Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Vay duy trì phát triển kinh doanh và tăng sức cạnh tranh các doanh nghiệp nhỏ tại các Ngân hàng doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.7 KB, 64 trang )

Lời nói đầu
Với bất cứ một quốc gia nào, bất cứ một nền kinh tế nào thì vốn luôn là yếu tố
hàng đầu quyết định sự tăng trưởng kinh tế.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu sản xuất không đủ tiêu dùng, qua gần 15 năm
đổi mới Việt Nam đã và đang từng bước vươn lên, bước đầu khẳng định được uy tín,
chinh phục được mọi thị trường, chiếm lĩnh thị trường lớn, ổn định góp phần nâng cao
vị thế của mình trên chính trường quốc tế. Hiện nay với cơ chế mở cửa, các thành phần
kinh tế hoạt động một cách bình đẳng theo pháp luật. Nhiều loại hình doanh nghiệp ra
đời và phát triển mạnh mẽ. Cùng với nó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp
trong nước cũng như nước ngoài đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới công
nghệ, trang thiết bị và mở rộng sản xuất.
Theo dự tính trong tương lai thì nhu cầu vốn ngày càng tăng nhằm đáp ứng yêu
cầu của sản xuất kinh doanh tạo ra năng lực mới, nâng cao khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp. Để hoạt động kinh doanh phát triển và cạnh tranh được trên thị trường
các doanh nghiệp cần phải đầu tư một lượng vốn không nhỏ, mà vốn tự có của doanh
nghiệp chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu vốn của họ. Đặc biệt là đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ do vốn tự có ít nên nhu cầu về vốn là rất cấp thiết. Vì vậy ngân hàng
chính là nơi mà các doanh nghiệp này tìm đến để giải quyết các khâu về vốn.
Tín dụng của các ngân hàng thương mại là một trong những hình thức sử dụng
vốn đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng. Tuy
nhiên trong những năm qua, vấn đề tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp
không ít những khó khăn và tồn tại như: sự an toàn, chất lượng, hiệu quả đặc biệt là
vấn đề chất lượng của các khoản tín dụng. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các ngân
hàng trong đó có Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội. Nâng cao chất lượng tín dụng
luôn là một vấn đề cấp thiết và quan trọng đối với các ngân hàng, vì chất lượng tín
dụng liên quan trực tiếp đến quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Chính vì lý do đó mà em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội ”
với mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận và tiễn để nói nên được tầm quan trọng về
chất lượng của các khoản tín dụng.
Bài viết được chia làm 3 phần:


Chương I : Những vấn đề lý luận về chất lượng tín dụng
Chương II : Thực trạng chất lượng tín dụng đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh NHNo&PTNT Tây Hà Nội
Do trình độ lí luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn còn hạn chế nên chuyên đề
không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy
giáo và các anh, chị trong Chi nhánh để chuyên đề được hoàn thiện và đầy đủ hơn.
Chương I: Những vấn đề lý luận về tín dụng và chất lượng tín dụng
1.1. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động của NHTM.
1.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển
của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế kinh tế là điều kiện và đòi hỏi
sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở
thành động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng.
Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ kết hợp với
thương mại và giao lưu quốc tế tạo ra yêu cầu đúc và đổi tiền tại các cửa khẩu hoặc
trung tâm thương mại. Người làm nghề đúc tiền, đổi tiền, thực hiện kinh doanh tiền tệ
bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu được là chênh lệch giá
mua-bán.
Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu, trước đó có thể đã làm nghề cho
vay nặng lãi. Họ thường có két tốt để cất giữ đảm bảo an toàn. Do yêu cầu cất trữ tiền
của các lãnh chúa, các nhà buôn nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện luôn cả
nghiệp vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ làm tăng thu nhập, tăng khả năng đa dạng
hoá loại tiền, tăng qui mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ nhiều
người khác là đièu kiện để thực hiên thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt.
Với những ưu điểm của mình thanh toán không dùng tiền mặt đă thu hút các thương gia
gửi tiền nhiều hơn.

