Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

hệ thống nông nghiệp bền vững ở cấp độ phạm vi hộ gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.77 KB, 55 trang )

BÀI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của môn học
Trong giai đoan hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và thực tiễn xã hội
cùng với xu hướng quốc tế hóa toàn cầu các các mối quan hệ kinh tế thì việc tổ chức và quản lý các lĩnh
vực của đời sống xã hội ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp trong đó có lĩnh vực nông nghiệp.
Nền nông nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây đã có những biến đổi sâu sắc. Từ một nền
nông nghiệp tự cung tự cấp đã chuyển sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường.
Sự chuyển biến đó dã tạo nên những động lực tích cực thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển với sức sống
mới. Sản xuất nông nghiệp không còn bó hẹp trong phạm vi địa phương nhỏ lẻ mà nó mang tính chất
tổng hợp với những tác động ngày càng rõ nét hơn của cơ chế thị trường, của các chính sách vĩ mô và
tầm nhìn chiến lược trên phạm vi cả nước và quốc tế.
Sự phát triển của nông nghiệp không mang tính độc lập mà nó mang tính gắn kết, tương tác lẫn
nhau với các ngành, các lĩnh vực khác.
Chẳng hạn: sự tương tác đó nằm ngay trong mối quan hệ giữa các hoạt động trong nông nghiệp
như mối quan hệ giữa trồng trọt và chăn nuôi hay chăn nuôi với nuôi trồng thủy hải sản...Sự tương tác
giữa nông nghiệp với các hoạt động kinh tế khác như nông nghiệp với công nghiệp cơ khí đã mang lại
cho nông nghiệp các loại máy móc làm giảm sức người và nâng cao năng suất lao động. Hay giữa nông
nghiệp với công nghiệp hóa chất để có được các loại hóa chất, phân bón, thuốc trừ sâu bệnh mang lại
hiệu quả cao. Mối quan hệ đó còn có giữa nông nghiệp với ngành thương mại, công nghiệp chế biến
tong việc bảo quản, chế biến và tìm đâu ra cho các sản phẩm nông nghiệp.
Trong quá trình phát triển của mình, sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn tồn tại một số vấn đề
sau đây:
- Chất lượng và năng suất sản phẩm nông nghiệp còn thấp.
- Chi phí sản xuất nông nghiệp cao dẫn tới thu nhập của người dân thấp.
- Sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên.
- Chất lượng lao động nông nghiệp còn thấp.
- Một số chính sách nông nghiệp không phù hợp, chưa phát huy hết được tiềm năng phát triển
của sản xuất nông nghiệp.
- Nông nghiệp nước ta đang có những tác động xấu tới môi trường gây nhiều hậu quả nghiêm
trọng.
Điều này đòi hỏi các nhà nông, các cơ sở sản xuất và kinh doanh nông nghiệp, cán bộ kỹ thuật


và hoạch định chính sách nông nghiệp, nông thôn phải có một tầm nhìn bao quát hơn, tổng hợp hơn. Đó
là cách nhìn hệ thống, tổng hợp trong phát triển nông nghiệp.
Việc nghiên cứu hệ thống nông nghiệp thường được bắt đầu từ tiếp cận hệ thống. Tiếp cận hệ
thống là con đường nghiên cứu và xử lý các phức hệ có tổ chức. Do đó, tiếp cận hệ thống
khác với tiếp cận phân tích ở các điểm sau:
1 / 55
Phân tích Hệ thống
- Chú ý đến các yếu tố
- Chú ý đến chi tiết
- Nghiên cứu bằng cách thay thế các yếu tố
- Dùng quan sát thống kê
- Xây dựng các mô hình chính xác
- Mục đích nghiên cứu không rõ
- Chú ý đến mối tương quan giữa các yếu tố
- Chú ý đến tổng thể
- Nghiên cứu bằng cách mô phỏng thay cả
nhóm biến
- Dùng quan sát động thái
- Xây dựng mô hình không chính xác để so sánh
với thực tế
- Mục đích nhằm hành động có mục tiêu
2. Phạm vi nghiên cứu
Hệ thống nông nghiệp bao gồm nhiều cấp độ phạm vi khác nhau, đó có thể là hệ thống nông
nghiệp của cả một khu vực, một quốc gia, một vùng lãnh thổ, một địhôa phương hay nhỏ hơn là của một
trang trại, một hộ gia đình.
Trong phạm vi nghiên cứu của môn học, chúng ta sẽ tìm hiểu hệ thống nông nghiệp ở cấp phạm
vi hộ gia đình. Bởi ví trong xu thế phát triển nông nghiệp, nông thôn ngày nay, hộ gia đình được coi là
một tế bào, là cơ sở quan trong để phát triển nông nghiệp nông thôn ở các cấp cao hơn.
Tuy nhiên, môn học không xem xét, nghiên cứu hệ thống nông nghiệp ở cấp hộ gia đình một
cách cô lập, riêng rẽ mà luôn đạt nó trong mối quan hệ phụ thuộc, liên quan với các hệ thống nông

nghiệp ở mức độ phạm vi lớn hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Với phạm vi nghiên cứu của môn học là hệ thống nông nghiệp ở cấp hộ gia đình nông dân thì nội
dung nghiên cứu của môn học nhằm vào giải quyết các vấn đề sau:
- Tìm hiểu hiện nay, hệ thống nông nghiệp ở cấp phạm vi hộ gia đình nông dân bao gômg các
loại hình hệ thống nông nghiệp nào? Ưu, nhược điểm của từng loại và sự phù hợp của chúng đối với các
vùng đất khác nhau.
- Cách thức nghiên cứu, phát triển một hệ thống nông nghiệp ở cấp độ hộ gia đình.
- Xây dựng hệ thống nông nghiệp bền vững ở cấp độ phạm vi hộ gia đình, làm căn cứ để xây
dựng hệ thống nông nghiệp bền vững ớ các cấp phạm vi lớn hơn.
4. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của môn học đựơc phân bổ trong 4 chương:
Bài mở đầu (1 tiết)
Chương I: Lý thuyết hệ thống (4 tiết)
Chương II: Các loại hệ thống nông nghiệp (4 tiết)
Chương III: Hệ thống nông nghiệp bền vững (5 tiết)
Chương IV: Nghiên cứu phát triển hệ thống nông nghiệp (11 tiết)
Câu hỏi và thảo luận (5 tiết)
2 / 55
CHƯƠNG I
LÝ THUYẾT HỆ THỐNG
Lý thuyết hệ thống ra đời từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX và đã nhanh chóng trở thành một
công cụ quý giá cho các nhà nghiên cứu và quản lý.
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1. Khái niệm vấn đề
Vấn đề là khoảng cách giữa điều mà con người mong muốn và có thể thực hiện được với cái
thực tế mà con người chưa đạt tới.
Để nghiên cứu và phát hiện vấn đề một cách thấu đáo, cần chú ý:
- Chỉ khi nào xuất hiện sự mong muốn mới có thể nảy sinh vấn đề.
- Mong muốn đó có thể trở thành hiện thực chứ không phải là mong muốn viển vông.

- Mong muốn sẽ đạt so với thời điểm đó chưa đạt.
- Nếu thực tế không có vấn đề mà con người lại chủ quan đặt ra vấn đề thì không thể nào giải
quyết được.
1.1.2. Quan điểm toàn thể
Là quan điểm nghiên cứu và giải quyết vấn đề một cách có căn cứ khoa học, hiệu quả và hiện
thực.
Quan điểm này đòi hỏi:
- Khi xem xét, nghiên cứu sự vật phải thấy vật chất là cái có trước, tinh thần là cái có sau.
- Sự vật luôn tồn tại trong mối quan hệ qua lại với nhau, có tác động chi phối, khống chế lẫn
nhau.
- Sự vật luôn biến động và thay đổi (suy thoái hoặc phát triển, diệt vong hay bành trướng).
- Động lực chủ yếu của sự phát triển nằm bên trong sự vật là chính (tất nhiên là có sự tận dụng
các lợi thế của môi trường).
- Sự tác động giữ các sự vật bao giờ cũng mang tính đối ngẫu, tính nhân quả.
1.1.3. Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống là tập hợp các bộ môn khoa học (sử học, kinh tế học, sinh học, lôgic học, toán
học, tin học...) nhằm nghiên cứu và giải quyết các vấn đề theo quan điểm toàn thể. Lý thuyết hệ thống có
đối tượng nghiên cứu là các quy luạt về sự ra đời và biến đổi của các hệ thống, nội dung của nó bao gồm
hàng lọat các cặp phạm trù và khái niệm như: hệ thống, phần tử, môi trường....
1.1.3.1. Khái niệm hệ thống
“Hệ thống là tập hợp các phần tử có quan hệ với nhau tạo thành chỉnh thể thống nhất và không
ngừng vận động, trong sự thống nhất đó luôn làm nảy sinh tính trội của hệ thống”.
S = E . R . P
Trong đó:
S: Hệ thống
3 / 55
E: Các phần tử
R: Mối quan hệ tương tác giữa các phần tử
P: Những thuộc tính mới, giá trị mới
Ví dụ : nông hộ, doanh nghiệp, trường học....

