Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Du lịch lữ hành sang nước ngoài những năm hiện nay và chính sách của các Cty du lịch pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.47 KB, 98 trang )

Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài :
Ngày nay, cùng với xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá, du lịch nói chung
và du lịch quốc tế nói riêng đã và đang trở thành một nghành dịch vụ quan trọng
,chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong GDP của mỗi quốc gia. Đây là hoạt động kinh
doanh mang lại nhiều lợi nhuận có triển vọng phát triển trong xã hội hiện đại. Những
năm trước đây, nhất là từ khi đất nước thống nhất, công ty du lịch công đoàn Việt
Nam ( VTUT Co) đã tổ chức cho công nhân viên chức và người lao động đi nghỉ
ngơi, tham qua du lịch mỗi năm một nhiều. Đi theo tuyến du lịch công đoàn, khách
du lịch có thể tham quan các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, các công trình kinh
tế, văn hoá của đất nước và trao đổi kinh nghiệm về các hoạt động công đoàn, những
kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Công ty còn tiến hành các hoạt
động phục vụ đoàn viên và lao động du lịch ở bnước ngoài và đón khách du lịch
quốc tế vào Việt Nam theo con đường hợp tác và trao đổi du lịch.
Tuy nhiên, công tác tổ chức và phục vụ tham quan du lịch vẫn chủ yếu mang
tính kiêm nhiệm và bao cấp. Đối với phục vụ chủ yếu là công nhân viên chức, những
người lao động có thành tích trong lao động sản xuất được lựa chọn một cách công
khai và được hưởng các chế độ ưu đãi của cơ quan xí nghiệp hay ng ân sách bảo
hiễm xã hội.
Khi chuyển sang kinh doanh trong cơ chế thị trường điều này đã làm cho công
ty gặp không ít khó khăn.
Thứ nhất : Công ty chưa quen với việc tổ chức và phục vụ tham quan du lịch
với tư cách là một hoạt động kinh doanh. Vì vậy, công tác tổ chức phục vụ còn mang
tính chất trì trệ, nhất là về hệ thống nhà nghỉ và chất lượng phục vụ.
Thứ hai : nếu như trước kia, nguồn khách quốc tế đến với công ty chủ yếu là
do việc ký kết hợp đồng với các liên đoàn lao động của các nước a hội chủ nghĩa (
chủ yếu là các nước Đông Âu và Liên Xô cũ ) thì giờ đâykể từ khi Liên Xô tan rã,
nguồn khách này không còn duy trì ổn định như trước nữa, thêm vào đó việc đưa
người Việt Nam sang các nước này cũng gặp nhiều khó khăn
Thứ ba : Nhận thức được kinh doanh du lịch là một trong các hoạt động kinh
doanh mang lại hiệu quả cao vơí chi phí thấp hơn nhiều so với hiệu quả mang lại,


không ít các công ty, xí nghiệp thuộc các ngành, ban chức năng khác nhau kể cả khu
vực Nhà nước và tư nhân đã xâm nhập vào thị trường kinh doanh du lịch, khai thác
một cách tối đa những lợi thế trong lĩnh vực kinh doanh này.
Đứng trước những khó khăn trên, hoạt động kinh doanh du lịch nói chung và
kinh doanh lữ hành nói riêng của công ty du lịch công đoàn Việt Nam (nay là công ty
du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế) cần phải nhận thức lại công việc đầy triển vọng
nhưng lại đang thực hiện thiếu hiệu quả của mình. Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài
“Thực trạng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh du lịch
quốc tế tại công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế” làm chuyên đề thực tập tốt
nghiệp của mình.
2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích:
Để tiến hành nghiên cứu thực trạng, đánh giá hiệu quả của hoạt động du lịch
quốc tế của công ty du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế (Internation Tourism and
Investment Consultancy Company – TIC) tại Hà Nội. Từ đó, đề tài đưa ra phương
hướng và giải pháp cụ thể để phát triển hoạt động du lịch quốc tế và hiệu qủa kinh
doanh du lịch, đáp ứng nhiệm vụ mà Đảng, chính phủ, Tổng liên đoàn lao động việt
Nam giao cho cũng như đáp ứng lòng mong mỏi của tập thể ban lãnh đạo công ty là
tăng lợi nhuận cho công ty, tăng thu nhập cho cán bộ công nhân viên.
2.2. Đối tượng nghiên cứu ;
Đề tải tập trung vào phân tích vai trò, vị trí và nội dung của hoạt động du lịch
quốc tế trong công ty TIC. Các tiêu thức đánh giá hiệu quả kinh doanh và làm thế
nào để nâng cao hiệu quả kinh doanh đó.
2.3. Phạm vi nghiên cứu :
Mặc dù Công ty còn có các chi nhánh tại các tỉnh, thành phố trong cả nước
như chi nhánh tại TP Hồ Chí Minh, chi nhánh tại Đà Nẵng, Nam Định, Vĩnh Phúc,
nhưng do thực tế khách quan cũng như thời gian nghiên cứu có hạn nên luận văn chỉ
đề cập trong phạm vi hoạt động của công ty TIC tại Hà Nội.
3. Phương pháp nghiên cứu :
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ

nghĩa Mác – Lê Nn trong quá trình nghiên cứu phân tích. Đề tài còn sử dụng phương
pháp so sánh, tổng hợp kết hợp với khảo sát thực tiễn hoạt động kinh doanh du lịch
quốc tế tại công ty du lịch và đầu tư quốc tế.
4. Kết cấu của chuyên đề :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được trình bày trong 3 chương:
Chương I : Lý luận chung về du lịch quốc tế và hiệu quả trong trong kinh doanh du
lịch quốc tế.
Chương II : Thực trạng kinh doanh du lịch quốc tế ở Công ty Du lịch và tư vấn đầu
tư quốc tế Hà nội.
Chương III : Phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
du lịch quốc tế tại công ty TIC – Hà Nội.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Anh Minh và tập thể cán
bộ trong công ty Du lịch và tư vấn đầu tư quốc tế đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em
hoàn thành bài viết này!.
Chương I: Lý luận chung về du lịch quốc tế và hiệu quả trong kinh doanh du lịch
quốc tế.
I. Lý luận chung vê du lịch quốc tế.
1. Khái niệm về du lịch.
Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến một sự bùng nổ của hoạt động du
lịch trên toàn cầu. Du lịch đã trở thành một nghành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc
gia và kinh tế Du lịch đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế thế giới.
Thực tế hoạt động du lịch đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người. Trong thời kỳ
cổ đại Ai Cập và Hy Lạp hoạt động du lịch mang tính tự phát, đó là các cuộc hành
hương về đất thánh, các thánh địa, chùa chiền, các nhà thờ KiTô giáo. Tới thế kỷ thứ
XVII, khi các cuộc chiến tranh kết thúc thời kỳ phục hưng ở các nước châu Âu bắt
đầu, kinh tế xã hội phát triển nhanh, thông tin, bưu điện cũng như giao thông vận tải
phát triển và thúc đẩy cho lịch sử phát triển mạnh mẽ.
Thời kỳ du lịch hiện đại gắn liền với sự ra đời của các hãng lữ hành Thomas Cook.
Năm 1841 Thomas Cook đã tổ chức cho 570 người từ Leicestor đến Longshoroungh
với một mức giá trọn gói gần các dịch vụ vui chơi, ca nhạc, đồ uống Nhưng du lịch