Trong đIều kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc vàng) các chủ cửa hàngvàng
bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền. Những ngân hàng loại này gọi là ngân
hàng của những thợ vàng.
Nghề ngân hàng cũng được bắt đầu từ người cho vay nặng lãi. Một số người cho
vay nặng lãi đã thực hiện cả nghiệp vụ đổi tiền, giữ hộ tiền và thanh toán hộ.
Các ngân hàng đầu tiên dùng vốn tự có để tài trợ cho hoạt động của họ, nhưng
điều đó không kéo dài. Từ hoạt động thực tiễn, các chủ ngân hàng nhận thấy thường
xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, xong tất cả người gửi đều không
cùng rút tiền một lúc nên đã tạo ra số dư thường xuyên ở ngân hàng. Do tính chất vô
danh của tiền, chủ ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để
cho vay. Hoạt động cho vay tạo lên lợi nhuận lớn cho ngân hàng, do vậy các ngân hàng
đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền.
Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng
nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các
ngân hàng có thể được định nghĩa qua các chức năng, các dịchv ụ hoặc vai trò mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng
thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính-bao gồm cả các công ty chứng khoán,
công ty môi giới chúng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang
cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại ngân hàng đang đối phó với
các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm
vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia các hoạt động
bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ môi giới khác.
Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương
diện những loại hình mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp
danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế. Một số định nghĩa dựa trện các hoạt động chủ yếu. Ví dụ, Luật các tổ chức tín
dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi “ Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận

tiền gửi và sử dụng số tiền vay này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Hình thức ngân hàng đầu tiên- ngân hàng của các thợ vàng, hoặc ngân hàng của
những kẻ cho vay nặng lãi- thực hiện cho vay với các cá nhân, chủ yếu của các người
giàu như: quan lại, địa chủ nhằm mục đích phục vụ tiêu dùng. Nhiều chủ ngân hàng
lớn còn mở rộng cho vay đối với vua chúa, nhằm tài trợ một phần cho chi tiêu trong
chiến tranh. Hình thức cho vay chủ yếu là thấu chi- tức là cho khách hàng chi nhiều
hơn số tiền gửi tại ngân hàng, một hình thức cho vay có nhiều rủi ro. Do lợi nhuận từ
cho vay rất cao, nhiều chủ ngân hàng đã lạm dụng ưu thế của chứng chỉ tiền gửi (lưu
thông thay vàng bạc), phát hành tiền gửi khống để cho vay. Thực trạng này đã đẩy
nhiều ngân hàng đến chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản.
Sự sụp đổ của các ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, ảnh hưởng
xấu đến hoạt động mua bán. Hơn nữa lãi suất cao nên những nhà buôn không thể sử
dụng nguồn vay này. Trước tình hình đó những nhà buôn tự thành lập ngân hàng gọi là
ngân hàng thương mại. Như vậy ngân hàng thương mại được hình thành xuất phát từ tư
bản thương nghiệp, và gắn liền với qúa trình luân chuyển của tư bản thương nghiệp.
Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng như
huy động tiể gửi, thanh toán, cất trữ hộ và cho vay. Tuy nhiên, đIểm khác biệt giữa
ngân hàng thương mại và các nhà buôn vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
Đây là các khoản cho vay ngắn hạn, dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hoá với
lãi suất phải thấp hơn lợi nhuận tạo ra do sử dụng tiền vay. Để đảm bảo an toàn, ngân
hàng thương mại ban đầu không cho vay đối với nguời tiêu dùng, không cho vay trung
và dài hạn, không cho vay đối với nhà nước.
Sự phá sản của nhiều ngân hàng thương mại đã gây tổn thất lớn cho người gửi
tiền là nguyên nhân dẫn đến hình thành ngân hàng tiền gửi . Ngân hàng này không cho
vay, chỉ thực hiện giữ hộ, thanh toán hộ để lấy chi phí. Đồng thời tại mỗi nước, trong
những điều kiện lịch sử cụ thể đã hình thành nên nhiều loại ngân hàng khác nhau như
ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng trung ương
(ngân hàng Nhà Nước) tạo nên hệ thống các ngân hàng. Trong đó trừ ngân hàng trung
ương có chức năng xây dựng và quản lý chính sách tiền tệ quốc gia, các ngân hàng còn
lại dù có mốt số nghiệp vụ khác nhau song đều có đắc điểm là kinh doanh tiền tệ và tín