1.1.3.2. Phần tử của hệ thống
Phần tử của hệ thống là thành phần, bộ phận tạo nên hệ thống. Mỗi phần tử có một chức năng
nhất định, và có tính độc lập tương đối.
1.1.3.3. Môi trường của hệ thống
Môi trường của hệ thống là những yếu tố nằm ngoài hệ thống nhưng có tác động quyết định đến
sự vận động của hệ thống
Đối với một hệ thống, môi trường là tập hợp tất cả những đối tượng mà sự thay đổi tính chất của
chúng có ảnh hưởng đến hệ thống, cũng như những đối tượng mà tính chất của chúng bị thay đổi do
hành vi của hệ thống.
Một hệ thống chỉ có thể tồn tại và phát triển lành mạnh khi nó quan hệ chặt chẽ với môi trường,
môi trường phải đồng nhất với hệ thống. Tuỳ theo từng hệ thống mà môi trường của hệ thống có khác
nhau.
1.1.3.4. Đầu vào, đầu ra của hệ thống
Đầu vào của hệ thống là các yếu tố nằm ngoài hệ thống nhưng ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống.
Trong hoạt động nông nghiệp, đầu vào là nguyên vật liệu, máy móc, lao động, thông tin, giá cả,
nhu cầu thị trường....
Đầu ra của hệ thống là tác động trở lại của hệ thống đối với môi trường.
Trong hoạt động nông nghiệp, đầu ra là sản phẩm, phế thải, chất lượng sản phẩm, giá thành....
1.1.3.5. Phép biến đổi của hệ thống
Phép biến đổi của hệ thống là khả năng biến đổi đầu vào thành đầu ra có giá trị kinh tế cao.
Phép biến đổi của hệ thống thường đặc trưng bằng một hệ số biến đổi (T)
Y = T . X
Trong đó:
Y: Đầu ra của hệ thống
X: Đầu vào của hệ thống
T : Hệ số biến đổi của hệ thống
1.1.3.6. Cấu trúc cuả hệ thống (cơ cấu của hệ thống) (structure)
Cấu trúc của hệ thống là hình thức cấu tạo bên trong của hệ thống, phản ánh sự sắp đặt có trật tự
của các phân hệ, các phần tử của hệ thống và các quan hệ giữa chúng theo một dấu hiệu nhất định.
Có rất nhiều cấu trúc hệ thống khác nhau, sự kết hợp các phần tử tuy rất đa dạng nhưng có thể

quy về các cách kết hợp phần tử cơ bản sau:
1. Ghép nối tiếp: Đầu vào của phần tử này là đầu ra của phần tử kia.
4 / 55
2. Ghép song song.
Là cách ghép mà đầu vào của các phần tử (một phần hay toàn bộ) có chung biến số vào và đầu
ra của các phần tử đó lại là đầu vào của một phần tử khác.
3. Ghép có mối liên hệ ngược (sắp xếp theo kiểu phản hồi): hai phần tử gọi là sắp xếp theo kiểu
phản hồi khi đầu ra của phần tử này một phần hoặc toàn bộ là đầu vào của phần tử kia và ngược lại.
1.2. PHÂN LOẠI HỆ THỐNG
Dựa vào các tiêu chuẩn khác nhau, người ta có các cách phân loại hệ thống khác nhau. Sau đây là
một số cách phân loại hệ thống chủ yếu.
1.2.1. Phân loại theo sự phụ thuộc vào yếu tố thời gian.
Dựa vào thời gian, người ta chia hệ thống ra làm hai loại là hệ thống động và hệ thống tĩnh.
- Hệ thống tĩnh là hệ thống không có sự thay đổi (hay thay đổi rất nhỏ) theo thời gian.
- Hệ thống động là hệ thống có những trạng thái luôn thay đổi theo thời gian.
1.2.2. Phân loại theo tính chất thay đổi trạng thái của hệ thống.
Bao gồm 2 loại:
- Hệ thống ngẫu nhiên: là hệ thống biến đổi không theo một quy luật nào cả.
- Hệ thống tái định: là hệ thống phát triển theo một quy luật nhất định.
1.2.3 .Phân loại hệ thống theo mối quan hệ với môi trường.
- Hệ thống đóng: là hệ thống không tương tác với hoàn cảnh, môi trường, là hệ thống mà ở đó
vật chất và năng lượng chỉ trao đổi trong phạm vi hệ thống.
1
2
V1
R1
V2
R2
1
3

2
1
2
5 / 55
- Hệ thống mở: là hệ thống tác động tích cực với môi trường bên ngoài, là hệ thống có khả năng
cho vật chất và năng lượng đi qua ranh giới của hệ thống. Các hoạt động của hệ thống quan hệ với các
yếu tố môi trường tác động
Vật chất và năng lượng đi vào gọi là dòng vào (hay gọi là đầu vào)
Vật chất và năng lượng đi ra khỏi hệ thống gọi là dòng ra (hay đầu ra)
Vật chất và năng lượng trao đổi giữa các thành phần của hệ thống gọi là dòng nội lưu.
* Một số tính chất của hệ thống mở:
- Hệ thống mở có khả năng tiếp nhận và chuyển hóa vật chất và năng lượng tạo ra những sản
phẩm đi qua ranh giới của hệ thống tức là đầu ra.
- Hệ thống mở có xu hướng phát triển và tự điều chỉnh để đạt tới trạng thái cân bằng mới nhằm
đảm bảo cho các phần tử của hệ thống nằm trong sự tương tác hài hòa, ổn định. Ví dụ: hệ thống sinh thái
rừng: cây cỏ - động vật ăn cỏ - động vật ăn thịt.
- Nếu có một tác động nào vào hệ thống hoặc có sự thay đổi một trong các thành phần của hệ
thống thì hệ thống sẽ có phản ứng (phản hồi), đó có thể là phản hồi tích cực hoặc tiêu cực.
+ Trong sinh học, phản hồi tiêu cực là phổ biến nó là cơ chế tự điều chỉnh để duy trì trạng thái
cân bằng ban đầu. Ví dụ: Khi người dân phát triển mạnh diện tích cây mơ ở tỉnh Bắc Cạn, khi đó sản
lượng mơ cung cấp ra thị trường tăng đột biến, cung lớn hơn cầu dẫn tới giảm giá mạnh, khó tiêu thụ.
Lúc đó, nhiều người dân lại chặt cây mơ để chuyển sang trồng cây khác có lợi nhuận cao hơn và do đó
diện tích cây mơ lại giảm đi.
+ Phản hồi tích cực ít hơn phản hồi tiêu cực. Sự thay đổi một số nhân tố trong hệ thống sẽ dẫn
tới sự thay đổi khác thúc đẩy sự thay đổi ban đầu nhanh hơn, hệ thống sẽ đạt một cân bằng mới so với
ban đầu. Ví dụ: Do ô nhiễm môi trường nước, làm cá chết, cá chết làm tăng mức ô nhiễm của nước hơn,
kết quả làm lượng cá chết tăng hơn và cá chết hàng loạt. Lúc này hệ thống không trở lại trạng thái ban
đầu mà nó sẽ chuyển sang một trạng thái khác.
1.2.4. Phân loại hệ thống theo độ đa dạng.
- Hệ thống phức tạp: là hệ thống có độ đa dạng cao, bền vững, tiến bộ.

