Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Môi trường đầu tư với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.95 KB, 83 trang )

Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Lời nói đầu
Trong những năm qua sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ( DNNVV)
có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân: huy động nguồn lực cho đầu tư
phát triển, có ý nghĩa then chốt trong quá trình giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội như xoá
đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực trong cả nước…Bên
cạnh đó chúng ta đang trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới do đó phải biết tận
dụng các các lợi thế so sánh, chính các DNNVV là cơ hội để sử dụng tốt các lợi thế này
Tuy nhiên đặc điểm chung của các DNNVV ở tất cả các nước, nhất là trong giai
đoạn mới hình thành và phát triển là còn thiếu tiềm lực về vốn, công nghệ, kĩ năng quản lý
non kém, khả năng cạnh tranh trên thị trường yếu kém. Trong thời gian qua Chính phủ đã
tiến hành nhiều cải tổ, đổi mới để cải thiện môi trường đầu tư, trợ giúp DNNVV phát triển.
Tuy vậy môi trường đầu tư ở Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập : Hệ thống Pháp luật chưa đầy
đủ và đồng bộ, thủ tục đầu tư còn phức tạp, gây phiền hà cho các nhà đầu tư, cơ sở hạ tầng
yếu kém…
Với việc nhìn nhận và đánh giá môi trường đầu tư, trong đó DNNVV hoạt động, là nhân
tố quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của DNNVV, em đã chọn đề tài “Môi trường
đầu tư với sự phát triển của DNNVV Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Nội
dung chính của luận văn bao gồm ba phần chính sau:
Chương 1: Môi trường đầu tư nhân tố quan trọng cho sự phát triển DNNVV ở Việt
Nam
Chương2 : Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với sự phát triển của DNNVV
Chương 3: Một số giải pháp cải thiện môi trường đầu tư phát triển ở Việt Nam

Do còn hạn chế về thời gian và kiến thức chuyên môn nên luận văn này còn nhiều
thiếu sót, em kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô.
Em chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai và Phòng xúc
tiến phát triển DNNVV - Cục phát triển DNNVV - Bộ kế hoạch đầu tư đã giúp đỡ và tạo
điều kiện cho em hoàn thành luận văn này.
1
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C


Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư

Chương 1 : Môi trường đầu tư, nhân tố quan trọng cho
sự phát triển các DNNVV ở Việt Nam
I.Doanh nghiệp nhỏ vừa trong sự phát triển kinh tế xã hội
1.Khái niệm
Theo quy định tại điều 3 Nghị định 90/2001/NĐ-Cp ngày 23/11/2001 về
trợ giúp phát triển DNNVV thì: “DNNVV là các cơ sở sản xuất kinh doanh
độc lập đã đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành,có vốn đănng kí
2
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người”
2.Đặc điểm hoạt động
Hầu hết các nước đều coi DNNVV là một loại hình doanh nghiệp
không phân biệt theo hình thức sở hữu mà được phân biệt trên khía cạnh quy
mô nhiều hơn. Các DNNVV là các doanh nghiệp có quy mô về hoạt động
nhỏ, doanh thu và lợi nhuận không phải là lớn và hầu hết đều hoạt động trong
các ngành sử dụng nhiều lao động. Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác
DNNVV có những đặc điểm nhất định trong quá trình hình thành và phát
triển. Loại hình DNNVV có những đặc điểm sau:
1. 2.1. Về điểm mạnh
So vói các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế như các
doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty, các công ty đa quốc
gia thì DNNVV có những điểm mạnh sau:
Dễ khởi nghiệp: Hầu hết các DNNVV đều dễ dàng bắt đầu ngay sau khi có ý
tưởng kinh doanh và một số ít vốn cũng như lao động nhất định. Loại hình
doanh nghiệp này hầu như không đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn ngay trong
giai đoạn đầu và rất nhiều các doanh nghiệp lớn các công ty đa quốc gia được

bắt đầu từ những doanh nghiệp nhỏ
Linh hoạt : Do hoạt động với quy mô nhỏ nên hầu hết các DNNVV đều rất
năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi của môi trường.Trong một số
trường hợp các DNNVV còn năng động trong việc đón đầu những biến động
đột ngột của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội hay các dao động đột
biến trên thị trường. Trên góc độ thương mại thì nhờ tính năng động này mà
các DNNVV dễ dàng tìm kiếm những thị trường ngách và gia nhập thị trường
này khi thấy việc kinh doanh có thể thu nhiều lợi nhuận hoặc rút khỏi thị
trường này khi công việc kinh doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả hơn.
Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc
các nền kinh tế đang phát triển
Lợi thế so sánh trong cạnh tranh: So với các doanh nghiệp lớn thì DNNVV có
lợi thế so sánh trong cạnh tranh đó là khả năng phát huy những nguồn lực đầu
vào như lao động hay tài nguyên hoặc nguồn vốn tại chỗ khi khai thác và phát
3
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
huy các ngành nghề truyền thống của từng địa phương. Bên cạnh đó các
DNNVV còn có nhiều lợi thế hơn các doanh nghiệp lớn trong việc theo sát
nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, qua đó sáng tạo ra nhiều loại hàng
hoá và dịch vụ mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
Theo khía cạnh này, DNNVV có lợi thế trong việc định hướng và làm xuất
hiện nhiều nhu cầu mới của người tiêu dùng và, nhờ sự phát triển của các
DNNVV mà hiện nay đã có nhiều loại sản phẩm và dịch vụ mới ra đời, cung
cấp cho người tiêu dùng.
Tạo ra các tác động ngoại lai : Trên góc độ kinh tế thì các DNNVV tạo ra các
tác động ngoại lai rất mạnh cả về mặt tích cực và tiêu cực. Với lợi thế trong
việc khai thác các nguồn lực sẵn có của các địa phương đặc biệt là các ngành
sử dụng nhiều lao động, DNNVV đã có những tác động tích cực trong việc
tạo ra việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho dân cư tại

đại phương hoặc duy trì và bảo vệ các môi trường văn hoá truyền thống của
dân tộc. Bên cạnh đó sự phát triển của các DNNVV còn có các lợi ích như
giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giảm sự cách biệt giữa
thành thị và nông thôn, qua đó góp phần giúp Chính phủ giảm các tệ nạn xã
hội và giúp Chính phủ giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội khác.
2. 2.2.Về các điểm yếu
Bên cạnh các điểm mạnh được chỉ ra ở trên thì các DNNVV còn có các
điểm yếu nhất định như thiếu các nguòn lực để tiến hành các công trình lớn,
hoặc các dự án đầu tư lớn, các dự án đầu tư công cộng.
Các DNNVV không có các lợi thế kinh tế theo quy mô và trong một số nước
nhất định thì loại hình doanh nghiệp này thường lép vế trong mối quan hệ với
ngân hàng, với Chính phủ và với giới báo chí cũng như thiếu sự ủng hộ của
công chúng. Nhiều DNNVV bị phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp lớn
trong quá trình phát triển
Dễ gặp rủi ro trong kinh doanh: Kinh nghiệm ở nhiều nước trên thế giói cho
thấy rằng càng có nhiều DNNVV ra đời thì cũng có nhiều doanh nghiệp phải
phá sản, có những doanh nghiệp bị phá sản sau một thời gian hoạt động rất
ngắn. Theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới thì các DNNVV có
tỷ lệ phá sản và thất bại cao trong năm hoạt động thứ 4
4
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Bên cạnh các tác động ngoại lai tích cực thì DNNVV cũng gây ra những
tác động ngoại lai tiêu cực trong nền kinh tế. Do vốn ít các doanh nghiệp này
không quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ môi trường hoặc khi doanh nghiệp bị
phá sản do hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả gây sự thiếu tin
tưởng của dân chúng đối với loại hình doanh nghiệp này, gây khó khăn cho
người tiêu dùng khi chọn lựa các sản phẩm tiêu dùng cũng như khi lựa chọn
nhà cung cấp dịch vụ. Điều này làm giảm uy tín của loại hình DNNVV đối
vói công chúng và người lao động.