chỉ thực sự phổ biến cuối thế kỷ XIX và bùng nổ vào thập kỷ 60 cuối thế kỷ XX này
khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai đem lại những thành quả vô cùng
to lớn về kinh tế xã hội. Con người sống trong không gian với "bê tông" "máy tính",
tác phong công nghiệp đã quá mệt mỏi họ nảy sinh nhu cầu trở về với thiên nhiên, về
với cuội nguồn văn minh nông nghiệp hay chỉ đơn giản để nghỉ ngơi, sau một thời
gian lao động.
Như vậy, du lịch đã trở thành một hiện tượng quen thuộc trong đời sống con người
và ngày càng phát triển phong phú cả về chều rộng và chiều sâu. Vậy du lịch là gì?
Về khía niệm du lịch, trên thế giới nhiều học giả đã đưa ra các khái niệm khác nhau
đi từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
* Dưới góc độ khách du lịch:
- Theo nhà kinh tế học người áo Rozep Stander cho rằng khách du lịch là loại khách
đi lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn sinh hoạt cao cấp mà
không theo đuổi mục đích kinh tế.
* Dưới góc độ nhà kinh doanh du lịch:
Du lịch được hiểu là việc sản xuất bán và trao cho khách các dịch vụ và hàng hoá
nhằm đảm bảo việc đi lại, lưu trú, ăn uống, giải trí, thông tin đem lại lợi ích kinh tế
cho quốc gia và các tổ chức kinh doanh đó.
ở Việt Nam, khái niệm du lịch được nêu trong pháp lệnh du lịch như sau:
"Du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
thoả m•n nhu cầu tham quan giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất
định"
2. Khái niệm về du lịch quốc tế:
Các định nghĩa về du lịch nói chung và du lịch quốc tế nói riêng đã và đang gặp phải
những khó khăn nhất định. Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa của nhiều tác
giả khác nhau.
Theo định của hội nghị ở Rôma do liên hiệp quốc tổ chức về các vấn đề của du lịch
quốc tế năm 1963: Khách du lịch quốc tế là những người lưu lại tạm thời ở nước
ngoài và sống ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian 24h hoặc hơn.
Định nghĩa trên mắc phải sai lầm đó là không đánh giá đúng mức độ ảnh hưởng hay

phụ thuộc giữa các ngành với nhau trong du lịch. Định nghĩa vẫn chưa giới hạn đầy
đủ đặc trưng về lĩnh vực của các hiện tượng và các mối quan hệ kinh tế du lịch (các
mối quan hệ thuộc loại nào: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá). Ngoài ra, định nghĩa
cũng bỏ sót hoạt động của các công ty giữ nhiệm vụ trung gian nhiệm vụ tổ chức du
lịch và nhiệm vụ sản xuất hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách du lịch.
Xuất phát từ những thực tế đó, chúng ta chỉ có thể nhìn nhận du lịch quốc tế như sau:
Du lịch quốc tế là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của cuộc
hành trình nằm ở các quốc gia khác nhau. ở hình thức này khách phải vượt qua biên
giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch. Từ cách nhìn nhận trên chúng ta có thể thấy
rằng du lịch quốc tế là những hình thức du lịch có dính dáng tới yếu tố nước ngoài,
điểm đi và điểm đến của hành trình ở các quốc gia khác nhau, khách du lịch sử dụng
ngoại tệ của nước mình đem tới nước du lịch để chi tiêu cho nhu cầu du lịch của
mình.
3. Phân loại du lịch quốc tế.
Du lịch quốc tế được chia làm hai loại: Du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế
bị động.
+ Du lịch quốc tế chủ động là hình thức du lịch của khách ngoại quốc đến một đất
nước nào đó, ví dụ đến Việt Nam và tiêu tiền kiếm được từ đất nước của họ.
+ Du lịch quốc tế bị động là hình thức du lịch có trong trường hợp các công dân Việt
Nam đi ra ngoài biên giới nước ta và trong chuyến đi ấy, họ tiêu tiền kiếm được ở
Việt Nam.
Xét trên phương diện kinh tế, du lịch quốc tế chủ động gần giống hoạt động xuất
khẩu vì nó làm tăng thu nhập ngoai tệ cho đất nước du lịch. Khách du lịch quốc tế
đến Việt Nam đổi ra bản tệ để chi tiêu số tiền chi tiêu ở nơi du lịch đẩy mạnh cán cân
thanh toán của Việt Nam. Đối với hình thức du lịch quốc tế bị động, loại du lịch này
tương tự như nhập khẩu hàng hoá vì nó liên quan tới chi ngoại tệ.
Xét trên phương tiện văn hoá xã hội: Khách du lịch quốc tế có cơ hội tìm hiểu các
phong tục tập quán, hệ thống văn hoá, pháp luật của nước sở tại, đồng thời chịu sự
chi phối của hệ thống chính trị, văn hoá, kinh tế cũng như pháp luật của nước đó.
Điều này có nghĩa là khi đó du lịch tại một quốc gia khác, khách du lịch phải tuân