dụng.
Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những
bước tiến rất nhanh. Trước hết đó là sự đa dạng các loại hình ngân hàng và các hoạt
động ngân hàng, Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung vốn trong
ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng vai trò quản lí
nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước;
ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh trong những năm cuối
thế kỷ 20. Nhiều nghiệp vụ truyền thống vẫn được giữ bên cạnh những nghiệp vụ mới
ngày càng phát triển. Ngân hàng thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã
mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Nhiều ngân
hàng mở rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê Các hình thức
huy động cũng ngày càng phong phú. Các loại hình tiền gửi khác nhau đựơc đưa ra
nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh các hình thức huy động tiền
gửi, các ngân hàng đẫ mở rộng các hình thức vay như vay ngân hàng trung ương, vay
các ngân hàng khác. Công nghệ ngân hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động
cơ bản của ngân hàng. Thanh toán điện tử thay thế dần thanh toán thủ công, đẩy nhanh
tốc độ, tính thuận tiện an toàn trong thanh toán. Các loại thẻ đang thay thế dần tiền giấy
và dịch vụ ngân hàng 24 giờ, dịch vụ ngân hàng đang tạo ra các tiện ích ngày càng lớn
cho dân chúng.
Quá trình phát triển của các ngân hàng không những làm gia tăng số lượng các
ngân hàng mà còn làm tăng qui mô của mỗi ngân hàng. Tích tụ và tập trung vốn đ• tạo
ra các công ty ngân hàng cực lớn với số vốn tự có hàng tỷ đô la Mỹ, tổng tài sản hàng
trăm tỷ đô la Mỹ, đủ sức tài trợ cho các ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn toàn
cầu.
Quá trình phát triển của ngân hàng đã tạo ra mối liên hệ ràng buộc ngày càng
chặt chẽ, sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các ngân hàng. Các hoạt động ngân
hàng xuyên quốc gia và đa quốc gia đã và đang được thúc đẩy hình thành các hiệp hội,
các tổ chức liên kết các ngân hàng nhằm tạo ra những chính sách nhằm thống nhất
trong điều hành và vận hành hệ thống ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và quốc
tế.

Lịch sử phát triển của các ngân hàng cũng đã chứng kiến nhiều khủng hoảng và
hoảng loạn ngân hàng trong mỗi quốc gia, khu vực và thế giới, gây tổn thất rất lớn cho
nền kinh tế và mất ổn định chính trị. Có thể nói các vụ sụp đổ ngân hàng cũng là một
khâu tất yếu trong tiến trình phát triển ngân hàng. Các nhà quản lý đã và đang không
ngừng cải tiến chính sách quản lý để quản lý sự sụp đổ và mở đường cho sự phát triển
của khu vực ngân hàng.
1.1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài
chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả.
a). Mua, bán ngoại tệ.
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua,
bán) ngoại tệ: Mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ.
b). Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi
cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi
thanh toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo
quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và
dành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng
cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân
hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất,
chẳng các ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiền tiết
kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tầu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi
hay gấp ba lãi suất tiết kiệm. Như vây, khi cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi ngân hàng
thu “phí” gián tiếp thông qua thu nhập của hoạt động sử dụng tiền gửi đó.
c). Cho vay.
* Cho vay thương mại.
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho
vayđối với người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền
trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với khách hàng (là người mua), giúp họ