3.Vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở các nước đang phát triển
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, hoạt động của các
DNNVV đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội. Vai trò của các DNNVV được biết đến như là các cơ sở sản
xuất kinh doanh có khả năng:
- Tạo nhiều việc làm với chi phí thấp
- Cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hoá dịch vụ và làm tăng
GDP cho nền kinh tế
- Tăng cường kĩ năng quản lý và đổi mới công nghệ
- Góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập triong xã hội, xóa đói giảm
nghèo và tăng sự công bằng trong nền kinh tế
- Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho nền kinh tế
năng động và hiệu quả hơn
- Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế với nhau
Mức độ đóng góp của DNNVV vào sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia được
thể hiện ở mức độ thu hút lao động, VĐT và tạo ra giá trị gia tăng góp phần
tăng trưởng kinh tế
Bảng 1 : Vai trò của DNNVV ở một số nước
N ư ớc
% tổng số
doanh nghiệp
% tổng số lao
động
% tổng giá trị gia
tăng của KV
KTTN
% Trong xuất
khẩu
Các nước kinh tế phát triển
Mỹ 99,7 52 51 31

Nhật 99,7 72.7 55,6 13,5
Anh 99,8 55,4 51 -
5
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Pháp 99 47 46,3 26
Hàn Quốc 99,1 77,4 34,7 43
Singapore 91,5 51,8 50,4 16
Các nước đang phát triển
Thái Lan 97,9 70 50,4 50
Indonesia 98 88,3 38,9 18,4
Philippinne 99,48 66,21 68,2 60
Malaysia 84 12,17 19,13 15
Nguồn : Hồ sơ của các DNNVV của APEC- Năm 2004
Như vậy qua bảng trên có thể thấy DNNVV có vai trò hết sức quan
trong trong sự phát triển của mỗi quốc gia ngay cả đối với các quốc gia phát
triển, DNNVV tạo ra phần lớn các công ăn việc làm và đóng góp đáng kể vào
giá trị xuất khẩu của mỗi quốc gia.
4. Điều kiện để phát triển DNNVV ở Việt Nam
3. 4.1 Điều kiện khách quan
Cũng như các thành phần khác của nền kinh tế, các DNNVV chịu tác
động của môi trường bên ngoài như môi trường đầu tư, môi trường văn hoá
xã hội, môi trường công nghệ và môi trường chính trị luật pháp. Các yếu tố
môi trường bên ngoài này có thể tạo ra các cơ hội hay các rào cản đối với sự
phát triển DNNVV trong từng giai đoạn phát triển nhất định
Môi trường chính trị và luật pháp: Đây là điều kiện quan trọng tác động
đến sự phát triển của các DNNVV thông qua việc Chính phủ ban hành các cơ
chế chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô và các chính sách định hướng phát triển
các DNNVV, hạn chế hoặc khuyến khích sự phát triển của DNNVV trong
từng thời kì, trong từng ngành nghề nhất định nhằm khai thác tốt hơn các

nguồn lực của nền kinh tế .
Ngoài ra sự tác động của môi trường chính trị luật pháp còn thể hiện ở
thái độ, hành vi của bản thân những người đại diện cho cơ quan hành pháp
khi giả quyết các vấn đề của DNNVV.
Các yếu tố kinh tế : Tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu ngưòi tăng lên
sẽ góp phần tăng thu nhập của các tầng lớp dân cư, tăng sức mua của nền kinh
tế từ đó mở rộng thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp, trong đó có
DNNVV. Tiết kiệm nền kinh tế tăng lên sẽ làm tăng nguồn vốn đầu tư của các
khu vực kinh tế trong đó có DNNVV nhờ đó mà tiềm lực kinh tế của các
6
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
DNNVV sẽ được tăng cường, mở rộng các cơ hội đầu tư đổi mới công nghệ
cũng như đa dạng hoá sản phẩm, thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của người
tiêu dùng. Sự phát triển kinh tế cũng tạo ra những thách thức đối với các
DNNVV khi mà mức sống của các tầng lớp dân cư ngày càng tăng cao, người
dân trở nên khó tính hơn khi lựa chọn sản phẩm tiêu dùng và nơi làm việc,
điều này buộc các DNNVV phải kinh doanh ngày càng bài bản hơn, quan tâm
nhiều hơn đến khách hàng bên ngoài và bên trong doanh nghiệp.
Các yếu tố Văn hoá xã hội : Ở đây được xem như sự thừa nhận của xã
hội với sự tồn tại và phát triển của DNNVV. Nếu người tiêu dùng và các cá
nhân trong xã hội ủng hộ DNNVV thì họ sẽ tiêu dùng sản phẩm của DNNVV
nhiều hơn, đầu tư cho các DNNVV nhiều hơn và bản thân họ cũng sẵn sàng
làm việc cũng như đem lại lợi ích nhiều hơn cho các DNNVV và cho toàn xã
hội. Thái độ của dân chúng đối với sự phát triển của DNNVV còn thể hiện ở
nhận thức của dân chúng đối với vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế
đặc biệt là thái độ đối với các cá nhân chủ doanh nghiệp thành công đã đem
lại nhiều việc làm cũng như lợi nhuận cho bản thân chủ doanh nghiệp và cho
xã hội. Các yếu tố văn hóa còn tác động đến sự phát triển của DNNVV thông
qua việc hình thành và phát triển phong cách quản lý trong các DNNVV qua

đó hình thành văn hoá kinh doanh trong DNNVV .
Các yếu tố công nghệ : Được tính đến như việc xuất hiện các loại máy
móc thiết bị, cách thức sản xuất cũng như nguyên vật liệu mới trên thị trường
giúp cho các DNNVV tăng năng suất lao động, nhờ đó mở rộng các cơ hội
lựa chọn và áp dụng công nghệ phù hợp vào sản xuất và quản lý nhằm tăng
giá trị của sản phẩm và tăng kĩ năng quản lý của bản thân chủ doanh nghiệp.
Các yếu tố công nghệ hiện nay còn được xem xét bởi sự phát triển của kinh tế
tri thức qua đó nâng cao khả năng làm việc của từng nhân viên và của doanh
nghiệp trong các DNNVV. Xu hướng phát triển công nghệ của thế giới và
từng quốc gia có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của loại hình doanh
nghiệp quy mô nhỏ và vừa, đặc biệt là sự sát nhập của ngành công nghệ thông
tin liên lạc và viễn thông.
Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích như sự tiện lợi và tiết kiệm chi phí thì
sự phát triển của công nghệ mới không phải lúc nào cũng là ưu thế cho
7
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
DNNVV mà nó còn là mối đe doạ của các doanh nghiệp này khi xét đến
nguồn chi phí hạn hẹp và khả năng hạn chế của người quản lý khi áp dụng
công nghệ vào sản xuất. Điều quan trọng nhất đối với loại hình doanh nghiệp
này đó là lựa chọn được các công nghệ phù hợp với quy mô, đặc điểm và
năng lực của doanh nghiệp mình.
4. 4.2 Điều kiện chủ quan
Ở đây có thể kể đến như sự tác động của môi trường cạnh tranh từng
ngành, sức mạnh của đối thủ cạnh tranh, đặc điểm tính chất của ngành thể
hiện ở mức độ khó dễ khi gia nhập ngành, quyền thương lượng của các nhà
cung cấp và người tiêu dùng cũng như mức độ giới hạn của hàng hoá thay thế.
Tất cả các yếu tố này sẽ tạo ra những cơ hội phát triển cho bản thân các
DNNVV trong từng thời kì khác nhau.
Nhưng bản thân mỗi DNNVV có thể thành công được hay không còn