theo qui định về luật pháp, văn hoá, xã hội, của quốc gia đó.
Nguyên tắc trao đổi văn hoá và kinh tế trên cơ sở này sẽ có ảnh hưởng tích cực tới sự
phát triển của du lịch quốc tế chủ động cũng như du lịch quốc tế bị động, tuy nhiên
mỗi đất nước tuỳ thuộc vào khả năng của mình mà có những định hướng phát triển
cho phù hợp.
4. Vai trò của du lịch quốc tế.
Ngành du lịch có tác động tích cực đến nền kinh tế của đất nước, của vùng hoặc của
một nơi riêng biệt thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Do vậy, để nhận rõ
được vai trò của du lịch quốc tế đối với quá trình tái sản xuất xã hội cần hiểu rõ
những đạc điểm tiêu dùng du lịch. Những đặc điểm quan trong nhất là:
+ Nhu cầu tiêu dùng trong du lịch là những nhu cầu đặc biệt bao gồm: Nhu cầu hiểu
biết kho tàng văn hoá, lịch sử, nhu cầu vãn cảnh thiên nhiên, nhu cầu khám phá
những điều mới lạ.
+ Tiêu dùng du lịch thoả mãn các nhu cầu hàng hoá (thức ăn, hàng hoá mua sắm,
hàng lưu niệm ) và đặc biệt là các nhu cầu về dịch vụ nơi ở, vận chuyển hành
khách, y tế, thông tin
+ Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hoá diễn ra đồng thời với việc sản xuất
ra chúng. Trong du lịch không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hoá đến cho khách
và ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến nơi có hàng hoá.
+ Việc tiêu dùng du lịch chỉ thoả mãn những nhu cầu thứ yếu đối với con người (với
ngoại tệ ở thể loại du lịch giữa khi đó du lịch có ý nghĩa sống còn đối với người
bệnh)
+ Tiêu dùng du lịch thường xảy ra theo thời.
Qua những đặc điểm tiêu dùng ở trên, ta có thể thấy vai trò của kinh doanh du lịch
quốc tế như sau:
4.1 Du lịch quốc tế tạo nguồn thu nhập ngoại tệ đáng kể cho đất nước.
Thật vậy, năm 1998, Mêhico đã thu được 7,8 tỷ USD, đứng thứ 2 về thu nhập của cả
nước, đứng thứ 14 thế giới về thu nhập từ du lịch. Ngoại tệ thu được từ du lịch quốc
tế góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước và thường được sử dụng để
mua sắm thiết bị máy móc cần thiết cho quá trình tái sản xuất xã hội. Do vậy, du lịch

quốc tế góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng thu nhập quốc dân.
4.2 Tạo điều kiện cho đất nước phát triển du lịch.
Cũng như ngoại thương, du lịch quốc tế tạo điều kiện cho đất nước phát triển du lịch,
tiết kiệm lao động xã hội khi xuất khẩu một số mặt hàng. Nhưng xuất khẩu theo
đường du lịch quốc tế có lợi hơn nhiều so với xuất khẩu ngoại thương. Trước hết,
một phần rất lớn đối tượng mua bán quốc tế là các dịch vụ (lưu trữ, bổ sung, trung
gian ) Do vậy, xuất khẩu của du lịch quốc tế còn là hàng ăn uống, hoa quả, rau
xanh, hàng lưu niệm. Như vậy, xuất khẩu qua du lịch quốc tế là "Xuất khẩu tại chỗ"
hàng hoá, dịch vụ, những hàng hoá không thể hay khó xuất khẩu được con đường
ngoại thương thông thường, mà nếu muốn xuất khẩu chúng thì phải đầu tư nhiều chi
phí cho việc đóng gói, bảo quản và vận chuyển mà giá cả lại thấp hơn.
Việc xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế luôn đảm bảo thực hiên doanh thu lớn hơn
nếu cùng xuất khẩu những hàng hoá đó theo đường ngoại thương vì hàng hoá xuất
khẩu theo đường du lịch quốc tế theo giá bán lẻ còn nếu xuất khẩu hàng hoá đó bằng
con đường ngoại thương thì giá này là giá bán buôn.
Xuất khẩu thông qua du lịch quốc tế không tốn chi phí vận chuyển quốc tế, tốn ít chi
phí đóng gói và bảo quản hơn xuất khẩu ngoại thương vì nó được vận chuyển trong
phạm vị đất nước du lịch. Bên cạnh đó, xuất khẩu theo đường kinh doanh du lịch
quốc tế không phải tốn chi phí trong hoạt động xuất khẩu do trả thuế xuất khẩu cũng
như tốn các chi phí về bảo hiểm.
4.3 Tiết kiệm thời gian và tăng vòng quay của vốn đầu tư:
Do đặc điểm của tiêu dùng du lịch là: Khách hàng phải tự vận động đến nơi có hàng
hoá và dịch vụ chứ không phải vận chuyển hàng hoá đến với khách nên tiết kiệm
được thời gian làm tăng nhanh vòng quay của vốn đầu tư, do đó thu hồi vốn nhanh
và có hiệu quả. Ngoài ra khi thu hồi vốn đầu tư vào du lịch quốc tế thực chất đã
"Xuất khẩu" được nguyên vật liệu và lao động. Nguyên vật liệu ở đây thường không
phải là đối tượng xuất khẩu theo đường ngoại thương.
4.4 Du lịch quốc tế là phương tiện quảng cáo không mất tiền cho đất nước du lịch
chủ nhà.
Khi khách tới khu du lịch, khách có điều kiện làm quen với một số mặt hàng ở đó,

khi trở về khách có thể yêu cầu cơ quan ngoại thương nhập khẩu mặt hàng đó về
quốc gia của mình. Theo cách này, du lịch quốc tế góp phần tuyên truyền cho nền
sản xuất của nước du lịch chủ nhà.
4.5 Mở rộng và củng cố các mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Sự phát triển của du lịch quốc tế có ý nghĩa quan trong đến việc mở rộng và củng cố
các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các mối quan hệ này chủ yếu theo các hướng: Ký
kết hợp đồng trao đổi khách giữa các nước tổ chức và hãng du lịch; hợp tác quốc tế
trong lĩnh vực vay vốn phát triển du lịch; hợp tác trong lĩnh vực cải tiến các mối
quan hệ tiền tệ trong du lịch quốc tế.
Bên cạnh đó, du lịch quốc tế góp phần thúc đẩy các quốc gia bảo tồn các di sản văn
hoá dân tộc, bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên-xã hội. Du lịch quốc tế cũng
kích thích các ngành nghề khác phát triển như: Giao thông vận tải, thông tin liên lạc,
khách sạn, y tế, xây dựng. Du lịch quốc tế có vai trò quan trọng trong việc giáo dục
tinh thần quốc tế cho các dân tộc, làm cho mọi người thấy được sự cần thiết phải
phát triển và củng cố các nối quan hệ quốc tế. Du lịch quốc tế góp phần làm cho các
dân tộc gần gũi nhau hơn, bình thường hoá quan hệ quốc tế và tăng thêm phần hữu
nghị giữa các dân tộc. Theo số liệu thống kê gần đây của UNESCO thì 11% đầu tư
của thế giới dành cho du lịch, 10,9% sản phẩm sản xuất ra là do ngành này, 10.7% số
người lao động làm việc trong lĩnh vực "Công nghiệp không khói" và 20% giao
thông thương mại thế giới phục vụ chu du lịch. Điều đó càng khẳng định du lịch là
nghành có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nhiều quốc gia.
5. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động dulịch quốc tế.
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, lĩnh vực dịch vụ đ•
đóng vai trò quan trọng và ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời sống kinh doanh ã hội
của các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Năm 1970, dịch vụ chiếm
55% tổng sản phẩm của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Đến năm
1990, tỉ trọng của dịch vụ đã tăng lên tới 65%, trong đó phần lớn là sự tăng trưởng
của các ngành tham gia vào thương mại quốc tế. Chính vì vậy, việc xác định các yếu
tố ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh dịch vụ quốc tế nói chung và kinh doanh du
lịch quốc tế nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó giúp khắc phục, hạn chế