có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Cho vay tiêu dùng
Tronggiai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình bơỉ vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương
đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã
hướng các ngân hàng tới người tiêu dùng như là một khách hàng tiềm năng. Sau chiến
tranh thế giới thứ 2, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng
tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển
*Tài trợ cho dự án.
Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng
trở nên năng động trong việc tài trợ trung, dài hạn: Tài trợ xây dựng nhà máy, phát
triển ngành công nghệ cao. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
d). Bảo quản tài sản hộ
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng, các giấy tờ có giá và tài sản khác
cho khách hàng trong két ( vì vậy còn gọi là dịch vụ cho thuê két). Ngân hàng thường
giữ hộ những tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy tờ quan trọng khác của
khách hàng với nguyên tắc an toàn, bí mật, thuận tiện. Dịch vụ này phát triển cùng vời
nhiều dịch vụ khác như mua bán hộ các giấy tờ có giá cho khách, thanh toán lãi hoặc cổ
tức hộ
e) .Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn
thục hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho
thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để
lấy tiền mà chỉ cần viết phiếu chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến ngân hàng
sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh
chóng, chính xác, tiếtkiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng
cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán qua
ngân hàng được mở rộng, càng tạo nhiều lợi ích hơn. Điều này đã khuyến khích khách
hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển
của công nghệ thông tin, bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ

thu, L/C, đã phát triển các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ
f). Quản lý ngân quỹ.
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và cá
nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có
kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng
đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản
lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt
tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng
cần tiền mặt để thanh toán.
g). Tài trợ các hoạt động của chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành
trọng tâm chú ý của các chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong
khi thu không đủ, chínhphủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của
ngân hàng. Ngày nay, chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân
hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết
thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của chính phủ và tài trợ cho Chính phủ.
Các ngân hàng thường mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng
lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được.
h). Bảo lãnh
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân
hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho
khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát
triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá
và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác
i). Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (Leasing)
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn. Nhiều hãng
sản xuất và thương mại đã cho thuê. Cuối hợp đồng thuê khách hàng có thể mua( do
vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng
quyền lựa chọn thuê các thiết bị máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong
đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới

hơn 70% hoặc100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng
có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
j). Cung cấp dịc vụ uỷ thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về
quản lí tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài
sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ thác vay
hộ , uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư Thậm chí, các ngân hàng
đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua
đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi
ngân hàng như một chuyên gia tư vấn về tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu
tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
k). Cung cấp dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép
khách hàng thoả mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân
hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội
mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Trong một vài trường hợp các ngân
hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp
dịch vụ môi giới.
l). Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm
bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong
hoạt động, mất khả năng thanh toán. Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm con,
ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm
hưu trí
m). Cung cấp các dịch vụ đại lý
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc
văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ
ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng
chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
1.1.2. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Tín dụng – Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế.
- Tín dụng được coi là mối quan hệ vay mượn lẫn nhau giữa người cho vay và người đi
vay trong điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Hay nói một
cách khác: Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ kinh tế mà trong đó
mỗi cá nhân hay một tổ chức nhường quyền sử dụng một khối lượng giá trị hoặc hiện
vật cho một cá nhân hay một tổ chức khác với những ràng buộc nhất định về thời gian
hoàn trả, lãi suất, cách thức vay mượn và thu hồi.
Trong quan hệ mua bán chịu, thông thường giá bán chịu hàng hoá cao hơn giá bán trao
tiền ngay, phần chênh lệch này chính là lãi của hàng hoá đem bán chịu. Quan hệ mua
bán chịu chỉ diễn ra giữa các đơn vị liên quan trực tiếp với nhau. Vì vậy nó không đáp
ứng được nhu cầu vay mượn ngày càng tăng của nền sản xuất hàng hoá. Mặt khác, do
đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá trình tái sản xuất, xã hội thường xuyên xuất hiện
hiện tượng thừa vốn tạm thời ở các tổ chức cá nhân này và nhu cầu thiếu vốn ở các tổ
chức cá nhân khác. Hiện tượng thừa thiếu vốn phát sinh do có sự chênh lệch về thời
gian sử dụng vốn của tổ chức hay cá nhân đó. Trong khi đó số lượng các khoản thu
nhập và chi tiêu ở các tổ chức cá nhân trong quá trình tái sản xuất đòi hỏi phải được
tiến hành liên tục. Vậy để khắc phục tình trạng này thì chỉ có ngân hàng – một tổ chức
chuyên kinh doanh tiền tệ mới có khả năng giải quyết được những mâu thuẫn đó.
Vậy tín dụng ngân hàng là gì?
“ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ mà một bên là ngân hàng – một
tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là tất cả các tổ chức, cá
nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho
vay”.
Với tư cách là người đi vay : ngân hàng huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
trong xã hội bằng hình thức nhận tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức cá nhân
hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu để huy động vốn trong xã hội
Với tư cách là người cho vay: Ngân hàng đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân khi có nhu cầu thiếu vốn cần được bổ sung trong hoạt động sản xuất kinh
doanh và tiêu dùng. Với vai trò này, ngân hàng đã thực hiện chức năng phân phối lại
vốn, tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất xã hội.