phụ thuộc vào các yếu tố nội tại của từng doanh nghiệp như kĩ năng quản lý
và điều hành kinh doanh của các chủ doanh nghiệp, số lượng và trình độ nhân
công, trình độ máy móc thiết bị và công nghệ, mô hình tổ chức các hoạt động
sản xuất…
Đây chính là các yếu tố nội tại bên trong của bản thân mỗi doanh
nghiệp, các yếu tố này tạo nên điểm mạnh điểm yếu của mỗi doanh nghiệp.
Mặc dù các doanh nghiệp trong cùng ngành có thể có cùng cơ hội phát triển
nhưng khả năng nắm bắt các cơ hội khác nhau đã tạo ra sự khác nhau của
từng doanh nghiệp và cả cộng đồng DNNVV trong từng thời kì phát triển
khác nhau của đất nước.
II. Môi trường đầu tư
1.Khái niệm
Môi trường đầu tư là tổng hoà các nhân tố tự nhiên, kinh tế, chính trị,
xã hội có tác động tới hoạt động đầu tư.
Trong một nền kinh tế, các nhân tố trên có thể tác động riêng rẽ hoặc đa
chiều tới hoạt động đầu tư. Chính vì vậy các yếu tố quyết định sức hấp dẫn
của một môi trường đầu tư chính là ở chính sách và môi trường kinh tế
2.Các yếu tố cơ bản của môi trường đầu tư.
5. 2.1.Các yếu tố tự nhiên và kinh tế
8
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Vị trí địa lý và tài nguyên thiên nhiên
Đây là những ưu đãi vốn có của một quốc gia, trong đó tài nguyên thì
có thể cạn kiệt và vị trí địa lý có ưu thế lâu dài hơn.
Trong lịch sử phát triển của các quốc gia trên thế giới,ví dụ như các
quốc gia công nghiệp lâu đời Anh, Pháp, Đức, Mỹ đều dựa vào nguồn tài
nguyên đa dạng và phong phú của mình. Trong công cuộc công nghiệp hoá
ngày nay các quốc gia Đông Nam Á cũng phải tích cực khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên của mình để tích luỹ vốn trong thời kì đầu của quá trình

phát triển. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ như Nhật Bản là
một đất nước nghèo tài nguyên nhưng có sức mạnh kinh tế vào bậc nhất thế
giới. Điều đó chứng tỏ tài nguyên thiên nhiên quan trọng nhưng không phải là
yếu tố sống còn, điều đó càng đúng khi mà nền kinh tế thế giới đang trong
quá trình chuyển từ thâm dụng vật liệu sang thâm dụng thông tin.
Ưu thế địa lý của một quốc gia còn thể hiện ở chỗ quốc gia đó có nằm
trong khu vực phát triển kinh tế sôi động không, có giao lộ của các tuyến giao
thông quốc tế không và tại đó có kiểm soát được vùng rộng lớn không.Một
quốc gia có vị trí như vậy có nghĩa là quốc gia đó được hưởng lợi từ các dòng
thông tin, các trào lưu phát triển mới, thuận lợi cho việc chu chuyển vốn, vận
chuyển sản phẩm và hưởng địa tô nếu nằm ở vị trí chiếm lược
Đối với các nhà đầu tư thì các ưu đãi thiên nhiên đó là những nơi có cơ
hội làm ăn nhiều hơn, mức sinh lợi cao hơn.
Phong tục tập quán : Trong một môi trường đầu tư của một quốc gia nếu các nhân tố như hệ
thống pháp luật, các chính sách kinh tế là những nhân tố làm yên tâm các nhà đầu tư thì khi
nghiên cứu mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư đó người ta không thể không xét đến các
yếu tố về phong tục tập quán cũng như lối sống của bộ phận dân cư trong môi trường ấy.Các
yếu tố này là những tín hiệu đầu tiên thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trước khi họ quyết
định đầu tư. Phong tục tập quán và lối sống là một bộ phận quan trọng trong nghiên cứu
Maketing của các công ty khi tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình.Hơn nữa ngay cả
khi thâm nhập được thị trường thì những phong tục tập quán này vẫn có ảnh hưởng quan
trọng, chúng không chỉ liên quan đến sự tồn tại của sản phẩm đó trên thị trường còn là nhân
tố giúp công ty củng cố địa vị trên thị trường trước những đối thủ cạnh tranh nếu như sản
phẩm của công ty có sự phù hợp nào đó đối với với các phong tục tập quán này.
9
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Dân số: Khi xem xét dân số của một quốc gia như là một nhân tố của môi
trường đầu tư người ta phải xem xét trên cả hai phương diện đầu vào và đầu
ra của dự án

Trên phương diện đầu ra, một đất nước với quy mô dân số lớn sẽ là một
thị trường tiêu thụ hấp dẫn. Tính hấp dẫn của thị trường như vậy còn thể hiện
ở kết cấu dân số theo các tiêu chí khác nhau. Ví dụ một quốc gia có dân số trẻ
trong đó tỷ lệ dưới 20 tuổi lớn rõ ràng là một thị trường tiềm năng đối với các
ngành sản xuất sữa bột, đồ chơi trẻ em…
Trên góc độ đầu vào, một quốc gia có dân số trẻ tức là có một nguồn
lao động dồi dào, tuy nhiên chất lượng lao động mới là yếu tố có tính cạnh
tranh mạnh mẽ. Đối với các nhà đầu tư thì nguồn nhân lực chất lượng cao
đồng nghĩa với năng suất lao động cao, tính sáng tạo đổi mới sản phẩm lớn và
có ưu thế cạnh tranh lớn hơn. Còn đối với một nền kinh tế, các nhà kinh tế
học đều cho rằng việc phát triển nguồn nhân lực càng mạnh có tác dụng thúc
đẩy nền kinh tế tăng trưởng càng nhanh và ngược lại tốc độ tăng trưởng cao
có tác dụng chi phối trở lại một cách tích cực đối với hầu như tất cả các nhân
tố của môi trường đầu tư.
Cơ sở hạ tầng: Bao gồm mạng lưới giao thông, mạng lưới thông tin liên lạc,
hệ thống cung cấp năng lượng. cấp thoát nước, các công trình công cộng phục
vụ sản xuất kinh doanh cũng như phục vụ đời sống nhân dân như hệ thống
cảng biển, cảng hàng không, trường học…
Cơ sở hạ tầng tốt là một trong các yếu tố quan trọng giúp giảm chi phí
gián tiếp trong sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư.Thực tế phát triển tại
các quốc gia khác nhau cũng như tại các vùng trong một quốc gia cho thấy
các dòng vốn đầu tư chỉ đổ vào nơi nào có cơ sở hạ tầng phát triển đủ khả
năng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư.
Mạng lưới giao thông phục vụ cho việc cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản
phẩm, quan trọng nhất là các đầu mối giao thông tiếp giáp với thế giới như
cảng biển, cảng hàng không. Một mạng lưới giao thông đa phương tiện và
hiện đại sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được các hao phí chuyên chở không cần
thiết.
10
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C

Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Hệ thống thông tin liên lạc là nhân tố quan trọng hàng đầu trong bối
cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, khi mà thông tin về tất cả các biến động
trên thị trường ở mọi nơi được truyền tải liên tục trên thế giới. Chậm trễ trong
thông tin liên lạc có nghĩa là đánh mất cơ hội làm ăn. Các nhà đầu tư thường
đánh giá môi trường đầu tư hấp dẫn là môi trường có hệ thống thông tin liên
lạc và cước phí rẻ.
Các dịch vụ cung cấp năng lượng và nước sạch đảm bảo cho việc sản xuất
quy mô lớn và liên tục, các dịch vụ này bị gián đoạn có nghĩa là chi phí cơ hội
cho nhà đầu tư tăng lên
6. 2.2.Môi trường chính trị xã hội
Tình hình chính trị xã hội có ảnh hưởng lớn đến các nhà đầu tư. Nền
chính trị xã hội tại một quốc gia khi xét dưới góc độ của môi trường đầu tư
được xem xét dưới hai khía cạnh: Sự ổn định chính trị và cơ chế vận hành của
bộ máy Nhà nước trong nền chính trị xã hội đó
Sự ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết cho các hoạt động kinh tế, sự ổn
định chính trị trước hết tạo sự an tâm cho các nhà đầu tư về tài sản và thậm
chí là cả tính mạng của họ. Một quốc gia có nội chiến không bao giờ có thể có
môi trường đầu tư tốt. Môi trường chính trị xã hội ổn định cũng là điều kiện
để một quốc gia thiết lập các mối quan hệ với cộng đồng quốc tế cũng như
với các thiết chế tài chính, tín dụng, các tổ chức thương mại trên thế giới
Cơ chế vận hành bộ máy nhà nước là kết quả trực tiếp của hệ thống kinh tế,
chính trị, xã hội. Dưới con mắt của các nhà đầu tư thì đó là việc cơ chế vận
hành có tạo điều kiện cho họ giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính
trong công việc đầu tư của họ hay không. Do nó là kết quả của hệ thống kinh
tế chính trị xã hội nên bất kì một sự thay đổi nào trong ba thành tố trên cũng
dẫn đến sự thay đổi trong cơ chế vận hành Bộ máy Nhà nước và sự thay đổi
này cũng thể hiện mức độ đổi mới tư duy, linh hoạt theo thời của hàng ngũ
lãnh đạo cấp cao cũng như trình độ thích ứng của đội ngũ nhân sự làm việc
trong các cơ quan Nhà nước nói chung.

7. 2.3.Hệ thống pháp luật
Suy cho cùng thì các công cụ điều tiết các thị trường, các chính sách
khuyến khích, đãi ngộ hay kìm chế hoạt động sản xuất kinh doanh đều được
11
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
cụ thể hoá bằng hệ thống chính sách Pháp luật. Vì vậy nhân tố Pháp luật có
tính chất bao trùm mọi nhân tố khác trong môi trường đầu tư.Tuy nhiên do
nhiệm vụ của nó là quy định và đặc tính của nó là cưỡng chế nên nhân tố
Pháp luật phải đặt lên hàng đầu tính nhất quán và minh bạch, sau đó trên góc
độ nhà đầu tư người ta mới quan tâm đến tính hấp dẫn và thông thoáng.
Môi trường đầu tư tốt xét về mặt pháp luật phải là một môi trường
không chỉ hoàn thiện về pháp luật kinh tế mà đây là yêu cầu chung cho luật
pháp của tất cả các lĩnh vực khác vì các nhà đầu tư khi tham gia sản xuất kinh
doanh trên lãnh thổ của một quốc gia thì tất yếu bị điều chỉnh bởi các tất cả
các Bộ luật khác nhau.Tuy nhiên khi xem xét trên góc độ kinh doanh thuần
tuý thì các nhà đầu tư quan tâm đến các vấn đề chính sau:
- Các vấn đề mang tính chất hành chính
Hệ thống pháp luật kinh doanh phải đầy đủ thống nhất, không chồng chéo
và công bằng, một số vấn đề phải được luật hoá và mang tính pháp lý cao.Các
văn bản pháp luật khoa học, sát thực tiễn và phù hợp với yêu cầu, cần được
điều chỉnh bởi môi trường kinh doanh, tất nhiên việc cho ra đời một văn bản
luật có thể đem lại lợi ích cho người này và làm phương hại tới lợi ích của
người kia nhưng điều chủ yếu là mức độ gây hại phải được hạn chế ở mức
thấp nhất. Các văn bản pháp luật phải có hệ thống văn bản hướng dẫn dưới
luật một cách cụ thể và rõ ràng giúp cho các nhà đầu tư hiểu và thực hiện
đúng các quy định của luật.
- Các vấn đề mang tính chất kinh tế
Thuế là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư vì nó liên quan tới cả
đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất. Các khoản thuế và các mức thuế

phải bao quát được tất cả các nhân tố phát sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh và phải hợp lý, tận thu nhưng phải nuôi dưỡng nguồn thu, cách tính
thuế phải khoa học và xét trong môi trường cạnh tranh thu hút đầu tư thì phải
có các quy định về miễn giảm thuế, các mức thuế ưu đãi.
Các vấn đề nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc phải có quy định rõ ràng
các mặt hàng cấm nhập, các mặt hàng hạn chế nhập với mức thuế suất cao,
các mặt hàng được ưu đãi miễn giảm thuế, hạn ngạch…
12
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Các vấn đề sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải đủ hấp dẫn các nhà đầu tư
nhưng phải chặt chẽ để bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như bảo vệ
môi trường sinh thái.
Các vấn đề về lao động như tuyển dụng lao động, đào tạo lương tối thiểu,
sa thải, thuế thu nhập…Các quy định về vấn đề này vừa phải khuyến khích sử
dụng lao động tại địa phương, khuyến khích đào tạo nâng cao trình độ của lực
lượng lao động, vừa phải đảm bảo quyền lợi cho họ
Ngoài các vấn đề chi phối đầu vào còn các vấn đề chi phối đầu ra như các
quy định về xuất khẩu, các quy định về bảo vệ như bản quyền về nhãn mác,
tên gọi…
Tuy nhiên có một vấn đề vô cùng quan trọng là hệ thống pháp luật phải
có tính linh hoạt để kịp thời đưa ra những điều chỉnh phù hợp với các biến
động của môi trường kinh doanh.
8. 2.4. Các chính sách kinh tế
Chính sách phát triển cơ cấu vùng : Các nhà đầu tư quan tâm chính
sách phát triển cơ cấu vùng nhằm đánh giá mức độ thuận lợi trong công việc
sản xuất kinh doanh của họ qua các công cụ khuyến khích hay hạn chế phát
triển vùng.
Chính sách trợ cấp với các khoản hỗ trợ đầu tư, các khoản vay ưu đãi…
Các ưu đãi về thuế được khu vực hoá như giảm thuế, giãn thuế đối với