- Hệ thống đơn giản: là hệ thống có độ đa dạng thấp, là hệ thống không bền vững, không phát
triển.
1.2.5. Phân loại hệ thống theo chế độ phân cấp.
- Hệ thống thứ bậc: là hệ thống có cơ cấu phân cấp. Cơ cấu của hệ thứ bậc có nhiều cấp khác
nhau - cấp trên và một hay nhiều cấp dưới. Tuỳ theo hệ thống đơn giản hay phức tạp mà mà người ta
phân hệ thống ra làm nhiều hay ít cấp. Khi hệ thống càng phát triển, càng có nhiều phần tử thì đòi hỏi độ
phân cấp càng lớn.
Có hai dạng phân cấp phổ biến là phân cấp hình quạt và phân cấp hình thoi
6 / 55
Phân cấp hình quạt Phân cấp hình thoi
- Hệ phi thứ bậc: là hệ có cơ cấu không phân cấp. Có những tổ chức không phân cấp, nghĩa là có
sự bình đẳng về quyền lực. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống phi thứ bậc là dựa trên tinh thần hợp tác
chứ không dựa trên quyền lực.
1.2.6. Phân loại theo khả năng điều khiển.
- Hệ thống có khả năng điều khiển được: là hệ thống mà trạng thái và hành vi của nó có thể được
định hướng tới mục tiêu cho trước. Sự định hướng này được thực hiện:
+ Do tác động điều khiển có ý thức của con người: hệ thống bị điều khiển.
+ Do có cơ chế điều khiển tồn tại khách quan bên trong hệ thống: hệ thống tự điều khiển.
- Hệ thống không có khả năng điều khiển được: là hệ thống không thể định hướng trạng thái
hoặc hành vi của nó tới mục tiêu cho trước.
1.3. HỆ THỐNG KINH KẾ
1.3.1. Khái niệm
Hệ thống kinh tế là một bộ phận của hệ thống kinh tế xã hội, nó là tập hợp các quá trình sản xuất,
phân phối, trao đổi, tiêu dùng cùng với những mối quan hệ của con người trong và giữa những quá trình
đó.
Hệ thống kinh tế có thể là toàn bộ nền kinh tế quốc dân hoặc một bộ phận của nó (ngành, địa
phương, xí nghiệp, nông hộ...)
1.3.2. Đặc điểm của các hệ thống kinh tế
+ Tính thống nhất của mọi bộ phận, phần tử của nó nhằm phục vụ một mục tiêu chung đặt ra cho
toàn hệ. Tính thống nhất đó có được nhờ sự điều khiển thích hợp dựa trên 2 nguyên tắc:

- Mục tiêu của toàn hệ thống đồng thời là mục tiêu của mỗi bộ phận và phần tử.
- Tiêu chuẩn hiệu quả trong hoạt động của mỗi bộ phận phải phù hợp với tiêu chuẩn hiệu quả
chung của toàn hệ thống.
Trong hệ thống kinh tế, giữa các phần tử, các bộ phận và toàn bộ hệ thống phải có mối quan hệ
rất chặt chẽ. Để hệ thống phát triển đạt hiệu quả thì các bộ phận, các phần tử xác định nhiệm vụ, mục
tiêu phù hợp.
I
BA X
III
BA
I
7 / 55
+ Tính chất phức tạp của hệ thống kinh tế thể hiện ở chỗ bất cứ sự thay đổi nào diễn ra ở mỗi bộ
phận sẽ dẫn đến sự thay đổi dây chuyền ở các bộ phận khác.
+ Hệ thống kinh tế không ngừng hoàn thiện và phát triển trên cơ sở tiến bộ khoa học kỹ thuật,
biến động nhu cầu xã hội và xu hướng tăng dân số.
+ Phương thức sản xuất và thành phần của hệ thống bổ sung lẫn nhau và thay thế cho nhau một
cách toàn diện. Sự thay thế lẫn nhau là nguyên nhân gây ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các phương thức
sản xuất và tiêu dùng, đó là động lực tạo nên sự phát triển của hệ thống kinh tế.
+ Hệ thống kinh tế là sự kết hợp hữu cơ giữa mặt hiện vật và mặt giá trị khi hoạt động và phát
triển. Việc đo chi phí và kết quả trong quá trình hoạt động bằng một đơn vị giá trị thống nhất là điều
kiện tất yếu để hệ thống kinh tế tồn tại.
+ Tính ngẫu nhiên: HTKT luôn chịu tác động của các yếu tố thiên nhiên và xã hội. Những tác
động này về căn bản mang tính không thường xuyên và ngẫu nhiên. Vì thế hành vi và quá trình biến đổi
trạng thái của hệ thống chỉ có thể dự đoán với một mức độ chính xác nhất định và chỉ có thể giúp hạn
chế tính rủi ro.
1.4. CÁC QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU HỆ THỐNG.
1.4.1. Quan điểm hệ thống.
Quan điểm hệ thống đòi hỏi khi nghiên cứu mỗi hiện tượng hoặc một đối tượng thực tế phải đặt
đối tượng đó trong một hệ thống nhất định, không nhìn nhận vấn đề một cách phiến diện, đơn lẻ mà

trong sự liên quan với nhau. Nội dung của quan điểm như sau:
+ Khi nghiên cứu một hệ thống không chỉ nghiên cứu riêng rẽ các phần tử mà phải nghiên cứu
trong mối quan hệ với các phần tử khác và đặc biệt chú ý đến các thuộc tính mới xuất hiện.
+ Khi nghiên cứu một hệ thống phải đặt trong môi trường của nó, xem xét sự tương tác giữa hệ
thống với môi trường để có thể xác định rõ hơn hành vi và mục tiêu hoạt động của hệ thống cũng như
các ràng buộc mà điều kiện ngoại cảnh áp đặt lên hệ thống.
+ Khi nghiên cứu các hệ thống ta phải tiến hành phân cấp hệ thống vì các hệ thống ngày càng
phát triển, sự phức tạp của hệ thống càng tăng lên. Việc phân cấp hệ thống khi nghiên cứu sẽ giúp chúng
ta có thể điều khiển được hệ thống kịp thời và nắm rõ được cấu trúc bên trong của hệ thống.
+ Các hệ thống thực tế có tính hữu đích rất cao, mọi hoạt động đều nhằm tới mục tiêu đã định,
trong khi các phần tử nằm trong hệ thống ngoài mục tiêu chung còn có mục tiêu riêng, vì vậy phải lồng
ghép kết hợp nhiều mục tiêu.
+ Mỗi hệ thống đều quan tâm tới hành vi của mình, song hành vi lại phụ thuộc vào cấu trúc. Do
đó phải kết hợp cấu trúc và hành vi.
1.4.2. Phương pháp nghiên cứu hệ thống
Phương pháp nghiên cứu hệ thống là các quy tắc mà người nghiên cứu sử dụng để tìm raượng
nghiên cứu quy luật vân động của đối tượng nghiên cứu.
Có các phương pháp nghiên cứu hệ thống chủ yếu sau:
8 / 55
a) Phương pháp mô hình hóa
Là phương pháp nghiên cứu hệ thống trong trường hợp biết rõ được 3 yếu tố là đầu vào, đầu ra
và cơ cấu của hệ thống. Mô hình là sự mô tả hệ thống qua các đặc trưng cơ bản của hệ nhờ kinh nghiêm
và nhân thức của con người.
Trình tự sử dụng phương pháp mô hình hóa bao gồm các bước:
- Xây dựng mô hình của hệ thống phải nghiên cứu
+ Xác định ý đồ và mục tiêu nghiên cứu
+ Quy định các đặc trưng quan trọng cần nghiên cứu
+ Quan sát một số hành vi của hệ thống
+ Thiết lập ràng buộc giữa mục tiêu, ý đồ và các đặc trưng thông qua các kết quả quan sát
hành vi (mô hình).

- Phân tích, nghiên cứu trên mô hình lý thuyết đã thu được ở bước trên.
- Đối chiếu kết luận rút từ mô hình với kết quả thực tế để đối chứng xem kết luận rút từ mô hình
lý thuyết có chuẩn xác hay không.
- Chỉnh lý lại kết quả của mô hình lý thuyết cho phù hợp, sau đó đem sử dụng kết quả trong thực
tế.
Mô hình dễ thực hiện nhưng nếu người nghiên cứu trình độ kém, dễ đi học những cái không cơ
bản, không phù hợp với điều kiện của mình và suốt đời họ chỉ đi theo đuôi người khác.
b) Phương pháp hộp đen
Là phương pháp nghiên cứu khi đã biết được đầu vào, đầu ra của hệ thống nhưng không nắm
chắc được cơ cấu của nó. Việc nghiên cứu có nhiệm vụ phải xác định rõ mối quan hệ giữa đầu vào và
đầu ra của hệ thống.
Trình tự của phương pháp hộp đen bao gồm:
- Quan sát đầu vào và đầu ra (thông qua thực nghiệm, hoặc sự tác động chủ động của người quan
sát ở các đầu vào để đón nhân các đầu ra của hệ thống).
- Sử dụng các phân tích vừa định tính vừa định lượng để tìm ra tính quy luật hình thành cơ cấu
có thể có của hệ thống.
- Kiểm tra quy luật hình thành cơ cấu đã thiết lập so với thực tế.
- Chỉnh lý lại kết quả và đưa vào sử dụng.
c) Phương pháp tiếp cận hệ thống
Là phương pháp nghiên cứu hệ thống khi rất khó đoán nhận cơ cấu, đầu vào, đầu ra của hệ
thống. Cách giải quyết là phân tích hệ thống ban đầu thành một loạt các phân hệ nhỏ hơn có mối liên hệ
ràng buộc lẫn nhau dù là yếu nhưng không thể bỏ qua. Việc phân tích phải tuôn theo các yêu cầu sau:
- Việc nghiên cứu từng phần tử không được cắt rời một cách tuyệt đối khỏi hệ thống đồng thời
phải nghiên cứu sự tác động của phẩn tử trở lại hệ thống.
9 / 55
- Do hệ thống là một chỉnh thể hoàn chỉnh có tính trồi, tính chất này có được là do cách tổ chức
của các phân hệ và các phần tử tạo nên hệ thống.
- Hệ thống chỉ phát triển khi là hệ mở cho nên khi xem xét hệ thống phải đặt nó vào trong một hệ
thống khác lớn hơn.
- Các hệ thống phức tạp là những hệ có cơ cấu phân cấp.