Đây là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó luôn đáp ứng nhu
cầu về vốn cho nền kinh tế một cách linh hoạt đầy đủ và kịp thời.
Có thể thấy rõ hơn khái niệm về tín dụng ngân hàng qua ví dụ sau :
Với lợi thế về du lịch Việt Nam đang ngày càng thu hút nhiều du khách nước ngoài
“trở thành điểm đến của thiên niên kỷ mới”, do vậy số lượng khách du lịch đến Việt
Nam sẽ tăng lên. Nếu biết tận dụng cơ hội này thì việc xây dựng nên khách sạn không
những đem lại lợi nhuận cho chính bản thân mà còn đem lại sự phát triển cho nền kinh
tế. Nhưng để xây dựng được khách sạn đủ khả năng cạnh tranh thì cần có lượng vốn rất
lớn mà nguồn vốn của chính bản thân thì khó có thể đáp ứng. Trong khi đó có một số
người khác có món tiết kiệm do tích luỹ được trong nhiều năm, tạm gọi là lượng tiền
nhàn rỗi. Nếu hai bên gặp được nhau và bên đối tác sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vốn thì
kế hoạch sẽ trở thành hiện thực. Tuy nhiên, khả năng gặp mặt giữa hai bên có xảy ra
không? Trong nền kinh tế thị trường, hàng ngày hàng giờ không biết xảy ra bao nhiêu
mối quan hệ như vậy. Nó đã hình thành nên: một bên là những người có tiền tích luỹ,
có khả năng cung cấp và phía bên kia là những người có nhu cầu vay cho đầu tư phát
triển. Như vậy nảy sinh vấn đề là làm như thế nào để họ có thể tìm gặp được nhau và
làm thế nào để cùng một lúc thoả mãn được nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi
các nguồn tiết kiệm còn đang nằm phân tán trong xã hội. Không phải bất kì ai cũng có
khả năng hoặc đầu tư vay vốn trên thị trường tài chính, ngoài ra khi giao dịch trên thị
trường tài chính đòi hỏi chi phí về tiền bạc và thời gian rất lớn. Do đó các ngân hàng
thương mại với chức năng cơ bản là trung gian tài chính, hoạt động như một chiếc cầu
nối liền giữa khả năng cung ứng và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội đã cơ bản giải
quyết được những vấn đề nẩy sinh trên. Đồng thời với tư cách là một trung gian, tín
dụng ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay
và một bên là người có nhu cầu vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường bằng những biện
pháp kinh tế năng động và áp dụng các phương pháp kĩ thuật theo hướng hiện đại tiên
tiến, ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn vốn tiền tệ tiết kiệm dự trữ
trong xã hội để chuyển giao đúng nơi, đúng lúc phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất
kinh doanh. Chính nhờ có tín dụng ngân hàng mà những đồng tiền tạm thời nhàn rỗi đã
trở thành tiền hoạt động, biến những đồng tiền phân tán thành nguồn vốn tập trung