những tác động xấu đến lĩnh vực kinh doanh du lịch quốc tế, đồng thời góp phần
thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này. Có thể liệt kê một vài yếu tố ảnh hưởng tới
kinh doanh du lịch quốc tế :
Sự tăng cầu về du lịch của người tiêu dùng (do thu nhập tăng).
Sự tăng cầu của các hãng về du lịch.
Khả năng cung ứng của các nhà cung cấp du lịch.
Giá cả và chất lượng dịch vụ du lịch.
Việc thiểu hóa và việc bảo tồn nguyên vật liệu cũng là một nguyên nhân khiến cho tỉ
trọng ngành du lịch tăng lên biểu hiện ở đầu ra công nghiệp.
Thay đổi kỹ thuật đã nuôi dưỡng khả năng tồn tại và khả năng tiếp xúc với nhau của
các hãng kinh doanh du lịch cách xa trên thế giới.
Sự phát triển của các Công ty đa quốc gia.
Việc xoá bỏ các hàng rào chắn, các quy định cũng tạo ra điều kiện cho ngành du lịch
phát triển ở tầm cỡ quốc tế.
Sự can thiệp của chính phủ.
Có thể nói, đến lượt mình, thương mại lại trở thành chìa khóa cho sự phát triển ngành
du lịch trên phạm vi quốc tế. ảnh hưởng của các yếu tố trên tới kinh doanh du lịch
quốc tế biểu hiện như sau :
Việc tiêu chuẩn các dịch vụ du lịch được cung cấp.
Các cơ hội cho việc đặc thù hóa các dịch vụ du lịch được cải tạo, chẳng hạn thông
qua việc ký kết hợp đồng với một hãng lập trình nước ngoài để thiết kế hệ thống kế
toán đặc thù.
Cuộc cách mạng thông tin là trung tâm của toàn bộ quá trình, cụ thể là dưới dạng
máy tính hóa và việc trao đổi thông tin qua mạng. Sự đổi mới kỹ thuật trong lĩnh vực
máy tính và sự truyền bá nhanh chóng của nó đã và đang cách mạng hóa tốc độ và
khối lượng của chuyển đổi thông tin nhiều lần trong cùng một thế hệ.
Các dịch vụ kinh doanh du lịch đòi hỏi sự gặp mặt trực tiếp giữa người mua và người
bán ngày càng giảm. Sự thay đổi nhanh chóng của hệ thống thông tin và mạng lưới
liên lạc, sự hoạt động của các dịch vụ không còn phụ thuộc vào sự có mặt mang tính
địa lý của nó nữa. Các Công ty đa quốc gia có thể bán các dịch vụ mà không cần đầu

tư trực tiếp, tuy nhiên đầu tư trực tiếp và sản lượng tiêu thụ các dịch vụ qua các thực
thể của họ dường như là một phương thức được ưa chuộng.
Mặc dù các rào chắn kỹ thuật và chính sách đang giảm đối với các dịch vụ song trên
thực tế, với số lượng và các hình thức của các rào chắn dịch vụ như hiện này thì các
rào chắn dịch vụ vẫn còn cao hơn nhiều so với các rào chắn hàng hóa thông thường
khác. Các rào chắn này tồn tại dưới dạng như :
Kiểm soát trực tiếp di chuyển dịch vụ du lịch qua biên giới.
Hạn chế các dự án đầu tư liên quan đến dịch vụ du lịch.
Không khuyến khích thương mại thông qua các thủ tục hành chính, thuế khóa và các
tiêu chuẩn sở hữu. Cả hai đối tượng là các hãng cung cấp dịch vụ và các khách hàng
tiềm năng đều đòi hỏi việc xóa bỏ các hàng rào này.
Sự không khuyến khích của chính phủ đối với việc cung cấp và tiêu thụ các sản
phẩm du lịch quốc tế.
Các trở ngại đối với việc kinh doanh du lịch ở nước ngoài gồm hai hình thức cơ bản :
Các hàng rào hạn chế xâm nhập và những khó khăn của việc cung cấp dịch vụ ở
nước ngoài. Các hàng rào hạn chế xâm nhập thường được xem là yếu tố để đảm bảo
an ninh quốc gia, an ninh kinh tế. Chính phủ thường đưa ra các biện pháp, chính sách
để bảo hộ mạnh mẽ đối với hoạt động dịch vụ trong nước. Các quy định bắt buộc các
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải bỏ ra một khoản chi phí lớn hơn so với các
nhà cạnh tranh nội địa, không cho phép tự do cạnh tranh trong một số lĩnh vực dịch
vụ
Như bất cứ một loại hình kinh doanh, một lĩnh vực kinh doanh nào khác, lĩnh vực
kinh doanh du lịch cũng chịu sự tác động, sự chi phối của môi trường kinh doanh du
lịch quốc tế. Mỗi một quốc gia, mỗi một khu vực đều có những đặc trưng khác nhau
về môi trường kinh doanh. Mỗi quốc gia có một môi trường luật pháp, môi trường
kinh tế, môi trường chính trị, môi trường văn hóa, môi trường cạnh tranh khác nhau.
Mặt khác các nhân tố, các điều kiện của môi trường kinh doanh cũng rất phong phú,
đa dạng và luôn biến đổi khá phức tạp. Sự thay đổi đó có ảnh hưởng không nhỏ tới
hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế. Nó đòi hỏi các nhà kinh doanh du lịch quốc tế
phải nắm vững được các đặc điểm, sự thay đổi của các yếu tố thuộc môi trường kinh