các địa điểm nhất định hay các quy định thuận lợi về khấu hao.
Chính sách cước giá theo vùng trong đó các doanh nghiệp được hưởng
ưu đãi khi sử dụng các tiện ích công cộng như điện nước sinh hoạt, cước viễn
thông…
Công cụ thúc đẩy cuối cùng có thể là các đơn đặt hàng theo vùng, tức là
Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong vùng thực hiện các đơn
đặt hàng với các ưu đãi.
Các công cụ thúc đẩy này tuy có tác dụng tức thời và mạnh mẽ tuy
nhiên chúng không thể duy trì được lâu vì ngân sách nhà nước không thể bảo
trợ cho doanh nghiệp mãi được mà đây chỉ là biện pháp trước tiên thu hút và
giúp doanh nghiệp định hướng cũng như bước đầu giúp doanh nghiệp có thể
cạnh tranh.Vấn đề quan trọng là các ưu đãi này phải tạo ra được các thuận lợi
13
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
mang tính chất là kết quả gián tiếp, ví dụ cơ sở hạ tầng được cải thiện, mức
sống dân cư trong vùng được nâng cao…
Ngoài các chính sách khuyến khích về mặt tài chính nói trên còn có các
công cụ có tác dụng dài hạn như chính sách về cơ sở hạ tầng, nó có thể được
chia thành chính sách phát triển hạ tầng liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp
ví dụ như xây dựng các khu công nghiệp, các công trình phụ trợ ngoài hàng
rào hay chính sách phát triển hạ tầng nhằm nâng cao đời sống nhân dân như
đưòng sá, trường học…Nhờ chính sách cải thiện cơ sở hạ tầng mà các vùng
có thể thu hút thêm các nhà đầu tư cũng như lực lượng lao động có trình độ
cao.Tuy nhiên chính sách phát triển cơ sở hạ tầng với tư cách là một công cụ
thúc đẩy phát triển cơ cấu vùng gặp phải khó khăn to lớn là nó đòi hỏi các
khoản đầu tư lớn, nhưng trong tương lai không biết các công trình này phát
huy tác dụng có như mong muốn hoặc việc thu phí tại các công trình hạ tầng
này nhằm thu hồi vốn đầu tư cũng khó mà thực hiện được
Ngoài các công cụ chính nêu trên còn có các công cụ mang tính chất hỗ trợ

như việc tăng cường thông tin hướng dẫn, các hoạt động tư vấn liên quan đến
phát triển vùng cho nhà đầu tư.
9. 2.5.Hệ thống ngân hàng tài chính.
Hệ thống ngân hàng tài chính được coi là các mạch máu của một môi
trường kinh tế, vì vậy không một nhà đầu tư nào có thể bỏ qua hệ thống này
khi xem xét mức độ an toàn của môi trường đầu tư.
Nhìn chung một hệ thống ngân hàng được đánh giá trên các góc độ sau:
- Chặt chẽ và khoa học về mặt cơ cấu tổ chức thể hiện ở chỗ cơ chế liên hệ
giữa hệ thống các ngân hàng thương mại và ngân hàng Trung ương, giữa
các ngân hàng thương mại với nhau và với các trung gian tài chính khác
phải tạo điều kiện cho toàn bộ hệ thống hoạt động một cách thuận lợi sao
cho ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát được hoạt động của các ngân
hàng thương mại và các trung gian tài chính khác nhưng không can thiệp
quá sâu vào hoạt động của các tổ chức này.Cơ chế này cũng phải bảo đảm
cho các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính có quan hệ
tương hỗ với nhau trong các hoạt động nghiệp vụ của mình
14
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
- Đa dạng hoá các kênh chuyển tải vốn thể hiện ở sự có mặt đầy đủ của các
tổ chức tín dụng đựoc thành lập dưới các hình thức khác nhau như các
công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các quỹ tiết kiệm.
- Hệ thống hỗ trợ về mặt kĩ thuật phải đủ hiện đại đáp ứng được nhu cầu
giao dịch với khối lượng lớn và tốc độ cao
- Cơ chế vận hành phải tạo được sự thông thoáng cho các hoạt động kinh tế
nói chung và hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nói riêng
10. 2.6. Tình hình phát triển kinh tế
Khi nghiên cứu tình hình phát triển kinh tế người ta có thể căn cứ vào
một số chỉ tiêu cơ bản như tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ lạm phát, mức lãi suất, tỷ
lệ thất nghiệp, tỷ giá hối đoái và cả cán cân thanh toán của quốc gia đó. Các

chỉ tiêu trên hoàn toàn được xem xét trên góc độ kinh tế nhằm dự báo một
cách chính xác nhất có thể được xu thế biến động của nền kinh tế thị trường
và do đó nó tác động thế nào đến công việc sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, từ đó doanh nghiệp có các biện pháp thích hợp và phòng chống rủi ro
đối với các các biến động đó. Các chỉ tiêu trên hoàn toàn không hoạt động
riêng rẽ mà chúng có sự tác động tưong hỗ rất phức tạp cả trong ngắn hạn và
dài hạn. Điều quan trọng khi đánh giá một môi trường kinh tế có hấp dẫn hay
không là ở chỗ khi mà doanh nghiệp phải hoạt động trong một nền kinh tế tồn
tại cơ hội và nguy cơ thì cơ chế hoạt động của nền kinh tế đó cũng như Chính
phủ điều hành nền kinh tế cố gắng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hạn chế
nguy cơ và rủi ro hay không. Nói cách khác ở tầm vĩ mô các doanh nghiệp nói
chung và các nhà đầu tư nói riêng sợ nhất là chu kì kinh doanh, và các chỉ tiêu
trên sẽ cho thấy các phương sách của Chính phủ có đủ hiệu quả để giảm bớt
sự thất thường của chu kì kinh doanh hay không..
Khi đánh giá môi trường kinh tế, trên góc độ nhà đầu tư thì về mặt dài
hạn nhiệm vụ quan trọng nhất mà Chính phủ phải làm là làm thế nào để chu
kì kinh doanh có biên độ nhỏ nhất, tức là các chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng,
lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất biến động nhỏ nhất để cho các tính toán ban
đầu của nhà đầu tư không bị đảo lộn và các kế hoạch dài hạn của họ thành
công.
15
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Tốc độ tăng trưởng kinh tế : Đây là một chỉ tiêu tổng quát nhất khi đánh giá
sức khoẻ của một nền kinh tế. Khi nhìn một quốc gia có mức tăng trưởng cao
trong một thời gian dài, rõ ràng đây là một tín hiệu hấp dẫn không chỉ đối với
các nhà đầu tư đang mong muốn nhập cuộc mà cả đối với các nhà đầu tư đang
hoạt động vì tăng trưởng cao đồng nghĩa với nhu cầu và khả năng thanh toán
ngày càng tăng lên. Hơn nữa đối với các nhà đầu tư đang chuẩn bị nhập cuộc
thì tốc độ tăng trưởng cao chứng tỏ nền kinh tế này đang được điều chỉnh bởi

các giải pháp có hiệu quả và một môi trường như vậy là đáng tin cậy
Tăng trưởng cao cũng báo hiệu rằng trong dài hạn quốc gia này đang phải
đối mặt với sức ép lạm pháp ngày càng nhích dần lên và đối với nhà đầu tư họ
phải đặt ra câu hỏi rằng liệu Chính phủ có khả năng và biện pháp tối ưu để
kìm chế sức ép gia tăng lạm phát này hay không, nếu không về dài hạn lạm
phát cao có thể làm đảo lộn mọi tính toán ban đầu của họ..
Mức lạm phát: Mức lạm phát cũng chứa đựng nhiều yếu tố mang tính chất dự
đoán các động thái của Chính phủ cũng như của thị trường. Tất nhiên một
mức lạm phát thấp sẽ là lý tưởng đối với các nhà đầu tư vì nó làm cho tài sản
của họ ít bị xói mòn hơn. Một mức lạm phát cao và kéo dài có thể báo hiệu
rằng nền kinh tế đang dần đi vào giai đoạn suy thoái của chu kì kinh doanh
khi mà giá cả tăng cao làm cho tiền lương thực tế giảm đi và kết quả là giảm
sức mua của dân chúng. Các nhà đầu tư đứng ngoài thì cân nhắc có nên nhập
cuộc hay không còn các nhà đầu tư đang hoạt động thì tiếp tục dự đoán. Các
nhà kinh tế cũng chứng minh được rằng khi mức lạm phát tăng thì cũng kéo
theo lãi suất tăng
Tỷ giá hối đoái : Các quốc gia có chiến lược công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đều mong muốn khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực xuất khẩu. Các nhà đầu tư
đều mong muốn có một tỷ giá thấp ổn định sao cho có lợi cho hoạt động xuất
khẩu. Tuy nhiên cũng như các biến số kinh tế vĩ mô khác thì tỷ giá hối đoái
cũng thay đổi theo thời gian, tính hấp dẫn của môi trường đầu tư khi xem xét
trên phương diện này là ở chỗ, tỷ giá hối đoái có dễ bị tác động không và khi
nó giao động Chính phủ có khả năng can thiệp để giữ ổn định hay không
Cán cân thanh toán : Đây cũng là chỉ tiêu quan trọng đánh giá mức độ ổn
định của môi trường đầu tư. Cán cân thanh toán thâm hụt hay thặng dư quá
16
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
lớn đều không tốt đối với mỗi nền kinh tế. Bởi vì điều đó có nghĩa là các
Chính phủ đều phải tài trợ cho các khoản thặng dư hay thâm hụt đó khiến cho