Trong quá trình nghiên cứu hệ thống thường có 2 cách thức nghiên cứu như sau:
+ Nghiên cứu hoàn thiện hay cải tiến một hệ thống đã có sẵn. Dùng phương pháp phân tích hệ
thống tìm ra điểm “hẹp” hay chỗ “thắt lại” của hệ thống. Đó là những chỗ gây ảnh hưởng không tốt (gây
hạn chế) đến hoạt động của hệ thống, cần được sửa chữa, khai thông (tác động vào) để cho hệ thống
hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn.
+ Nghiên cứu xây dựng một hệ thống mới: cách làm này cần có sự tính toán, cân đối kỹ càng, tổ
chức sắp đặt sao cho các bộ phận trong hệ thống dự kiến nằm đúng vị trí trong mối quan hệ tương
đương của các phần tử, có thứ tự ưu tiên để đạt được mục tiêu của hệ thống tốt nhất.
* Các nguyên tắc trong phương pháp nghiên cứu hệ thống
Khi nghiên cứu hệ thống nông nghiệp ta phải tuôn theo các nguyên tắc sau:
- Tìm ra mối quan hệ trong hệ thống nông nghiệp
- Phải có sự tham gia của nhiều ngành khoa học
- Các nghiên cứu được hướng chủ yếu vào người nông dân
- Phải có tính nhắc lại và liên tục.
CHƯƠNG II
CÁC LOẠI HỆ THỐNG NÔNG NGHIỆP
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
2.1.1. Hệ sinh thái nông nghiệp.
* Khái niệm hệ sinh thái nông nghiệp
Hệ sinh thái nông nghiệp là hệ sinh thái do con người tạo ra và duy trì trên cơ sở quy luật khách
quan của hệ sinh thái, là các đơn vị sản xuất nông nghiệp, là các hệ sinh thái nhân tạo do lao động của
con người tạo ra.
Ví dụ: nông trường hợp tác xã, nông trại hoặc làng xóm . . .
Hệ sinh thái nông nghiệp cũng có tổ chức bên trong của nó, có thể chia ra các hệ sinh thái phụ
sau:
+ Đồng ruộng cây hàng năm (lúa, cây công nghiệp ngắn ngày :mía, đay, đỗ...)
+ Vườn cây lâu năm
+ Đồng cỏ chăn nuôi
+ Ao nuôi thuỷ sản
+ Khu vực dân cư

10 / 55
* Đặc điểm của hệ sinh thái nông nghiệp
Hệ sinh thái nông nghiệp là hệ quả của sự cải tạo, biến đổi các hệ sinh thái tự nhiên của con
người. Vì vậy giữa hệ sinh thái nông nghiệp và các hệ sinh thái tự nhiên khó phân biệt ranh giới một
cách rõ ràng. Để phân biệt thường dựa chủ yếu vào mức độ can thiệp của con người.
Tuy vậy, giữa các hệ sinh thái tự nhiên và các hệ sinh thái nông nghiệp vẫn có những khác biệt
cơ bản:
2.1.2. Hệ thống canh tác
Hệ thống canh tác là sự bố trí một cách thống nhất và ổn định các ngành nghề trong nông trại
được quản lý bởi hộ gia đình trong một môi trường tự nhiên, sinh học, kinh tế, xã hội phù hợp với mục
tiêu, sự mong muốn và nguồn lực của hộ (Shanor Philip và Sôhmohi 1981).
Hệ thống canh tác có thể phân thành các hệ thống phụ như hệ thống cây trồng, hệ thống vật nuôi,
hệ thống nuôi trồng thuỷ sản, hệ thống ngành nghề phụ. Trong đó hệ thông cây trồng là bộ phận chủ
yếu của hệ thống canh tác.
Hệ thống cây trồng là thành phần các giống và loài cây được bố trí trong không gian và thời gian
trong mọi hệ thống sinh thái nông nghiệp nhằm tận dụng hợp lý nhất các nguồn lợi tự nhiên, kinh tế xã
hội (Đào Thế Tuấn, 1984).
Hệ thống cây trồng bao gồm các hình thức đa canh: trồng xen, trồng gối, trồng luân canh, trồng
thành băng, canh tác hỗn hợp, vườn hỗn hợp các loại cây.
2.1.3. Hệ thống nông nghiệp
Khái niệm hệ thống nông nghiệp cho đến nay trên thế giới chưa có sự thống nhất bởi hệ thống
nông nghiệp được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau, các cách áp dụng vào thực tế cũng khác nhau.
Co một số khái niệm về hệ thống nông nghiệp như sau:
Hệ sinh thái tự nhiên Hệ sinh thái nông nghiệp
- Mục đích chủ yếu là kéo dài sự sống của
các loài
- Chu trình vật chất khép kín
- Có sự tự phục hồi lớn, có quá trình phát
triển lịch sử
- Đa dạng và phức tạp về thành phần loài

thực vật và động vật
- Ổn định lâu dài
- Mục đích chủ yếu là cung cấp cho con người
các sản phẩm của cây trồng, vật nuôi
- Chu trình vật chất hở
- Khi con người biết nuôi trồng mới có HSTNN
- Có số lượng loại cây trồng vật nuôi rất đơn
giản
- Kém ổn định hơn
11 / 55
- Theo Vissac (1986), hệ thống nông nghiệp là sự biểu hiện không gian của sự phối hợp các
ngành sản xuất và kỹ thuật do một xã hội thực hiện. Nó biểu hiện một sự tác động qua lại giữa một hệ
thống sinh học - sinh thái và môi trường tự nhiên là đại diện, một hệ thống xã hội - văn hoá qua các hoạt
động xuất phát từ những thành quả kỹ thuật.
- Touve 1988: Hệ thống nông nghiệp thích ứng với phương thức khai thác nông nghiệp của một
không gian nhất định do xã hội tiến hành, là kết quả của sự phối hợp các nhân tố tự nhiên, kinh tế xã hội,
văn hoá và kỹ thuật.
- Mzoyer 1986: Hệ thống nông nghiệp trước hết là một phương thức khai thác môi trường được
hình thành và phát triển trong lịch sử, một hệ thống sức sản xuất thích ứng với các điều kiện sinh thái,
khí hậu của một không gian nhất định, đáp ứng các điều kiện và nhu cầu của thời điểm ấy.
- Shainer và cộng sự (1982):`Hệ thống nông nghiệp là hệ thống hoạt động nông nghiệp độc lập /
ổn định của những bố trí sản xuất giữa các hoạt động sản xuất của nông hộ do người nông dân quản lý,
trong mối tương tác với các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội phù hợp với mục đích, nhu cầu và tiềm
năng sản xuất, quản lý của nông hộ.
Hệ thống nông nghiệp là hệ thống thứ bậc được lồng vào nhau của các hệ sinh thái nông nghiệp,
bao gồm các yếu tố sinh thái, kinh tế và con người từ phạm vi cánh dđồng đến nông trại, vùng, quốc gia
và thế giới. Hay nói cách khác đó là hệ thống liên hệ giữa các hệ sinh thái nông nghiệp ở các mức độ
không gian khác nhau với các hoạt động kinh tế xã hội của con người trong phạm vi không gian của hệ
thống
Theo thứ bậc về phạm vi không gian của hệ sinh thái nông nghiệp mà có thể chia ra: cánh đồng,