doanh nhằm có biện pháp, hướng đi thích hợp để nâng cao hiệu quả, phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh du lịch của mình.
6. Kinh nghiệm phát triển hoạt động du lịch quốc tế cua một số nước trên thế giới.
6.1. Đặc điểm thị trường du lịch quốc tế.
Thị trường du lịch là một bộ phận cấu thành đặc biệt của thị trường hàng hoá bao
gồm toàn bộ những mối quan hệ và cơ chế kinh tế có liên quan tới thì gian, điều kiện
và phạm vi thực hiện dịch vụ và đáp ứng các nhu cầu xã hội về du lịch.
Nói đến thị trường du lịch quốc tế là nói đến sản xuất trao đổi sản phẩm, dịch vụ du
lịch, là đối thoại giữa người sản xuất và người tiêu dùng trong đó người tiêu dùng
được thoả m•n nhu caàu của mình về các sản phẩm hay dịch vụ du lịch, còn người
sản xuất thông qua tiếp xúc với khách hàng mà định hướng hoạt động kinh doanh
của mình sao cho thu được hiệu quả kinh tế tối đa. Nói một cách chi tiết và đầy đủ
hơn thì thị trường du lịch quốc tế là lĩnh vực cụ thể trong lưu thông hàng hoá, dịch vụ
du lịch, là tổng hợp các điều kiện thực hiện các sản phẩm hàng hoá đó về kinh tế
(gồm các yếu tố nhờ cung cấp giá cả ) kỹ thuật và tâm lý xaờng du lịch quốc tế
mang tính độc lập tương đối so với thị trường hàng hoá nói chung vì nó thực hiện
dịch vụ hàng hoá của ngành du lịch.
Do sản phẩm của du lịch quốc tế không thể vận chuyển từ nơi này đến nới khác nên
trên thị trường không có sự chuyển dịch của hàng hoá khách du lịch muốn tiêu dùng
sản phẩm du lịch phải tới nơi có sản phẩm, một số hàng hoá cảu tiêu dùng và sẩn
xuất chúng diễn ra đồng thời tại một địa điểm.
Thị trường du lịch quốc tế cũng như các thị trường hàng hoá thông thường đều chịu
sự chi phối của cácqui luật kinh tế như qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh, qui luật
giá cả, nhưng do có những đặc điểm riêng biệt nên thị trường du lịch xuất hiện muộn
hơn so với các thị trường hàng hoá khác. Thị trường du lịch là tập hợp của cung, cầu
về sản phẩm du lịch (trong đó chủ yếu là dịch vụ) và các mối quan hệ để xác định giá
cả giữa chúng.
Một đặc điểm tiếp theo của thị trường du lịch quốc tế đó là thị trường du lịch quốc tế
chịu sự tác động của các điều kiện về kinh tế, điều kiện về giao thông, không khí hoà
bình ổn định trong nước độ an toàn đối với khách. Tính ổn định của thị trường du

lịch bị ảnh hưởng rất lớn bới các điều kiện trên. Cụ thể là do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng châu á gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nước châu á đã làm cho người ta
ít đi du lịch nước ngoài hơn. Người châu Âu chỉ thích đi du lịch các nước trong châu
Âu và người châu á không muốn đi du lịch ở các nước ngoài châu á với lý do tiết
kiệm chi phí. Người Mỹ sẽ ít đi du lịch ở các nước đạo hồi hơn vì lo ngại tình trạng
khủng bố của phong trào Hồi giáo quá khích. Vì lý do đó thị trường du lịch Mỹ la
tinh và vùng Caribe sẽ được lời nhờ thu hút được du khách Hoa Kỳ đến thăm do sự
thuận tiện về mặt địa lý, tương đồng với văn hoá Mỹ và tình hình chính trị khá ổn
định.
6.2. Kinh nghiệm phát triển hoạt động du lịch quốc tế của một số nước trên thế giới.
Du lịch được người ta ví như một ngành công nghiệp không khói. Ngành du lịch đã
và đang góp phần tích cực trong sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Ngành du
lịch góp phần tăng thu ngoại tệ, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy nhiều ngành kinh tế
khác cùng phát triển Chúng ta có thể tổng hợp một số kinh nghiệm quản lý, kinh
doanh du lịch ở một số nước như sau:
1. Coi trọng chiến lược, kế hoạch và các chính sách thúc đẩy phát triển du lịch.
Kinh nghiệm của "Cường quốc" Du lịch trên thế giới cho thấy, muốn phát triển du
lịch trở thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu thì phải đặt nó trong chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Chiến lược ưu tiên phát triển du lịch này
phải thông qua một hệ thống cơ chế chính sách đồng bộ nhằm huy động mọi nguồn
lực để thực hiện, đưa du lịch phát triển với tốc độ cao và vững chắc. Hệ thống cơ chế
chính sách phải xuất phát từ những đặc trưng của du lịch là ngành kinh tế tổng hợp,
có tính liên ngành, liên vùng, xã hội hoá cao, mang tính toàn cầu hoá, khu vực hoá.
Du lịch càng phát triển thì tính chất xã hội hoá của nó càng cao, sự liên ngành và
phạm vi hoạt động cuả nó càng rộng rãi. Ngoài ra, cơ chế và các chính sách phát
triển du lịch phải thích ứng với điều kiện lịch sử, tận dụng được thời cơ và vận hội ở
từng thời điểm.
Trong hệ thống chính sách thì chính sách ổn định chính trị ,kinh tế trong nước là
chính sách cơ bản, quyết định hàng đầu cho việc phát triển du lịch. Chẳng hạn ở ấn
Độ, sự thất bại của "Năm du lịch ấn Độ 1991" trước hết là do bất ổn định của tình