tỷ giá hối đoái lên xuống thất thường.
17
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Chương 2: Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam
đối với sự phát triển của DNNVV
I. Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với sự phát
triển của DNNVV
Chiếm trên 96% số doanh nghiệp đăng kí và hoạt động theo luật doanh nghiệp và 99%
tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, nếu xét riêng từng loại doanh nghiệp thì
DNNVV không có được lợi thế về mặt kinh tế như các doanh nghiệp lớn, song về tổng thể
các DNNVV đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát
triển và có ý nghĩa then chốt trong quá trình giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm
nghèo, tạo việc làm, phát triển đồng đều giữa các khu vực trong cả nước…Do vậy mà việc
cải thiện môi trường đầu tư, thu hút đầu tư của khu vực DNNVV đã được thực hiện một
cách mạnh mẽ trong thời gian qua,và đã đạt được những thành tựu nhất định.Tuy nhiên bên
cạnh đó còn có những tồn tại đã hạn chế đầu tư của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
1.Vị trí địa lý và nguồn tài nguyên thiên nhiên
Nước ta có tiềm năng tài nguyên mặt đất, trong lòng đất, dưới mặt nước
phong phú đa dạng phù hợp với nhu cầu phát triển KTXH. Việt Nam có bờ
biển dài 3200km với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp và nguồn tài nguyên
nước dồi dào. Bên cạnh đó chúng ta lại có một lượng đáng kể về dầu mỏ,
bôxit, hải sản, là những nhân tố quan trọng thúc đẩy các nhà đầu tư thực hiện
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Tuy vậy tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam có trữ lượng không lớn
và phân bố rải rác. Theo đánh giá chỉ số trữ lượng kim loại của Việt Nam là
0,01 trong khi đó của Thái Lan là 0,47, của Philippin là 0,03 …Đất canh tác
chỉ chiếm 21% lãnh thổ và 0,11ha/người, chỉ bằng 33% mức bình quân trên
thế giới. Đặc biệt đối với tài nguyên rừng, tuy chiếm 2/3 diện tích đất tự nhiên
của toàn quốc nhưng tốc độ mất rừng của Việt Nam cao nhất trong khu vực

2,8%, trong khi đó của Thái Lan là 0,6%, Malaysia là 1,2%…
Như vậy Việt Nam có thế mạnh về địa lý và tài nguyên thiên nhiên,
song lợi thế này sẽ mất dần đi quá trình phát triển. Do vậy cần tích cực cải
thiện môi trường đầu tư khác trong thời gian tới khi mà lợi thế tài nguyên
giảm đi.
18
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
2. Môi trường chính trị xã hội
Các DNNVV Việt Nam đang hoạt động trong một môi trường ổn định về
chính trị, đây là một điều hết sức quan trọng đối với các nhà đầu tư vì mỗi sự
thay đổi trong hệ thống chính trị sẽ tạo nên các thể chế kinh tế mới nhằm phục
vụ cho lợi ích của hệ thống chính trị đó.Trong những năm vừa qua thì Việt
Nam được coi là một trong những nước có môi trường chính trị ổn định nhất
thế giới
Tuy nhiên tình trạng tham nhũng đang đe doạ sự ổn định xã hội và sự phát
triển kinh tế nói chung và làm ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của DNNVV
nói riêng. Các doanh nghiệp cho rằng đấu tranh chống tham nhũng là hành
động cấp bách nhất mà Chính phủ cần tiến hành trong thời gian tới vì tham
nhũng có thể làm tăng chi phí kinh doanh cũng như làm méo mó các chính
sách phát triển kinh tế. Theo một điều tra của ban nội chính Trung ương thì
tham nhũng hiện đang lan tràn ở các lĩnh vực như cung cấp cơ sở hạ tầng,
quản lý đất đai, thuế…Một loạt những vụ tham nhũng ở các bộ ngành và
Tổng công ty được phát hiện trong năm qua một mặt thể hiện quyết tâm
chống tham nhũng của Chính phủ, mặt khác thể hiện mức độ trầm trọng và
ảnh hưởng tiêu cực của tệ nạn này tới môi trường đầu tư chung của các doanh
nghiệp.
DNNVV, đặc biệt là khối doanh nghiệp dân doanh ra đời trong bối cảnh
không được sự ủng hộ của các yếu tố văn hoá truyền thống, mặc dù nguồn lao
động của Việt Nam rất lớn nhưng nhiều người lao động có tâm lý không thích

làm việc ở các DNNVV hoặc chỉ muốn làm việc tại các doanh nghiệp này
trong thời gian ngắn làm bước đệm cho sự phát triển nghề nghiệp của mình
trước khi đến được với doanh nghiệp lớn hơn, không những thế người tiêu
dùng cũng có tâm lý e ngại tiêu dùng những hàng hoá của DNNVV sản xuất
do chưa thật tin tưởng vào chất lượng hàng hoá và dịch vụ mà doanh nghiệp
này cung cấp.
Sự phát triển văn hoá giáo dục và tốc độ tăng dân số tương đối cao của Việt
Nam hiện nay sẽ tạo ra cho các DNNVV nguồn lực lao động dồi dào, có trí
thức và một thị trường tiêu thụ sản phẩm tiềm năng lớn.Không những thế mức
sống tăng cao làm tăng sức mua của thị trường và tạo ra nhu cầu mới, mở ra
19
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
cơ hội đầu tư cho các DNNVV trong việc khai thác các thị trường ngách và
mở ra các ngành sản xuất dịch vụ mới thoả mãn nhu cầu của người dân.
3. Về khuôn khổ pháp lý cho hoạt động đầu tư
Thời gian vừa qua Quốc hội,Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành nhiều cơ
chế chính sách mang tính khuyến khích cao, từng bước xoá bỏ rào cản để tăng cường thu hút
mọi nguồn vốn đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân. Dưới đây phân tích một số chính sách cơ
bản liên quan đến thu hút đầu tư trong nước và một số bất cập của các chính sách này
11. 3.1.Luật Doanh nghiệp 1999
Kể từ khi có hiệu lực, Luật doanh nghiệp được đánh giá là bước đột phá trong cải cách
kinh tế nói chung và cải thiện môi trường đầu tư nói riêng ở Việt Nam. Luật doanh nghiệp
khuyến khích việc thành lập doanh nghiệp thông qua quy định không yêu cầu vốn tối thiểu
khi thành lập doanh nghiệp ( trừ các công ty trong lĩnh vực tài chính), nhờ đó giảm bớt số
lượng thành viên và cổ đông tối thiểu đối với công ty cổ phần, bên cạnh đó luật doanh
nghiệp còn thay đổi quan điểm từ việc nhà nước cho phép các doanh nghiệp hoạt động trong
một số lĩnh vực sang việc doanh nghiệp có thể hoạt động trong mọi lĩnh vực mà nhà nước
không cấm. Điều này giúp nâng cao tính công bằng và bình đẳng trong kinh doanh và thể
chế hoá nguyên tắc công dân Việt Nam hoàn toàn được tự do đăng kí kinh doanh phù hợp