nông trại, làng xã, huyện, tỉnh, vùng, quốc gia thì nghiên cứu hệ thống nông nghiệp cũng có thể giới hạn
trong các phạm vi không gian tương ứng. Song điều quan trọng là phải đặt nó trong mối quan hệ với các
hệ thống khác. Hệ thống nông trại là đơn vị rất cơ bản của hệ thống nông nghiệp, mà chúng ta thường
quan tâm nhiều nhất trong nghiên cứu phát triển hệ thống nông nghiệp bởi vì người nông dân và gia đình
họ là người chủ thực sự, quyết định mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp trong phạm vi nông trại của họ
và như vậy quyết định sự phát triển nông nghiệp của một vùng.
* Sự tiếp cận hệ thống nông nghiệp có những đặc điểm:
+ Tiếp cận “từ dưới lên”: sử dụng các phương pháp quan sát, phân tích và giải pháp qua ba giai
đoạn nghiên cứu: chẩn đoán, thiết kế và thử nghiệm, triển khai để tìm hiểu các nhu cầu cần thiết của
nông dân để có các tác động hợp lý.
+ Coi trọng mối quan hệ kinh tế - xã hội như những yếu tố chính của hệ thống nông nghiệp.
Trong thực tế nông dân không áp dụng được những tiến bộ kỹ thuật mới là do những cản trở về kinh tế
và xã hội. Nếu không thay đổi hoặc cải thiện được những yếu tố này thì không đảm bảo và phát triển
được một hệ thống nông nghiệp
+ Coi trọng phân tích động thái của sự phát triển trong hệ thống nông nghiệp. Hoạt động sản
xuất nông nghiệp của con người phát triển theo sự phát triển của lịch sử xã hội. Nghiên cứu động thái
12 / 55
phát triển của hệ thống sẽ xác định đúng sự phát triển của nó trong tương lai, đồng thời khắc phục kịp
thời những hạn chế, cản trở trong quá trình phát triển hệ thống.
2.2. CÁC LOẠI HỆ THỐNG NÔNG NGHIỆP
2.2.1. Nông nghiệp du canh
* Khái niệm:
Nông nghiệp du canh là sự thay đổi nơi sản xuất từ vùng này sang vùng khác, từ khu đất này
sang khu đất khác sau khi độ phì đã nghèo kiệt
*. Đặc trưng của nông nghiệp du canh
Nông nghiệp du canh du cư là một loại hình sản xuất nông nghiệp xuất hiện sớm nhất trong lịch
sử nông nghiệp. Nông nghiệp du canh có hai kiểu: Định cư nhưng du canh và du canh du cư.
- Định cư nhưng du canh thường có ở những vùng miền núi, đồng bào dân tộc sống thành làng
bản ở vùng thấp áp dụng
- Du canh du cư thường thường có ở đồng bào dân tộc thiểu số sống ở những vùng miền núi cao,

khi du canh thì họ cũng du cư luôn.
Cả hai kiểu trên gọi chung là nông nghiệp du canh và chúng có những đặc điểm căn bản sau:
+ Chủ yếu người dân khai thác độ phì tự nhiên của ruộng đất bằng cách đốt rừng, làm rẫy, làm
nương, gieo trồng. Khi đã nghèo kiệt lại chuyển đến làm chỗ khác, không quan tâm đến việc phục hồi
trả lại dinh dưỡng cho đất.
+ Thường có ở những vùng miền núi đất dốc, mật độ dân cư thưa thớt.
+ Đầu tư tư bản trong nông nghiệp du canh là rất thấp, lao động thủ công, đơn giản chủ yếu là
cơ bắp với các công cụ thô sơ.
+ Trong nông nghiệp du canh thì chăn nuôi phát triển đan xen với trồng trọt, không được phân
thành khu nuôi nhốt riêng.
Đây là một hệ thống nông nghiệp canh tác lạc hậu gây nhiều hậu quả xấu cần phải được cải biến,
khắc phục. Hiện ở nước ta vẫn còn tồn tại (năm 1999 còn khoảng 400.000 hộ)
Ngày nay, trước áp lực của dân số thì mức độ du canh đã giảm dần và chuyển hướng sang bỏ hoá
chi kỳ ngắn.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương đúng dắn nhằm phát triển nông nghiệp
trong đó có các chính sách định canh, định cư đối với đồng bào dân tộc miền núi, kết hợp lồng ghép với
nhiều chính sách khác như; xã hội, văn hoá, giáo dục, phát triển nông thôn . . . tín dụng, áp dụng chuyển
giao tiến độ kỹ thuật . . .Cho nên đã từng bước đẩy lùi loại hình canh tác lạc hậu này, nó chỉ còn ở một
số dân tộc ít người ở vùng núi. Tuy còn một số ít nhưng hình thức du canh cũng đã có những thay đổi.
Dưới tác động của các chương trình khuyến nông, kỹ thuật canh tác trên đất dốc người dân cũng đã biết
đến các kỹ thuật bảo vệ và nâng cao độ phì của đất, chống xói mòn, thâm canh chuyển từ du canh sang
trồng các cây trồng dài ngày có giá trị kinh tế lớn.
13 / 55
2.2.2. Hệ thống nông nghiệp du mục
*. Khái niệm
Du mục là phương thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu gắn liền với các hệ thống chăn nuôi được
di chuyển liên tục từ vùng này sang vùng khác.
* Sự hình thành đồng cỏ và chăn nuôi du mục
Sau một thời gian dài canh tác du canh trên mặt đất chỉ còn lại cây bụi và chủ yếu là cỏ, hình
thành nên những đồng cỏ lớn, những vùng thảo nguyên (thường là ở những vùng khô hạn và bán khô

hạn) rộng lớn thích hợp cho chăn nuôi đại gia súc và tiểu gia súc và người dân chuyển sang phương thức
canh tác chính là chăn nuôi du mục
Có hai loại du mục: là du mục hoàn toàn và bán du mục. Những người du mục hoàn toàn di
chuyển đàn gia súc của họ từ vùng này qua vùng khác quanh năm . Còn những người bán trú du mục chỉ
nuôi và chăn dắt gia súc theo mùa của đồng cỏ tự nhiên, hết mùa là họ bán gia súc và làm công việc
khác,.
Tất cả những người du mục hoàn toàn đều không có nhà cửa cố địnhvà không tiến hành bất cứ
một hoạt động trồng trọt nào, còn những người bán du mục có kết hợp vói một phần nhỏ với công việc
trồng trọt và dần tạo nên các trang trại và có nhà cửa cố định
Dân du mục quần tụ và di chuyển theo nhóm, mỗi nhóm từ 5-6 gia đình với những gia súc chính
ăn cỏ như; bò, cừu, dê, ngựa, lạc đà . . .
Chăn nuôi du mục có nhiều hạn chế:
- Năng suất lao động trong hệ thống du mục là rất thấp, do vẫn chủ yếu lợi dụng thức ăn có sẵn
trong tự nhiên.
- Việc đầu tư cũng rất thấp và thường chỉ đầu tư một lần sau đó phát triển tăng dần một cách tự
nhiên.
- Lao động chủ yếu là chân tay, còn công cụ gần như không có gì
- Du mục hoàn toàn thường thấy ở những vùng khô cằn không thể chấp nhận một hình thức sản
xuất nào khác.
2.2.3. Những hệ thống nông nghiệp cố định
*. Khái niệm: Hệ thống nông nghiệp cố định là hệ thống sản xuất nông nghiệp được tiến hành
trên những vùng, khu vực hay trên những mảnh đất cố định qua các năm.
Do các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khác nhau nên hình thành nên các kiểu hệ thống cố
định khác nhau.
* Hệ thống nông nghiệp chuyên môn hoá
Hệ thống nông nghiệp chuyên môn hoá là hệ thống nông nghiệp chuyên sản xuất ra một hoặc hai
loại sản phẩm nhất định.
14 / 55
Do đặc điểm điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý hay tập quán xã hội mà vùng nào đó hay một đơn vị
sản xuất nào đó với mục tiêu đạt hiệu quả kinh tế cao hoặc do sự phân công lao động xã hội mà họ chỉ