hình chính trị và kinh tế trong nước với sự kiện thủ tướng Rajiv Gandhi bị ám sát,
tiếp đến xung đột phe phái, tình trạng lộn xộn ở một số bang, thêm vào đó là hạ tầng
cơ sở yếu kém đưa đến hậu quả là số khách quốc tế tới thăm giảm 30% so với năm
trước.
Thường thì ở các nước có du lịch phát triển, ngành du lịch được hình thành trên cơ
sở tận dụng được những lợi thế so sánh, nhưng thời gian đầu sức mạnh của nó thể
hiện nhiều ở xu thế phát triển chứ chưa ở thực lực. Trên cơ sở xác định như vậy, các
nước này có sự ưu tiên để thúc đẩy du lịch phát triển tạo thế cho ngành du lịch, sau
khi đạt đến độ phát triển nhất định, nó sẽ mang lại tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu
quả chính trị, văn hoá xã hội cũng phát triển. Du lịch muốn phát triển phải dựa trên
cơ sở nguồn tài nguyên du lịch. Song nguồn tài nguyên ấy, lúc đầu tồn tại phần nhiều
ở dạng tiềm nămg. Muốn tiềm năng du lịch biến thành khả năng, thành sản phẩm du
lịch, nhất thiết phải có sự ưu tiên đầu tư cho nó, bao gồm: đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vụ du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực du lịch, ưu tiên cho việc chuyên môn hoá, hiện đại hoá trong ngành du lịch Đây
là những nội dung cơ bản trong việc ưu tiên phát triển ngành du lịch hiện nay.
Tổ chức Du lịch Thế giới, trong một báo năm 1987, đã nhận xét: Kinh tế du lịch ở
một số nước phát triển mạnh, không phải là sự ngẫu nhiên, đột xuất mà do nhà nước
đã quan tâm, đặt ra mục tiêu đưa Du lịch thành một ngành kinh tế quan trọng trong
quốc sách của mình.
Nước Pháp đã trở thành một trong những điểm du lịch số 1 trên thế giới, năm 1996
thu hút 61,5 triệu lượt khách nước ngoài đến du lịch, phục vụ 230 triệu lượt người
Pháp đi du lịch các vùng trong nước, tổng thu nhập du lịch chiếm 10% GDP cả nước;
du lịch nước Pháp đã tạo ra 2 triệu việc làm cho xã hội. Sở dĩ nước Pháp đạt được kết
quả như vậy là do từ khâu xây dựng kế hoạch đến chính sách ưu tiên phát triển du
lịch đã tập trung vào các mục tiêu rất cụ thể: an toàn du lịch cao, vệ sinh môi trường
tốt, chiến lược tiếp thị quảng cáo năng động, sản phẩm du lịch đa dạng, chất lượng
cao đáp ứng thị hiếu đủ sức cạnh tranh với các nước châu âu khác như ý, Tây Ban
Nha
Du lịch của Indonesia có bước tiến nhảy vọt trong vòng 10 năm (1985-1995) vì có

một số chiến lược phát triển du lịch rất toàn diện, gồm 10 điểm: Đẩy mạnh công tác
tiếp thị, tăng cường khuyến mại sản phẩm du lịch ra nước ngoài; giao thông thuận
tiện đến các điểm du lịch; đa dạng hoá sản phẩm du lịch; chú trọng đến phát triển du
lịch phù hợp với các đối tượng khách hàng; kiện toàn mói quan hệ giữa Nghành du
lịch với giao thông vận tải, an ninh quốc gia; giáo dục đào tạo, quản lý lực lượng làm
du lịch; khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển du lịch; phát triển du lịch đồng bộ;
giáo dục mọi người dân hiểu rõ tầm quan trọng của du lịch. Nhờ đặt kế hoạch phát
triển du lịch trong chiến lược quốc gia nên có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành du
lịch với các ngành kinh tế, văn hoá. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng
đưa du lịch của Indonesia trong những năm gần đây đạt được những thành tựu đáng
kể. Du lịch Indonesia đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia, khoảng 3-4 tỷ
USD mỗi năm. Indonesia đã đề ra và đang thực hiện kế hoạch khuyến khích phát
triển du lịch 1993-2003 với tên gọi là "Thập kỷ du lịch Indonesia". Chính sách du
lịch được hướng vào thị trường các nước có tiềm năng lớn, đặc biệt là Nhật Bản, Đài
Loan, austalia và các nước ASEAN.
Singapo cũng có bước tiến dài trên con đường phát triển du lịch. Với nỗ lực của Cục
xúc tiến du lịch Sangapore (STPB), của các cơ quan hữu quan Chính phủ và các
danh nghiệp, Singapore được dự kiến xây dựng thành một thủ đô của du lịch, một
bức tranh sinh động và hấp dẫn của nghành công nghiệp trong tương lai không xa.
Viễn cảnh tương lai đó sẽ được thực hiện qua 6 định hướng chiến lược:
- Xác định lại vị trí của ngành du lịch.
- Phát triển và nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Phát triển du lịch như một nghành công nghiệp.
- Quy hoạch không gian phát triển du lịch.
- Hợp tác cùng có lợi.
- Phấn đấu xây dựng một cường quốc du lịch.
Về tổng thể, 6 định hướng chiến lược đó hình thành một mô hình kiến trúc tầm chiến
lược, một phác thể để phát triển du lịch trong thế kỷ 21.
2. Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.
Bất cứ lĩnh vực nào muốn phát triển đều phải đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở

vật chất kỹ thuật. Đối với du lịch cũng vậy, muốn phát triển, trước tiên các phương
tiện giao thông, thông tin liên lạc phải rất hiện đại. Hiện nay, ở nhiều nước, công
nghệ thông tin du lịch đang được ứng dụng phổ biến, như ở Mỹ, lao động trong các
cơ sở thông tin du lịch chiếm 37% lao động của ngành du lịch, ở Anh chiếm 35%, ở
Pháp chiếm 35,1%, ở Đức chiếm 30%.
Các nước trong vùng Đông Nam á, như Indonesia, trong vòng 10 năm (1985-1994)
số lượng du khách quốc tế tăng bình quân 20,5% /năm do nhiều nguyên nhân, trong
đó có nguyên nhân rất quan trọng là: Nhà nước trung ương và địa phương đã chú
trọng đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng, phục vụ phát triển du lịch. Các nước khác
như Singapore, Thái Lan, Malaysia cũng đều có cả một quá trình đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng, nhờ vậy mà du lịch của họ đạt nhiều kết quả.
Trong xây dựng cơ sở vật chất chuyên nghành, ngoài việc chú trọng xây dựng khách
sạn phải chú ý xây dựng cơ sở vui chơi, giải trí, các khu du lịch và các quần thể du
lịch (như Trung Hoa Cẩm Tú của Trung Quốc, Trung tâm giải trí ở Cao Nguyên
Genting Malaysia, Thế giới thiên đàng Địa ngục của Singapore ) để giữ khách lưu
lại lâu hơn, tăng nguồn thu và tăng khả năng hấp dẫn khách đến nhiều lần. Các
nguồn vốn để thực hiện chủ yếu là liên doanh với nước ngoài, vốn vay và huy động
trong dân.
Để đảm bảo cân đối trong xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, phải coi trọng
công tác quy hoạch là công tác hàng đầu, gắn qui hoạch du lịch với quy hoạch kinh
tế xã hội của cả nước và của từng địa phương. Đồng thời với quy hoạch phải lo dự án
đầu tư để thực hiện đồng bộ. Malaysia và Singapore có kinh nghiệm về quy hoạch và
tổ chức quản lý thực hiện quy hoạch. ở đây trên cơ sở quy hoạch kinh tế - xã hội
chung, họ tiến hành quy hoạch từng vùng, trong quy hoạch từng vùng, từng khu vực
thường là quy hoạch cả không gian (mô hình) và làm dự án cụ thể. Từ đó mới đề ra
chính sách để dầu tư (đấu thầu, cho thuê trọn, cổ phần). Do vậy, những khu công
nghiệp mới, các thành phố đều gắn với các điểm du lịch. Đảm bảo được tính đồng bộ
trong quy hoạch xây dựng.
Thực tiễn của các nước có Ngành du lịch phát triển lâu năm, cũng như một số nước
có Ngành du lịch mới phát triển mạnh đều có sự ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất kỹ