với pháp luật. Kết quả là nhờ sự đơn giản hoá trong việc cấp giấy phép bằng việc bãi bỏ 150
văn bản và thực hiện hệ thống đăng kí một cửa, giảm các thủ tục đăng kí từ yêu cầu 20 văn
bản trong hồ sơ đăng kí kinh doanh xuống 3 văn bản và thời gian tối đa cho việc cấp giấy
phép kinh doanh là 15 ngày đã làm nên sự khác biệt trong đời sống kinh tế nhiều mặt như
giải phóng tư duy và sức sáng tạo về ý tưởng kinh doanh và phương thức tổ chức kinh
doanh, số lượng doanh nghiệp và số vốn đầu tư đã liên tục tăng nhanh.
Từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực thì doanh nghiệp nhỏ và vừa đã phát
triển vượt bậc cả về số lượng, chất lượng, tham gia hầu hết vào các ngành lĩnh
vực của nền kinh tế, ngày càng huy động nhiều vốn đầu tư cho phát triển kinh
tế xã hội. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động thì Luật doanh nghiệp vẫn còn
những tồn tại, và nó đã phần nào cản trở sự phát triển của các DNNVV.Mặc
dù Luật doanh nghiệp đã đơn giản hoá quy trình đăng kí đối với doanh nghiệp
và thủ tướng Chính phủ đã quyết định bãi bỏ hiệu lực 150 văn bản nhưng còn
có nhiều văn bản pháp quy bổ sung được ban hành kể từ năm 2000, trong đó
đặt ra các quy định về giấy phép bổ sung, hoặc điều kiện hoạt động…đối với
một số lĩnh vực kinh doanh đặc biệt, bên cạnh đó có một số địa phương còn
ban hành những quy định cấm đăng kí kinh doanh đối với một số lĩnh vực
như khách sạn, nhà hàng …
20
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Thủ tục và chi phí gia nhập thị trường bao gồm chi phí thời gian và tiền bạc
vẫn còn cao. Theo quy định hiện hành, ở trường hợp đơn giản nhất, để hoàn
thành thủ tục gia nhập thị trường doanh nghiệp phải tiến hành 4 bước tại 3 cơ
quan khác nhau ( gồm ĐKKD, khắc dấu, đăng kí mã số thuế và mua hoá đơn
tài chính) và để hoàn tất 4 bước nói trên trung bình phải mất 50 ngày với chi
phí khoảng gần 2 triệu đồng ( nếu qua các doanh nghiệp dịch vụ thì chi phí
này còn cao hơn nhiều). Ngoài ra còn phải đăng báo trên 3 số liên tiếp về
những nội dung ĐKKD chủ yếu, với chi phí từ 600-750 nghìn đồng tuỳ thuộc
vào địa phương và tờ báo. Như vậy tổng chi phí gia nhập thị trường đối với

trường hợp tốt nhất ở nước ta vào khoảng từ gần 3 triệu (chưa kể thuế môn
bài). Nhìn chung gia nhập thị trường với chi phí cao, đang có biểu hiện tăng
lên đã có tác động không tốt đến môi trường đầu tư của nước ta trong thời
gian gần đây.
12. 3.2.Chính sách tài chính.
Chính sách tài chính là hệ thống các chính sách nhằm huy động vốn trong
nền kinh tế nói chung và của mỗi doanh nghiệp nói riêng, bao gồm: Chính
sách thuế,chính sách tài chính công và chính sách khuyến khích đầu tư trong
nước.
13. 3.2.1.Chính sách thuế
Đây là một trong những công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô quan trọng của
Chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Do đó đồng thời với việc chuyển đổi
nền kinh tế trong thời gian qua, Chính phủ đã quan tâm đến việc không ngừng
cải thiện chính sách thuế cho phù hợp với sự phát triển kinh tế trong từng thời
kì. Nội dung đổi mới chính sách thuế bao gồm: chuyển từ hệ thống thu quốc
doanh sang hệ thống thu thuế thống nhất cho tất cả các thành phần kinh tế làm
cho thuế thực sự là công cụ điều tiết tác động đến tất cả các thực thể kinh tế
có mặt trên thị trường. Chính phủ đã ban hành và áp dụng một số chính sách
giảm thuế cho các đối tượng được khuyến khích đầu tư, bên cạnh đó chính
phủ còn sử dụng nhiều chính sách ưu đãi thuế để khuyến khích DNNVV phát
21
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
triển. Tuy vậy chính sách thuế hiện hành còn nhiều bất cập, thể hiện ở một số
điểm sau:
- Một số quy định về thu thuế không rõ ràng khiến cho cán bộ thuế có thể giải
thích vận dụng các khung thuế khác nhau đối với cùng đối tượng nộp thuế.
Điều này tạo ra khe hở dẫn đến việc các DNNVV hay trốn thuế. Theo đánh
giá của Bộ tài chính thì tình trạng trốn thuế của doanh nghiệp tư nhân là rất
nghiêm trọng, còn các doanh nghiệp tư nhân thì cho rằng nếu họ thực hiện

nghiêm chỉnh chế độ nộp thuế theo quy định thì sẽ không có doanh nghiệp
nào còn tồn tại.
- Các quy định về thuế và việc thực hiện thu nộp thuế còn nhiều bất hợp lý,
nặng về cơ chế thu, chưa có cơ chế động viên và bồi dưỡng các nguồn thu.
Nhà nước đã có nhiều lần sửa đổi chính sách thuế nhưng cho đến nay thuế
suất vẫn còn cao và còn có nhiều khoản thu ngoài thuế.Hay nói cách khác
chính sách thuế chưa thực sự thể hiện quyền lợi của người nộp thuế mà chỉ
nhấn mạnh đến các nghĩa vụ của người nộp thuế,chưa có doanh nghiệp tự
giác nộp thuế để tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
- Một số quy định về thuế gây khó khăn trong kinh doanh,ví dụ như thời hạn
nhập khẩu nguyên liệu là 3 tháng nhưng có những nguyên vật liệu nhập về để
sản xuất trong 1 năm hoặc 6 tháng, hoặc thuế môn bài áp dụng cho các doanh
nghiệp vẫn còn quá cao vì có nhiều doanh nghiệp kinh doanh với quy mô nhỏ
- Các quy định về thuế vẫn còn rườm rà, rắc rối, đặc biệt là thời gian hoàn thuế
VAT chưa phù hợp với từng đối tượng doanh nghiệp và gây khó khăn cho
DNNVV vì đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp là khác nhau.
- Bên cạnh đó các DNNVV cũng gặp thiệt thòi vì các chính sách thuế thường
tập trung vào thu hút đầu tư nước ngoài hơn là thu hút đầu tư trong nước.
14. 3.2.2.Chính sách tài chính công
Bên cạnh chính sách thuế, chính sách tài chính công cũng là một trong các
chính sách cơ bản tác động đến đầu tư của DNNVV. Vai trò của chính sách tài
chính công được đánh giá như là một chính sách tài chính nhằm điều chỉnh
những sự không công bằng giữa các loại hình kinh tế. Thông qua đầu tư vào
các công trình công cộng như cơ sở hạ tầng, đường xá, điện nước, viễn
22
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
thông…chính phủ sẽ giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí và kinh doanh
thuận lợi hơn.
Một trong những lĩnh vực mà chính sách tài chính công có thể đầu tư rất