chuyên sản xuất một hoặc hai loại sản phẩm chính.
* Ưu điểm
Tạo ra được năng suất, hiệu quả cao, dễ dàng tập trung sản phẩm tạo điều kiện tốt cho thu mua
và chế biến, dễ dàng cho việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
* Nhược điểm
Thường kém tính bền vững vì tính đa dạng thấp, dễ phát sinh dich bệnh sâu hại nguy hiểm và
khó tiêu diệt. Nó cũng dễ làm cạn kiệt một loại dinh dưỡng nào đó mà cây trồng ưa thích. Việc sử dụng
lao động cũng dễ gây nên tình trạng căng thẳng về sức lao động vì tính thời vụ rất cao.
* Hệ thống nông nghiệp hỗn hợp.
Là hệ thống sản xuất bao gồm nhiều loại sản phẩm, cả sản phẩm trồng trọt lẫn sản phẩm chăn
nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản.
Hệ thống nông nghiệp hỗn hợp rất đa dạng, có nhiều mô hình khác nhau như: nông lâm kết hợp,
mô hình VACR, mô hình canh tác lúa cá, lúa tôm, mô hình SALT...
a. Hệ thống trồng trọt thuỷ sản
Các mô hình lúa - cá, lúa - tôm... là những ví dụ về hệ thống trồng trọt thủy sản
* Ưu điểm:
- Cung cấp thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao.
- Tốn ít vốn nhưng lại dễ mang lại hiệu quả, ít rủi ro và được nông dân ưa thích (do dễ đánh bắt,
dễ nuôi, vui thích, sẵn sàng cung cấp cho bữa ăn ngon...)
- Hệ thống này sử dụng phối hợp dòng dinh dưỡng vì hầu hết trên ruộng có cỏ dại, sâu bệnh, côn
trùng gây hại cho lúa, tạo điều kiện cho cây lúa phát triển. Một ha lúa có thể cho thu hoạch 4-5 tạ cá
(thâm canh thấp) và năng suất lúa có thể tăng 10-20%
* Nhược điểm và hạn chế
- Hạn chế về nước: Cần phải có đủ nước cho cả lúa và cá sinh sống , mức nước điều tiết phù hợp
cho hệ thống là một khó khăn. Bởi vậy, những vùng đất cao, hạn phụ thuộc nước trời thì khả năng phát
triển kém
- Lũ lụt ngập úng cũng ảnh hưởng làm giảm hiệu quả của mô hình
- Chăm sóc lúa phải sử dụng một số phân bón, hoá chất cũng làm ảnh hưởng đến cá
- Bảo vệ an ninh chống trộm cắp được coi là một khó khăn lớn làm cho nhiều nông dân lo ngại.
- Hệ thống lúa, cá đòi hỏi phải được bố trí trong một qui hoạch tổng thể và không làm ảnh hưởng

đến hoạt động nông nghiệp khác cũng như các hoạt động khác không làm ảnh hưởng gì đến nó.
b. Hệ thống VAC:
15 / 55
- Theo nghĩa rộng VAC là một hệ thống sản xuất kết hợp giữa ba bộ phận trồng trọt, chăn nuôi
và thủy sản. Trong đó sản phẩm hay phế phẩm của bộ phận này có thể dùng để tạo nên sản phẩm của bộ
phận khác có giá trị cao hơn và trong hệ thống này không có phế liệu nào cả
- Theo nghĩa hẹp, nó là một hệ thống sản xuất kết hợp gồm vườn, ao, chuồng của một hộ gia
đình. Trong đó thứ phẩm của đơn vị này được dùng để tạo ra sản phẩm của đơn vị khác.
* Ưu điểm của hệ thống
- Nó kết hợp sử dụng một cách triệt để dòng dinh dưỡng vật chất đầu vào và đầu ra của từng
phân hệ theo một chu trình khép kín để tạo nên đầu ra lớn hơn trên toàn hệ thống, không ảnh hưởng xấu
đến môi trường sinh thái.
* Vườn: cây trồng vừa có thể cung cấp thức ăn cho chuồng (chăn nuôi ) và ao cá vừa cung cấp
rau quả cho nông hộ
* Ao: Cung cấp nước tưới cho vườn và thưc ăn cho chăn nuôi đồng thời cung cấp các có giá trị
dinh dưỡng cao, cải thiện đời sống cho nông hộ
* Chuồng: vừa cung cấp phân bón cho trồng trọt (vườn) và thức ăn cho cá (ao)
- VAC làm giảm bớt thậm chí xoá bỏ sự cạnh tranh về nguyên liệu giữa các đối tượng trong hệ
thống do khả năng kết hợp trong hệ thống mà có được.
- Góp phần sử dụng hợp lý hơn sức lao động trong nông hộ
- Sản xuất theo mô hình kết hợp VAC góp phần làm tăng giá trị lao động, tăng sản phẩm và tăng
thu nhập cho hộ gia đình.
c. Hệ thống nông lâm kết hợp:
Nông lâm kết hợp là chế độ sử dụng đất mà ở đó có các cây trồng nông nghiệp được bố trí với
các cây lâm nghiệp theo không gian hoặc luân canh và có sự tương tác giữa hai nhóm đó cả về mặt sinh
thái và kinh tế.
Mô hình nông lâm kết hợp có mục đích là sản xuất ra được một lượng sản phẩm tối đa phục vụ
cho con người mà vẫn duy trì được sức sản xuất lâu bền của đất. Dựa trên sự mối quan hệ tương tác giữa
các điều kiện sinh thái nông nghiệp , lâm nghiệp. . .ở trên cùng một vùng đất và các điều kiện kinh tê xã
hội của vùng sinh thái

Trên thế giới ở những vùng nhiệt đới, hệ thống nông lâm kết hợp chủ yếu có bốn phương thức cơ
bản đó là:
* Luân canh cây nông nghiệp và cây rừng
* Cây lâm nghiệp và chăn nuôi
* Cây nông nghiệp + cây lâm nghiệp + chăn nuôi
* Trồng trọt + chăn nuôi + cây rừng + thuỷ sản
Địa bàn áp dụng mô hình hệ thống nông lâm kết hợp rất rộng rãi. Nhưng đầu tiên có lẽ và phổ
biến nó được áp dụng ở những vùng núi cao đất dốc miền núi . .
16 / 55
2.3. PHÂN LOẠI HỆ THỐNG NÔNG NGHIỆP THEO MỤC TIÊU
Việc nghiên cứu hệ thống nông nghiệp tập trung chủ yếu vào nghiên cứu nông hộ. Hộ nông dân
là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và phát triển nông thôn, vì tất cả các hoạt
động nông nghiệp và phi nông nghiệp ở nông thôn được thực hiện chủ yếu qua sự hoạt động của hộ
nông dân.
Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả nghề rừng,
nghề cá và hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn. Ellis 1988 đã đưa ra khái niệm hộ nông dân như sau:
“Nông dân là các nông hộ thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia
đình trong sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế lớn hơn, nhưng về căn bản được đặc trưng
bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn chỉnh không cao”.
Mục tiêu sản xuất của hộ quyết định sự lựa chọn sản phẩm kinh doanh, quyết định mức độ đầu
tư, phản ứng với giá cả vật tư, lao động và sản phẩm của thi trường. Sản xuất của hộ nông dân tiến hoá
từ tình trạng tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá ở các mức độ khác nhau. Trong quá trình tiến hoá ấy,
hộ nông dân thay đổi mục tiêu và cách thức kinh doanh cũng như phản ứng với thị trường.
Như vậy, xét theo mục tiêu của hệ thống, chúng ta có các loại hình hệ thống nông nghiệp sau:
2.3.1. Hệ thống nông nghiệp tự cung tự cấp quy mô nhỏ
Nông nghiệp tự cung tự cấp là một hệ thống sản xuất với mục tiêu thảo mãn nhu cầu sinh hoạt
của con người bao gồm ăn, ở, đi lại....Kiểu hệ thống này hình thành ngay từ khi con người có hoạt động
sản xuất nông nghiệp, họ làm ra các sản phẩm là để cung cấp cho cuộc sống của họ.
Tuy nhiên cũng có lúc họ đem sản phẩm của mình ra trao đôỉ giữa người này với người khác để
lấy cái cần hơn mà họ chưa có (hoặc là không có), thậm chí việc trao đổi như vậy có thể xảy ra giữa

nhóm người này với nhóm người khác, giữa làng xã này với làng xã khác chứ không hề có một tư tưởng
thương mại hoá sản phẩm mình làm ra.
-Khi trong cộng đồng có xuất hiện tư tưởng thương mại hoá sản phẩm làm ra thì các hệ thống
nông nghiệp tự cung tự cấp cũng có biểu hiện của sự mua bán sản phẩm hay vật liệu sản xuất nhưng với
một tỷ lệ rất nhỏ, bán với mục đích để mua sắm vật tư, dụng cụ sản xuất.
Hệ thống nông nghiệp này xuất hiện ngay từ khi con người có hoạt động du canh du mục nhưng
nó vẫn tồn tại cho đến khi xuất hiện các hệ thống nông nghiệp cố định, thường nó biểu hiện ở giai đoạn
đầu của sự phát triển hệ thống nông nghiệp. Khi trình độ kỹ thuật còn kém, tiềm lực kinh tế nhỏ bé và
thường ở xa nơi thành thị, chợ búa, đường sá giao thông khó khăn, việc giao lưu giữa các cộng đồng
kém, thiếu phương tiện.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các hệ thống nông nghiệp tự cung tự cấp không được hiểu
hoàn toàn như trên nữa, có nghĩa là trong sản xuất có thể họ làm ra những cái không phải chỉ cần cho họ
mà họ có thể đem bán để mua những thứ khác cấn thiết nếu họ thấy làm ra sản phẩm nào đó có hiệu quả
hơn. Nhưng những thành quả sản xuất thu được cũng chỉ đủ chi dùng cho cuộc sống và tối đa là tái sản
xuất.
17 / 55
Hộ nông dân tự cung tự cấp hoạt động như thế nào còn phụ thuộc vào các điều kiện sau:
- Khả năng mở rộng diện tích (có thể bằng tăng vụ) có hay không?
- Có thị trường lao động không? Vì người nông dân có thể bán sức lao động để tăng thu nhập
nếu có chi phí cơ hội của lao động cao.
- Có thị trưòng vật tư không vì có thể tăng thu nhập bằng cách đầu tư thêm một ít vật tư (nếu có
tiền để mua và có lãi).
- Có thị trường sản phẩm không vì người nông dân phải bán đi một ít sản phẩm để mua các vật
tư cần thiết hay một số hàng tiêu dùng khác.
Trong các điều kiện này người nông dân có phản ứng một ít với thị trường nhất là thị trường lao
động và thị trường vật tư.
2.3.2. Hệ thống nông nghiệp bán tự cung tự cấp và bán sản xuất hàng hoá.
Đây là những hệ thống đủ đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng, tái sản xuất và bắt đầu có tích luỹ. Nó
biểu hiện trình độ kinh tế ở mức cao hơn so với các hệ thống tự cung tự cấp, thường xuất hiện ở giai
đoạn sau của sự phát triển của hệ thống, biểu hiện tiềm lực kinh tế vững vàng hơn. Trong hệ thống này,