phục vụ cho nhu cầu kinh doanh. Qua đó thúc đầy hoạt động sản xuất kinh doanh giúp
cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
1.1.2.2. Các loại hình thức tín dụng
Tín dụng cho vay tồn tại dưới rất nhiều hình thức, nhiều tên gọi. Tuy nhiên, căn cứ vào
một số các tiêu thức khác nhau để phân chia tín dụng ngân hàng. Dưới đây là một số
cách phân chia mà Ngân hàng thường sử dụng khi phân tích và đánh giá.
a). Phân loại theo thời hạn tín dụng.
Theo cách này tín dụng ngân hàng được phân làm 3 loại:
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ sung
sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp, nó có thể được vay cho những
sinh hoạt cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-3 năm. loại tín dụng này
thường dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và biến đổi kỹ thuật, mở
rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dung có thời gian từ 3 năm trở lên. Loại tín dụng
này dùng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản như: Đầu tư xây dựng các xí nghiệp
mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn
Tín dụng trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một phần bổ sung
cho vốn lưu động.
b). Phân loại theo mục đích:
Theo tiêu thức này thì tín dụng ngân hàng được phân chia rất đa dạng và phong phú:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất
động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp thương mại và dịch
vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là cho vay ngắn hạn để bổ xung vốn lưu động
cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
- Cho vay Nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân
bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, con giống, lao động,
- Cho vay cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm
các vật dụng đắt tiền. Ngày nay Ngân hàng còn cho vay để trang trải các khoản chi phí

thông thường của đời sống thông dụng dưới tên gọi là tín dụng tiêu dùng và phát hành
thẻ tín dụng là một ví dụ.
- Thuê mua và các loại tín dụng khác.
c). Phân loại theo căn cứ đảm bảo.
- Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự
bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa trên uy tín. Đối vói những khách hàng
tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì
Ngân hàng có thể cấp tín dụng mà không đòi hỏi nguồn thu nợ bổ xung.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được Ngân hàng cung cấp với điều kiện phải có
tài sản thế chấp hoặc cần có bảo lãnh của bên thứ ba. Đối với khách hàng không có uy
tín cao đối với Ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này căn
cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm một nguồn thứ hai, bổ xung cho nguồn thu nợ thứ
nhất thiếu chắc chắn nhằm bù lại khoản tiền vay trong trường hợp người vay không có
khả năng trả nợ.
d). Phân loại theo đối tượng tín dụng
Theo tiêu thức này thì tín dụng được chia làm 2 loại
- Tín dụng lưu động: loại nào được cấp phát để hình thành vốn lưu động của các
tổ chức kinh tế như cho vay để dự trữ hàng hoá đối với xí nghiệp, thương nghiệp, bù
đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời.
* Loại này được chia làm 2 loại:
+ Cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất.
+ Cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ phiếu, với thời hạn
cho vay là ngắn hạn.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp phát để hình thành tài sản cố
định. Loại này thường được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ
thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các công trình mới. Thời hạn cho vay đối với loại
này là trung và dài hạn.
e). Phân loại theo phương thức hoàn trả tiền vay.
Theo cách này thì khoản cho vay có thể được hoàn trả theo hai cách. Cách thứ nhất là
trả một lần cả vốn gốc và lãi khi đến hạn. Hai là khoản tiền vay sẽ được trả làm nhiều

lần theo nhiều kỳ.
f). Phân loại theo xuất xứ vốn vay.
Có loại do ngân hàng trực tiếp cho vay, có loại cho vay gián tiếp tức là ngân hàng mua
lại nợ từ chủ nợ khác.