thuật du lịch. Hàn Quốc coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn nên đã đầu tư vào xây
dựng khách sạn. Năm 1990, Hàn Quốc có 399 khách sạn lớn với tổng số với 40
nghìn buồng, thu hút 2,9 triệu lượt khách nước ngoài, doanh thu từ du lịch 3,43 tỷ
USD; năm 1991 đưa thêm 195 khách sạn mới với 18 nghìn buồng vào hoạt động.
Malaysia là cường quốc du lịch ở Đông Nam á cũng thực hiện ưu tiên đầu tư rất lớn
cho du lịch, tạo ra nhiều bãi biển đẹp, cung cấp nhiều thực phẩm phong phú và các
món ăn ngon. Chính phủ Malaysia mạnh dạn đầu tư các khoản tiền lớn vào việc
trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử, tận dụng địa hình nhiều đảo cùng các danh lam
thắng cảnh khác, hoàn thành sân bay mới Hiện nay, Malaysia có 80 nghìn buồng
khách sạn, với tốc độ tăng buồng khách sạn hàng năm trên 10%.
ở Trung Quốc 10 năm trở lại đây, Nhà nước và chính quyền địa phương ở các tỉnh,
thành phố đều rất quan tâm đầu tư các công viên, nâng cấp giao thông vận tải, thông
tin liên lạc đạt tiêu chuẩn quốc tế. Hiện nay, Trung Quốc có khoảng 450 nghìn buồng
khách sạn với tốc độ tăng trưởng buồng khách sạn trên 5%/ năm.
Nhiều nước khác trong khu vực cũng đang tích cực đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ
thuật và cơ sở hạ tầng để phát triển Ngành du lịch.
3. Chiến lược sản phẩm du lịch
Các nước đều chú trọng thực hiện chiến lược sản phẩm đặc thù, chất lượng tốt, giá
thành hạ để nâng cao sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh. Chiến lược sản phẩm như
vậy, đặc biệt là chiến lược sản phẩm du lịch, phụ thuộc vào công tác quản lý hệ
thống doanh nghiệp, đào tạo cơ sở vật chất kỹ thuật.
Hệ thống doanh nghiệp du lịch nước ngoài bao gồm các hãng, công ty du lịch (lữ
hành), doanh nghiệp khách sạn và các doanh nghiệp dịch vụ du lịch khác, hoạt động
chuyên môn hóa theo ngành nghề. Trong quản lý doanh nghiệp, kinh nghiệm đáng
chú ý của nước ngoài là phân loại doanh nghiệp và phân hạng khách sạn để nâng cao
chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh. Trong quá trình hoạt động đã hình
thành các Hiệp hội du lịch, Hiệp hội khách sạn hoặc Hiệp hội hỗn hợp nhiều loại
hình doanh nghiệp trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc trên toàn thế giới, hỗ trợ
nhau cùng phát triển. Ví dụ, Hiệp hội Du lịch Hàn Quốc thành lập từ năm 1963, nay
có 2.939 hội viên (2.389 hãng lữ hành, 480 khách sạn); Hiệp hội Du lịch Châu á Thái

Bình Dương (PATA) thành lập năm 1951 bao gồm các thành viên là 2000 tổ chức lữ
hành, 95 cơ quan du lịch quốc gia và địa phương, 65 hãng hàng không và tàu biển,
557 khách sạn, 434 đại lý du lịch; ngoài ra còn có 16.000 hãng lữ hành, khách sạn là
thành viên của 79 chi hội thuộc trên 40 quốc gia trên thế giới . . .
Các quốc gia, các địa phương dựa vào những lợi thế so sánh để tạo nên những sản
phẩm độc đáo, đa dạng, hấp dẫn khách đến du lịch và du khách với các sản phẩm du
lịch độc đáo nên đã thu hút só lượng khách quốc tế ngày một đông. Tại Băngkok
(Thái Lan) có các cửa hàng miễn thuế bán các sản phẩm truyền thống giá rẻ, chất
lượng cao, các mặt hàng xa xỉ phẩm của các nước nổi tiếng, các loại quần áo hợp
mốt của các nhà thiết kế có tên tuổi, nhằm thu hút khách du lịch. Tư tưởng chỉ đạo
hoạt động du lịch của Thái Lan là: Luôn tìm cách thoả mãn nhu cầu của khách hàng
về vật chất, tinh thần và tâm lý. Khẩu hiệu phục vụ khách hàng là gây ấn tượng tốt
cho khách ngay từ bước chân đầu tiên đến Thái Lan và làm cho khách hài lòng đến
điểm cuối cùng; 80% số người nước ngoài vào Thái Lan chỉ cần ghi tên là xong,
không phải cần nhiều thủ tục phiền hà.
ở Trung Quốc, Ngành du lịch đã đưa ra những sản phẩm du lịch độc đáo, đa dạng
nhằm thu hút du khách, mỗi năm có một chủ đề riêng: Năm 1993 là "Năm du lịch
phong cảnh", năm 1994 là "Năm du lịch văn vật - lịch sử", năm 1995 là "Năm du lịch
phong tục tập quán các dân tộc", năm 1996 "Năm du lịch nghỉ mát", năm 1997 là
"Năm du lịch đón Hồng Kông trở về với Trung Quốc". Kết quả năm 1996 số khách
du lịch đến Trung Quốc lên 26 triệu lượt, tăng 11,5% so với năm 1995, được xếp
hàng thứ 5 trên thế giới (năm 1990 xếp thứ 12), thu nhập ngoại tệ đạt 10,5 tỷ USD.
4. Tăng cường tiếp xúc tiếp thị du lịch
Mục đích của xúc tiến là tăng cường quảng cáo trong du lịch nhằm giới thiệu, hình
thành, định hướng các sản phẩm du lịch của đất nước đối với du khách, xúc tiến,
tuyên truyền quảng cáo là một chi phí nhưng rất cần thiết trong du lịch, hiệu quả rất
lớn, khó lượng hoá. Tổ chức du lịch thế giới chẳng những quan tâm đến số thu nhập
ngoại tệ do du lịch mang lại, sự tiến bộ của giao thông- vận chuyển, thông tin liên lạc
mà còn theo dõi sát ngân sách chi cho xúc tiến của các thành viên, khuyến khích
các nước đẩy mạnh xúc tiến du lịch.

