền trong các năm của dự án như sau:
Năm 0 1 2 3 … t

Luồng tiền Co C1 C2 C3 … Ct
Đối với các dự án thông thường, Co là chi phí đầu tư ban đầu, còn lại
là luồng tiền ròng do dự án mang lại trong các năm hoạt động.
Trên cơ sở các luồn g tiền dự tính, các chỉ tiêu về tài chính được tính
toán làm cơ sở cho việc ra quyết định đầu tư.
Giá trị hiện tại ròng: Là chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các luồng
tiền dự tính dự án mang lại trong thời gian kinh tế của dự án và giá trị đầu tư ban
đầu. Do vậy, chỉ tiêu này phản ánh giá trị tăng thêm ( khi NPV dương) hoặc giảm đi
( khi NPV âm) nếu dự án được chấp nhận.
Ta có công thức tính như sau:
Trong đó:
Co:Vốn đầu tư ban đầu
Ci: Luồng tiền ròng dự tính năm thứ i
r : Tỷ lệ chiết khấu
Việc tính toán giá trị hiện tại ròng liên quan đến việc tính toán:
Dự tính lượng tiền đầu tư ban đầu, tức là luồng tiền tại thời điểm 0. Co là luồng
tiền ra nên nó mang dấu âm. Co bao gồm các khoản đầu tư vào tài sản, tạo ra tài sản
của dự án. Nó có thể dưới dạng tiền sẵn sàng cho dự án hoạt động, tạo ra tồn kho,
mua sắm tài sản cố định. Đó là các khoản chi tiêu cho dự án hoạt động. Trong thực
tế, nó bao gồm các khoản chi tại các thời điểm khác nhau trong giai đoạn đầu tư của
dự án.
Dự tính các luồng tìên trong thời gian kinh tế của dự án. Đây là các khoản thực thu

bằng tiền trong các năm hoạt động của dự án. Nó được tính bằng doanh thu ròng

trừ đi các chi phí bằng tiền của từng năm. Các khoản này có thể thu được tại các
thời điểm khác nhau trong năm, nhưng trong tính toán phân tích, người ta thường
giả định các luồng tiền diễn ra vào thời điểm cuối năm.
Dự tính tỷ lệ chiết khấu. Rất khó để xác định một tỷ lệ chiết khấu hoàn toàn chính
xác. Tỷ lệ chiết khấu là chi phí cơ hội của việc đầu tư vào dự án mà không đầu tư
trên thị trường vốn. Cho đến nay vần đề tỷ lệ chiết khấu cho dự án vẫn đang là một
vấn đề tranh cãi cho các nhà nghiên cứu, chưa tìm ra được tiếng nói chung. Tuy
nhiên có thể hiểu một cách khái quát rằng tỷ lệ này được tính bằng tỷ lệ thu nhập
của các tài sản tài chính tương đương. Đó là tỷ lệ thu nhập mà nhà đầu tư mong đợi
khi đầu tư vào dự án.
Giá trị hiện tại ròng là chỉ tiêu cơ bản đựoc sử dụng trong phân tích dự
án. Một số nhà phân tích tài chính cho đây là chỉ tiêu chính tốt nhất giúp cho việc ra
các quyết định đầu tư. Ta nhận thấy khi tỷ lệ chiết khấu r tăng lên, NPV của dự án
sẽ giảm xuống. Mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị tài sản của chủ sở
hữu vì vậy khi thẩm định tài chính dự án, chỉ tiêu NPV rất được các nhà đầu tư quan
tâm.
NPV phản ánh kết quả lỗ lãi của dự án theo giá trị hiện tại (tại thời
điểm 0) sau khi đã tính đến yếu tố chi phí cơ hội của vốn đầu tư. NPV dương tức là
dự án có lãi. NPV = 0 chứng tỏ dự án chỉ đạt mức trang trải đủ chi phí vốn. Còn lại
dự án có NPV âm là dự án bị lỗ.
Chính vì vậy mà ta thấy quy tắc rất đơn giản là chấp nhận dự án có
NPV dương và lớn nhất (nếu có nhiều hơn một dự án có NPV dương). Hay cụ thể
hơn đối với các dự án là độc lập nhau, thì dự án được lựa chọn là dự án có NPV >=

×