g). Phân loại theo hình thức giá tự có .
Một là cho vay bằng tiền, đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng được thực
hiện bằng các kỹ thuật khác nhau.
Hai là cho vay bằng tài sản - loại này được áp dụng phổ biến dưới hình thức tài trợ thuê
mua.
h). Phân loại theo thành phần kinh tế.
- Tín dụng đối với thành phần kinh tế quốc doanh.
- Tín dụng đối với thành phần kinh tê ngoài quốc doanh.
1.2. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm
Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn được gọi là tín
dụng ngân hàng).
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ la tinh credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong
thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hưởng theo nhiều nghĩa khác nhau: ngay cả
trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng nội dung
riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiêu theo các nghĩa sau:
+ Xét trên góc độ dịch chuyển quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang
chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp dịch chuyển quỹ từ
người cho vay sang người đi vay.
+ Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại bán hàng trả
chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán hàng chuyển giao hàng
cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận bên mua phải trả tiền cho
bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch của ngân hàng và các định chế tài chính khác với
các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền

vay cho bên đi vay và sau một thời hạn nhất định người đi vay phải thanh toán vốn gốc
và lãi.
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân, doanh nghiệp và
các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô
điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Từ khái niệm trên, bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
hoàn trả và có đặc trưng sau:
+ Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là
cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những năm 1960 trở
về trứơc hoạt động tín dụng của ngân hang chỉ có cho vay bằng tiền. Xuất phát từ tính
đặc thù đó mà nhiều lúc thuật ngữ tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa vơi
nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài chính
đ• được ngân hàng hoặc các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Đây là một
sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực.
+ Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay chuyển giao tài sản
cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là
yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế khi một số nhân viên tín
dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách
hàng mà lại chú trọng đến các đảm bảo, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng.
+ Giá trị hoàn trả thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là
người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải
xác định lãi xuất danh nghĩa lơn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác lãi xuất thực
phải dương (Lãi suất thực = Lãi xuất danh nghĩa- Tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên, vì lãi suất
chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất
danh nghĩa có thể thấp hơn tỷ lệ lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một thời gian
ngắn.
+ Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn

trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như
hợp động tín dụng, khế ước thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn
trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
1.2.2.1. Hoạt động tín dụng xét ở góc độ hoạt động của ngân hàng
Các khoản tín dụng của ngân hàng có chất lượng tốt khi hiệu quả sử dụng vốn
cao, an toàn và mang lại hiệu quả kinh tế cho chủ thể sử dụng đồng thời mang lại một
mức lợi nhuận nào cho ngân hàng. Dưới đây là một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín
dụng đối với ngân hàng:
a) Các chỉ tiêu về an toàn tín dụng và mức độ rủi ro
- Tỷ lệ nợ quá hạn.
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn là phần còn lại mà đến hạn hoặc có thêm thời gian gia hạn vẫn chưa
đủ thu hồi được.
- Tổng dư nợ quá hạn trong kỳ và tổng dư nợ quá tích lũy.
- Cơ cấu nợ quá hạn “theo tuổi”: Phân nhóm nợ quá hạn theo thời gian quá hạn
và theo khách hàng, ước tính tỷ lệ nợ quá hạn chuyển sang nợ khó đòi. Chi tiết nợ quá
hạn theo tuổi sau:
+) Tên khách hàng.
+) Tổng dư nợ.
+) Qúa hạn dưới 3 tháng.
+) Qúa hạn dưới 3-6 tháng.
+) Quá hạn từ 6 tháng đến 1 năm
+) Quá hạn trên 1 năm
- Tỷ lệ phần trăm nợ quá hạn theo tuổi.
- Tỷ lệ nợ quá hạn trong kỳ: Cùng với tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ thu hồi nợ quá hạn
cho ta biết mức độ quản lý nội bộ đối với nợ quá hạn. Nếu tỷ lệ thu hồi nợ quá hạn nhỏ
thì thực tế Ngân hàng có thể đang đứng trước một rủi ro mất một lượng vốn lớn cho