người nông dân có quan tâm nhiều hơn đến thị trường và như vậy năng suất cây trồng cao hơn, hiệu quả
lao động sản xuất lớn hơn.
Hộ nông dân thuộc kiểu này vẫn chưa phảilà một xí nghiệp kiểu tư bản chủ nghĩa hoàn toàn phụ
thuộc vào thị trường. Các yếu tố tự cấp vẫn còn lại rất nhiều và vẫn quyết định cách sản xuất của hộ.
2.3.3. Hệ thống nông nghiệp sản xuất hàng hoá.
Người nông dân với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh của gia đình.
Kiểu nông dân này phản ứng với thị trường vốn, thị trường ruộng đất, thị trường vật tư lao động và thị
trường sản phẩm.
“Nông nghiệp hàng hoá là một bộ phận của nền kinh tế hàng hoá, là kiểu tổ chức kinh tế xã hội
sản xuất ra nông sản phẩm (nông, lâm, ngư sản) không phải để tự mình tiêu dùng mà để trao đổi mua
bán trên thị trường, nhằm vừa thoả mãn nhu cầu tiêu dùng xã hội, vừa có lợi nhuận cho người sản xuất
ra nó để tái sản xuất mở rộng và hiện đại hoá nền nông nghiệp”.
CHƯƠNG III
HỆ THỐNG NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
3.1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
3.1.1. Lịch sử phát triển nông nghiệp
Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cổ nhất, có một lịch sử cách đây ít nhất 10.000 năm
khi mà các bộ lạc nguyên thuỷ ở đầu thời kỳ đồ đá mới. Dân số mới chỉ có gần một triệu người sống rải
rác trên các lục địa.
18 / 55
Các tác giả đưa ra nhiều cách phân chia sự phát triển nông nghiệp ra các giai đoạn theo các tiêu
chuẩn khác nhau.
Theo Markov (1972) cho rằng yếu tố quyết định sự phát triển của nông nghiệp là công cụ lao
động mà trước hết là công cụ làm đất. Căn cứ vào sự tiến bộ của công cụ làm đất, ông đã chia sự phát
triển của nông nghiệp ra làm 5 giai đoạn sau:
+ Chọc lỗ bỏ hạt: Con người dùng một cái gậy đầu nhọn chọc đất thành lỗ để gieo hạt, xung
quanh lỗ rễ cỏ còn nguyên. Cây trồng ở giai đoạn này còn hoang dại, quan hệ giữa cây trồng như ở đồng
cỏ tự nhiên.
+ Dùng cuốc bằng đá, bằng đồng, bằng sắt. Đất được chọn kỹ hơn và xới tơi hơn, trừ được ohần

nào về cỏ dại cũng như các mầm mống sâu bệnh. Cây trồng bắt đầu có sự chọn lựa nhân tạo, bắt đầu có
quan hệ của cây trồng.
+ Cày gỗ: Đất được xới sâu hơn, tơi xốp hơn, rễ cỏ bị phá nhiều hơn. Một số cây trồng thực sự
được cải tiến, có quá trình chọn lọc nhân tạo mạnh hơn. Quan hệ cây trồng trên đồng ruộng được xác
lập.
+ Cày sắt: Nhờ công cụ này có lưỡi bằng sắt nên việc làm đất dạt năng suất lao động cao hơn, kỹ
thuật làm đất được cải tiến nhiều hơn, công tác chọn tạo giống được phát triển, tuỳ theo yêu cầu về đất
của từng loại cây trồng để sử dụng từng loại công cụ làm đất thích hợp. Quan hệ đồng ruộng điển hình.
+ Cày máy: Lúc này quá trình làm đất đạt mức độ hiện đại và việc tiến hành làm công tác chọn
tạo giống cây trồng đạt ở trình độ cao và đáp ứng được thực tế sản xuất, tạo ra một nền kinh tế vững
mạnh.
Tác giả Grigg (1974) cho rằng yếu tố quyết định các kiểu hệ thống nông nghiệp là sự thay đổi về
kinh tế, kỹ thuật, dân số. Trước thế kỷ XVII, dân số thế giới tăng chậm, sau đó bắt đầu tăng nhanh ở
Châu Âu đã thúc đẩy phát triển nông nghiệp ở lục địa này. Trước năm 1920, tốc độ tăng dân số ở Châu
Âu và các vùng do người Châu Âu di cư đến như Bắc Mỹ, Châu Uc, Nam Phi, Nam Mỹ cao hơn ở Châu
Á, Châu Phi. Sau năm 1920, tốc độ tăng dân số ở các nước đang phát triển mới vượt lên vì tỷ lệ chết
giảm xuống. Sự phát triển buôn bán trong thế kỷ XIX cũng đẩy mạnh sự phát triển nông nghiệp ở các
vùng mới di cư đến. Cuộc cách mạng nông nghiệp bắt đầu ở nuớc Anh và các nước Châu Âu, Châu Mỹ
(luân canh cây trồng, bón phân hoá học, sử dụng thuốc trừ sâu bệnh, chọn giống trên cơ sở khoa học, cơ
giới hoá sản xuất...)
Ta thấy rằng: áp lực dân số là động lực thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp. Bởi trong suốt thời
kỳ dài của lịch sử (cho tới thế kỷ thứ XIX) nền nông nghiệp thế giới tiến bộ rất chậm chạp. Sau đó với
sự bùng nổ dân số thế giới, lúc đó mới có nhiều tiến bộ kỹ thuật trong nông nghiệp.
Các tác giả Dương Hồng Nhật, Cao Liêm, Trần Đức Viên chia lịch sử phát triển nông nghiệp ra
làm 3 giai đoạn dựa trên cơ sở sự tác động của lao động sống, công cụ lao dộng và trí tuệ của con người
vào thiên nhiên.
Giai đoạn 1: Nông nghiệp thô sơ
19 / 55
Giai đoạn 2: Nông nghiệp thâm canh
Giai đoạn 3: Nông nghiệp trí tuệ