Xúc tiến du lịch được các nước rất chú ý, nhà nước tài trợ kinh phí rất lớn và cho
thực hiện nhiều biện pháp hữu hiệu. Nhiều nước có Cơ quan Xúc tiến du lịch với các
tên gọi khác nhau như: Malaysia, Singapore có Cục xúc tiến du lịch, Hàn Quốc có
Liên đoàn Du lịch Quốc gia.
Theo tổ chức Du lịch Thế giới: Ngân sách xúc tiến du lịch của các nước hàng năm
đều tăng. Ngân sách du lịch của 84 nước là hội viên tổ chức du lịch Thế giới vào đầu
thập kỷ 80 đã lên tới 2000 triệu USD/ năm (2 tỷ) 43 nước báo cáo con số cụ thể về
tổng số ngân sách chi cho xúc tiến năm 1991 là 1,312 tỷ USD, năm 1992 là 1,416 tỷ.
Năm 1992, Tây Ban Nha chi 85 triệu USD cho xúc tiến, Pháp 72 triệu, Anh 60 triệu,
úc 51 triệu, Mêhico 34 triệu. Để chuẩn bị cho năm du lịch 1994 cho tuyên truyền
quảng cáo; Chính phủ Singapore đã chi 100 triệu USD cho giai đoạn 1996 - 2000 để
phát động chiến dịch xây dựng Singapore thành thủ đô du lịch. Theo các nhà phân
tích quốc tế thì 1 USD bỏ ra cho tuyên truyền quảng cáo du lịch sẽ thu về bình quân
500 USD; tuy nhiên tuỳ theo các yếu tố văn hoá, lịch sử, khí hậu, thắng cảnh, ăn
uống chỉ số này chỉ có sự khác nhau giữa các vùng. Ví dụ, vùng Châu á - Thái
Bình Dương nếu có 1 USD bỏ ra cho quảng cáo du lịch sẽ chỉ thu được 150 USD,
nhưng ở Châu Âu lại lên đến 635 USD.
Nếu xúc tiến du lịch bị xem nhẹ, lơ là sẽ đưa đến tình trạng kinh doanh giảm sút.
Trong vòng 10 năm liên tiếp (1975-1985) nước Pháp có số khách quốc tế đến du lịch
đứng hàng thứ hai thế giới (sau Mỹ). Năm 1985 đạt số lượng cao nhất 28 triệu lượt
khách, thu nhập 10,150 tỷ USD. Nhưng 1986 bị tụt xuống còn 9,5 tỷ USD, đứng thứ
4 sau Mỹ, Tây Ban Nha và Italia. Một trong những nguyên nhân chính đưa tới giảm
sút thu nhập là sự yếu kém trong xúc tiến du lịch. Năm 1992, nước Pháp trở lại
chiếm vị trí hàng đầu, đón 43 triệu lượt và thu 103 tỷ France. Bộ trưởng Giao thông,
Thiết bị, nhà ở và du lịch Pháp đánh giá nguyên nhân thắng lợi đầu tiên là nhờ đẩy
mạnh xúc tiến du lịch. Ngay từ năm 1987, Ngành du lịch Pháp đã thực hiện chiến
lược thống nhất các hoạt động xúc tiến du lịch cả nước trong một tổ chức gọi là Ngôi
nhà nước Pháp ( " Maison de la France " ), trực thuộc Bộ Giao thông, Thiết bị, Nhà ở
và Du lịch. Nhiệm vụ của tổ chức này là tạo ra một hình ảnh nước Pháp tiêu biểu,
quảng bá du lịch, đưa sản phẩm du lịch của nước Pháp ra nước ngoài đủ mạnh để tác

động vào du khách. Ngân sách hoạt động cho ngôi nhà chung từ 2 nguồn: 50% do
nhà nước cấp, 50% do tư nhân đóng góp.
Các nước du lịch phát triển đều đặt đại diện du lịch quốc gia, dưới hình thức văn
phòng hay Đại diện du lịch ở nước ngoài để làm công tác xúc tiến, quảng bá, nghiên
cứu thị trường thu hút khách vào nước mình, coi đây là phương tiện quan trọng xúc
tiến quốc tế. Theo điều tra của Tổ chức du lịch thế giới thì hiện nay chỉ cóa khoảng
14% số nước không có Văn phòng đại diện du lịch quốc gia ở nước ngoài, nhưng họ
giao chức năng này cho Sứ quán đảm nhiệm. Lào là nước du lịch chưa phát triển,
nhưng do thấy được vai trò quan trọng của Văn phòng du lịch quốc gia nên đã đặt
văn phòng du lịch Lào tại Băngkok. Có nước đặt văn phòng du lịch quốc gia riêng
biệt, có nước đặt trong Đại sứ quán với tên gọi đại diện. Pháp hiện nay có 39 văn
phòng du lịch ở nước ngoài, ý có 30, Tây Ban Nha 28, úc 24, Hàn Quốc 18, Mehico
16, Nhật Bản 16, New Sealand 15, Đức 14 văn phòng và 10 đại diện, Mỹ 12, các
nước ASEAN: Indonesia 10, Malaysia 15, Thái Lan 13 văn phòng và 12 đại diện,
Singapore 16 văn phòng và 8 đại diện Số nhân viên làm ở các văn phòng du lịch
quốc gia ở nước ngoài của các nước tương đối nhiều: úc có 172 nhân viên, Pháp có
186, Hy Lạp 128, ý 110, Tây Ban Nha 185
Hội chợ, hội nghị du lịch quốc tế và các sự kiện trong nước như liên hoan nghệ thuật,
Olympic, các sự kiện thể thao là một trong những hình thức xúc tiến, quảng cáo du
lịch hiệu quả nhất. Nhật Bản tổ chức hội nghị du lịch quốc tế 2 năm một lần, có hàng
nghìn đại biểu từ gần 100 nước tham gia. Nhiều nước cử lãnh đạo cao cấp nhất của
Ngành du lịch dẫn đầu đoàn tham gia Hội nghị và tổ chức triển lãm sản phẩm du lịch

×