vay. Tỷ lệ này có thể xác định bằng công thức:
Doanh số thu nợ quá hạn trong kỳ
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Dư nợ quá hạn đầu kỳ+Dư nợ quá hạn trong kỳ
Một tỷ lệ nợ quá hạn được coi là chấp nhận được là dưới 3%
b) Các chỉ tiêu về sử dụng vốn
- Lương dư nợ tích lũy đến thời điểm hết kỳ và cơ cấu dư nợ (ngắn, trung và dài
hạn)
- Tỷ lệ cho vay trên tổng vốn dư nợ
Tổng dư nợ đến kỳ hạn
Tỷ lệ cho vay =
Tổng lượng vốn huy động tích lũy
Tỷ lệ này cho biết khả năng ngân hàng tận dụng nguồn vốn huy động trong hoạt
động tín dụng.
- Cơ cấu cho vay theo mức lãi suất và lãi suất cho vay bình quân. Chỉ tiêu này
cho thấy được mức lãi suất cho vay bình quân của ngân hàng. Nói chung, lãi suất cho
vay bình quân phải lớn hơn lãi suất huy động bình quân thì ngân hàng mới hoạt động
và có lãi.
- Vòng quay vốn tín dụng trong năm
Dư nợ trong năm
Vòng quay vốn tín dụng trong năm =
Dư nợ bình quân năm
Chỉ tiêu này cho ta biết một đồng vốn của ngân hàng được cho vay bao nhiêu
lần trong năm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ ngân hàng thu được nhiều
nợ và chứng tỏ rằng nguồn vốn mà ngân hàng đã đầu tư vào hoạt động kinh doanh có
hiệu quả.
c) Các chỉ tiêu về doanh lợi
- Tổng doanh thu của ngân hàng từ hoạt động tín dụng
- Cơ cấu thu nhập từ các hoạt động tín dụng của ngân hàng và từ trong hoạt
động kinh doanh khác.

- Lợi nhuận trước thuế và lợi nhuận sau thuế của ngân hàng.
1.2.2.2. Chất lượng tín dụng ngân hàng dưới góc độ họat động của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là người trực tiếp quản lý và sử dụng vốn nên đối với họ chỉ tiêu
đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng là doanh thu từ khỏan vay ngân hàng, lợi
nhuận tăng lên nhờ việc sử dụng vốn vay ngân hàng Ngoài ra nó còn thể hiện ở chỗ
nhờ có số tiền vay ngân hàng mà doanh nghiệp có thể đổi mới công nghệ nâng cao chất
lượng, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao tính cạnh tranh, củng cố vị thế doanh nghiệp
trên thị trường, tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống công nhân.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
Để có thể nâng cao được chất lượng tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp (
cả về ngân hàng và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh) ta phải hiểu rõ các nhân tố ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng để từ đó phát huy những ảnh hưởng tích cực
cũng như hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực. Mặt khác cả ngân hàng và doanh nghiệp
phải cố gắng linh hoạt để phù hợp với quy định của Nhà nước trong hoạt động tín dụng.
Có như thế thì cả ngân hàngvà doanh nghiệp mới để ra các biện pháp đúng đắn, cụ thể,
linh hoạt để đạt được mục tiêu hoạt động của mình một cách tốt nhất. Sau đây chúng ta
lần lượt nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng thuộc về
ngân hàng và doanh nghiệp.
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc về ngân hàng
- Chính sách tín dụng
Đây là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng, nó có ý nghĩa quyết
định sự thành công hay thất bại của Ngân hàng. Chính sách tín dụng phải phù hợp với
đường lối phát triển kinh tế của đảng và nhà nước, đồng thời kết quả hài hòa giữa
quyền lợi của người gửi tiền, của ngân hàng và người sử dụng vốn vay. Muốn vậy,
chính sách tín dụng phải được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn.
- Thông tin tín dụng.
Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết định cần
thiết liên quan đến việc cho vay, quản lý đảm bảo tiền vay, giảm thiểu rủi ro tín dụng,
nâng cao hiệu quả tín dụng. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ nguồn thông tin
sẵn có của ngân hàng từ thông tin tín dụng(CIC), từ khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh

×