hiệu quả là cải thiện bộ máy và hệ thống quản lý hành chính, nâng cao việc
cung cấp dịch vụ công ở nước ta. Thái độ của cán bộ nhà nước khi cung cấp
các dịch vụ công vẫn cửa quyền và mang nặng tính ban ơn cho doanh nghiệp
chứ không phải cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp. Do vậy mà bản thân
doanh nghiệp ngại tiếp xúc với cơ quan hành pháp.Trong thời gian tới thì
chính sách tài chính công cần có đầu tư thích đáng vào việc nâng cao hiệu quả
và hoàn thiện hệ thống cung cấp dịch vụ công, tạo môi trường hành chính
thuận lợi hơn nữa cho Doanh nghiệp
15. 3.2.3 Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước.
Thực tế những năm qua cho thấy hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư
trong nước đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của đất nước,
thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế trong đó có DNNVV
Luật khuyến khích đầu tư trong nước được ban hành 1994 và được sửa đổi
1998 đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của các thành phần
kinh tế, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân. Kể từ năm 1996 cho đến hết
năm 2004 số lượng dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư đã tăng
nhanh một cách đáng kể. Đến năm 2004 cả nước đã có 15443 dự án được cấp
giấy chứng nhận ưu đãi, với tổng số vốn đầu tư thực hiện lên đến 237720 tỷ
đồng, thu hút 1.895.884 lao động. Tính bình quân mỗi dự án có số vốn đầu tư
khoảng 15,2 tỷ đồng và thu hút 120 lao động.
Bảng 2: Kết quả thực hiện Luật KKĐT trong nước-1996/2004
Năm
Dự án ưu đãi Vốn thực hiện Lao động
Số
lượng
Tỷ
trọng
Tỷ đồng Tỷ trọng
(%)
Số

người
Tỷ trọng
(%)
1996-1997 1389 8,9 19.051 8,1 57028 3
1998 954 6,2 19389 8,2 156934 8,3
1999 637 4,1 8544 3,6 158785 8,5
2000 1641 10,6 25894 10,9 157766 8,4
2001 2425 15,7 34199 14,4 286883 15,1
2002 2823 18,3 42003 17,7 331404 17,5
2003 2769 17,9 43404 18,2 367746 19,4
23
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
2004 2805 18,3 45236 18,9 379428 19,8
Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư
Nhờ thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước mà số lượng dự án ưu
đãi đã tăng dần qua các năm, từ 1389 dự án năm 1996-1997 đã tăng lên 2805
dự án năm 2004, về tỷ trọng trong tổng số dự án đã tăng từ 8,9% (1996-1997)
lên 18,3% năm 2004.
Về số vốn đầu tư năm 2004 đạt 45.236 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 18,9 %
trong khi đó giai đoạn 1996-1997 số vốn đầu tư chỉ có 19.051 tỷ đồng chiếm
8,1%
Đánh giá chung, cho đến nay số lượng dự án được cấp GCNƯĐĐT cùng số
vốn đầu tư cũng như số lượng lao động đã tăng gấp nhiều lần so với những
năm đầu thực hiện Luật. Cụ thể là số lượng dự án tính trung bình đã tăng gấp
9 lần, số vốn đầu tư tăng gấp 9,1 lần và số lao động đã tăng 26,1 lần
Điểm nổi bật trong việc cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư đó là số lượng
dự án thuộc khu vực DNNVV đã tăng nhanh.Giai đoạn 1996-1997 số lượng
dự án thuộc khu vực này chỉ là 524 dự án ( chiếm 37,7% số dự án), đến năm
2004 thì con số này đã lên tới 9.773 dự án với số vốn thực hiện lên tới

108.841 tỷ đồng, bình quân một dự án có vốn đầu tư trên 11,1 tỷ đồng và thu
hút 125 lao động. Đến nay tỷ trọng đầu tư của khu vực này liên tục tăng và
vượt lên hẳn tỷ trọng đầu tư của DNNN, tương ứng là 62% và 38%.
Mặt khác trong giai đoạn 1996-2004 số lượng dự án do các địa phương cấp
giấy chứng nhận ưu đãi đã tăng lên nhanh chóng, cụ thể số dự án đã tăng 16,7
lần và số vốn đầu tư đã tăng 31,7 lần. Điều này cho thấy khu vực kinh tế tư
nhân ngày càng chiếm ưu thế trong nền kinh tế thông qua cơ cấu vốn đầu tư
và tạo việc làm của khu vực này. Theo kết quả báo cáo của các địa phương cơ
cấu vốn đầu tư trung bình của một dự án thuộc khu vực kinh tế này trong giai
đoạn 1996-2004 đã tăng từ 4,5 tỷ lên 11,1 tỷ.
Bảng 3: Cơ cấu ưu đãi đầu tư theo loại hình doanh nghiệp do
địa phương cấp (1996-2004)
Loại hình DN Dự án ưu đãi Số vốn thực hiện Số lao động
24
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C
Luận văn tốt nghiệp Bộ môn Kinh tế Đầu tư
Số dự
án
Tỷ
trọng
(%)
Tổng
vốn(tỷ.đ)
Tỷ trọng
( %)
Số
lượng
(người)
Tỷ
trọng

(%)
DNNN 2584 22,7 45239 37,7 322151 22,9
Công ty TNHH 3992 35,2 51798 43,1 621330 44,1
Công ty cổ phần 903 8 14636 12,2 202077 14,3
DN tư nhân 2776 24,4 6181 5,1 133001 9,4
Hợp tác xã 481 4,2 735 0,6 115532 8,2
Hộ kinh doanh 598 5,3 395 0,3 14987 1,06
Việt Kiều 23 0,2 1096 0,9 503 0,04
Tổng số 11.357 100 120.080 100 1.409572 100
Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư
Số lượng dự án của hộ kinh doanh được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư
đã tăng 12 lần kể từ năm 1996 cho đến cuối năm 2004, cả về quy mô vốn đầu
tư cũng như quy mô tạo việc làm. Nhưng nếu so với 2,4 triệu hộ kinh doanh
đang hoạt động trong cả nước thì 598 giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư là quá ít
ỏi.
Trong giai đoạn 1996-2004 đã có 6996 dự án được hưởng theo ngành nghề
ưu đãi đầu tư thuộc danh mục A do địa phương cấp, với số vốn đầu tư là
63.135 tỷ đồng, thu hút 789.069 lao động. Số dự án đầu tư cũng như số vốn
đầu tư tập trung nhiều nhất ở các dự án xây dựng dây chuyền sản xuất, mở
rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện sinh thái và môi trường vệ sinh đô
thị đã chiếm 41% tổng vốn đầu tư và 32% tổng số lao động trong ngành nghề
ưu đãi đầu tư. Đây là tín hiệu tốt khi các doanh nghiệp dân doanh tự đổi mới
nâng cao khả năng cạnh tranh.
Số liệu tổng hợp cho thấy hầu hết các dự án được hưởng ưu đãi của các
DNNN đầu tư thuộc danh mục A ( chiếm 96% số dự án của các DNNN do Bộ
KHĐT xét cấp và 80% dự án của DNNN do địa phương cấp) chỉ có 18% số
lượng dự án và vốn đầu tư của DNNN được đầu tư vào địa bàn khó khăn và
đặc biệt khó khăn, ít hơn nhiều so với khu vực kinh tế dân doanh ( tỷ lệ tương
ứng là 1:3 và 1:4). Điều này chỉ ra một thực tế là chính khu vực kinh tế tư
nhân chứ không phải là kinh tế nhà nước đang và sẽ là lực lượng chính có khả

năng đưa các địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn phát triển.
25
Nguyễn Thị Bích Thắm Đầu tư 44C

×