3.1.1.1. Nông nghiệp thô sơ
Ơ giai đoạn này lấy lao động sống là chính. Đặc điểm của nông nghiệp thô sơ gắn liền với tự
cung tự cấp, đầu tư thấp, khai thác tự nhiên là chủ yếu, hiệu quả sản xuất thấp. Giai đoạn này bắt đầu từ
khi con người biết làm ruộng, chăn nuôi. Nông nghiệp bắt đầu xuất hiện cách đây khoảng 14 - 15 ngàn
năm, vào thời đại đồ đá giữa. Trong thời đại đồ đá cũ, loài người sống chủ yếu bằng săn bắn thú dại và
lượm hái sản phẩm của cây dại. Hệ sinh thái nông nghiệp đầu tiên là hệ sinh thái cây cỏ, dần dần phân
hóa thành cây trồng và cỏ dại thích ứng với điều kiện được tạo nên ở nương rẫy. Sau đấy hệ sinh thái
phát triển dần.
Việc chuyển từ lượm hái và săn bắn sang trồng trọt và chăn nuôi được thực hiện lần đầu tiên ở
đâu là một vấn đề còn được tranh luận. Trước đây, người ta vẫn quan niệm rằng nơi phát sinh nông
nghiệp sớm là vùng Trung Cận Đông (bao gồm Ai Cập, Palestin, vùng Iran và Irắc, phần Nam của Trung
Á). Vào khoảng thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên, nông nghiệp xuất hiện ở vùng chân núi Tây Á.
Có thể quá trình này cũng đồng thời xảy ra ở Ấn Độ và Trung Quốc (M.V.Markov, 1972).
Tuy vậy, giờ đây có một thuyết khác cho rằng trước khi có nền nông nghiệp “gieo hạt” nói trên,
đã có một nền nông nghiệp “trồng củ” với những cây khoai sọ, khoai nước, khoai lang, khoai từ, khoai
mài. Nền nông nghiệp “trồng củ” này xuất hiện đầu tiên ở Đông Nam Á. Theo Gorman (1969), các bằng
chứng khảo cổ ở Thái Lan cho thấy có thể nông nghiệp đã xuất hiện ở đây vào khoảng 7000 - 9000 năm
trước Công Nguyên. Theo Gorman (1977) thì không có giai đoạn “trồng củ” trước giai đoạn gieo hạt,
chỉ có giai đoạn trồng trọt chăm sóc sơ khai xuất hiện cách đây khoảng 16.000 - 14.000 năm. Giai đoạn
bắt đầu trồng củ ở chân đồi và trồng lúa ở đầm lầy cách đây 9.000 năm. Thực ra, hiện nay chưa phát
hiện được di chỉ khảo cổ nào có vết tích của củ (có lẽ vì củ rất khó bảo quản). Các di chứng có vết tích
của lúa trồng đáng tin cậy nhất cũng chỉ cách đây khoảng 5.000 năm (Chang, 1975), nhưng vẫn chậm
hơn ở Tây Á.
Đào Thế Tuấn (1984) cho rằng, nông nghiệp “trồng củ” xuất hiện sau nông nghiệp “gieo hạt” vì
việc trồng củ đòi hỏi trình độ thâm canh cao hơn gieo hạt như trồng lúa rẫy. Việc trồng củ của các dân
tộc quẩn đảo Polynêsia đã đầu tư năng lượng gấp 4 lần lớn hơn trồng lúa rẫy ở Thái Lan và năng suất
lớn hơn 3,7 lần.
Vùng Tây Á là nơi đầu tiên trồng lúa mì và đại mạch, đã nuôi cừu và dê vào khoảng 6.000 năm trước
Công Nguyên.
Vùng Đông Nam Á là nơi đầu tiên trồng lúa nước, nuôi lợn và gà vào khoảng 3.000 năm trước

Công Nguyên. Vùng Bắc Trung Mỹ bắt đầu trồng ngô vào khoảng 6.000 năm trước Công Nguyên, trồng
đậu cô ve và bí đỏ 3.000 năm trước Công Nguyên, Nam Mỹ là nơi đầu tiên trồng sắn, lạc, khoai tây
(Grigg, 1974).
20 / 55
Giai đoạn thứ nhất kết thúc khi con người phát minh ra máy hơi nước ở thế kỷ XVIII. Sau cuộc
cách mạng này, sức người dồn vào cải tiến công cụ lao động, vật tư kỹ thuật nhờ công nghiệp cơ khí
phát triển, sử dụng hóa chất và đầu tư năng lượng cao. Việc đổi mới công cụ lao động và tăng cường
đầu tư vào nông nghiệp đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp và nông nghiệp chuyển
sang giai đoạn thứ hai.
3.1.1.2. Nông nghiệp thâm canh
Đây là giai đoạn làm nông nghiệp với vật tư kỹ thuật phát triển và công cụ được cải tiến, giai
đoạn này còn được gọi là giai đoạn nông nghiệp cơ giới hoá. Nó bắt đầu từ thế kỷ XVIII đến thập kỷ 70
của thế kỷ XX. Nông nghiệp trong thời kỳ này có những bước tiến nhảy vọt, lao động sống hoà vào vật
tư, công cụ, lao động không ngừng được cải tiến. Con người ngày càng tăng cường việc đầu tư kỹ thuật
và đổi mới công cụ, sản phẩm tạo ra ngày một nhiều. Đặc điểm của giai đoạn này gắn liền với cuộc cách
mạng 5 hoá (cơ khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá, điện khí hoá, sinh học hoá). Năm “hoá” này mang
tính chất bộ phận, giải quyết từng khâu về công cụ và vật tư lao động. Nhờ đó mà con người được nhân
sức mạnh lên nhiều lần.
Nhưng do con người sử dụng quá nhiều năng lượng vật tư mà chủ yếu là năng lượng hoá thạch
để tác động vào tự nhiên một cách dữ dội và thô bạo đã làm cho thiên nhiên chịu nhiều tổn thất. Thiên
nhiên đã có những phản ứng trở lại làm vô hiệu hoá tác động phiến diện của con người và nhiều khi đã
gây ra những hậu quả tai hại mà con người không thể kiểm soát được. Mặt khác do con người làm ô
nhiễm môi trường sinh sống và sản xuất (đất, nước, không khí...) nên ngoài thiếu ăn, thiếu mặc, con
người còn thiếu cả môi trường trong lành. Những phản ứng của tự nhiên đã buộc con người phải cân
nhắc thận trọng hơn trong mọi hành động cư xử hàng ngày của họ với thiên nhiê. Mặt khác do con người
làm ô nhiễm môi trưòng sinh sống và sản xuất (đất, nước, không khí...) nên ngoài thiếu ăn, thiếu mặc,
con người còn thiếu cả môi trường trong lành. Những phản ứng của tự nhiên đã buộc con người phải cân
nhắc thận trọng hơn trong mọi hành động cư xử hàng ngày của họ với thiên nhiên.
Trí tuệ
Thiên nhiên

Con người
Vật tư, công cụ
LAO ĐỘNG SỐNG
21 / 55
3.1.1.3. Nông nghiệp trí tuệ
Ơ giai đoạn này, con người sản xuất nông nghiệp phù hợp với các quy luật khách quan của tự
nhiên, của các hệ sinh thái nông nghiệp, làm nông nghiệp chủ yếu và phổ biến là dựa vào trí tuệ để điều
khiển sự hoạt động hài hoà của các hệ thống sản xuất nông nghiệp, nhằm xây dựng một nền nông nghiệp
phát triển bền vững, khoa học kỹ thuật thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nhờ vậy mà con
người thoát khỏi những bế tắc do nền nông nghiệp thâm canh gây ra. Con người tiến hành 5 hoá trên cơ
sở trí tuệ để sử dụng công cụ, vật tư hợp lý chứ không để cho công cụ, vật tư chi phối như ở nền nông
nghiệp thâm canh.
Để làm được nền nông nghiệp trí tuệ, phải xem xét lai tài nguyên, khí hậu, đất đai, con người...
từ đó đưa ra được ngững đơn vị đất đảm bảo được điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội giống nhau. Ứng
với từng đơn vị đất ta được lựa chọn hệ thống sử dụng đất thích hợp cho hiện tại và tương lai.
Trí tuệ
Thiên nhiên
Con người
VẬT TƯ, CÔNG CỤ
Lao động sống
TRÍ TUỆ
Thiên nhiên
Con người
Vật tư, công cụ
Lao động sống
22 / 55
Ở một số nước đã xuất hiện giai đoạn thứ ba của lịch sử phát triển nông nghiệp nhưng nhìn
chung còn chưa rõ nét, thực tiễn còn chưa phổ biến, mới biểu hiện ở lý thuyết hệ thống cấu trúc, ở hệ
sinh thái nông nghiệp...Đây là cái mà loài người phải hướng tới cho một cuộc sống ngày càng hoàn thiện
hơn.

Harrison (1964) cũng cho rằng khởi đầu của nông nghiệp là sự săn bắn, hái lượm, sau đến nền
nông nghiệp có tổ chức đi từ thấp đến cao dưới áp lực của sự gia tăng dân số. Các kết quả nghiên cứu
của ông cho thấy số người cư trú trên một dặm vuông của các kiểu canh tác khác nhau như sau:
Hái lượm 2 người
Săn bắn và câu cá 2 người
Trồng trọt đơn giản 1/2 - 50 người
Chăn thả du mục 10- 100 người
Trồng trọt tiến bộ 10- 100 người
Điều này cho thấy, tốc độ phát triển nông nghiệp gắn liền với:
- Sự tăng lên của dân số và quá trình di cư.
- Sự tăng lên về khả năng kiểm soát cây trồng và vật nuôi như kiểm soát về sinh sản từ chỗ sinh
đẻ tự nhiên theo mùa với tỷ lệ sống thấp sang sinh sản quanh năm với tỷ lệ nuôi sống cao. Từ sinh sản
theo kiểu cặp đôi bố mẹ sang kiểu sinh sản thụ tinh nhân tạo, ấp nhân tạo...kiểm soát tốt hơn về phòng
chống dịch hại, từ chỗ các sinh vật phát triển tự điều chỉnh đến chỗ có sự can thiệp của con người để
kích thích hay hạn chế số lượng của một loài nào đấy....., kiểm soát về dinh dưỡng cũng biến đổi từ chỗ
lợi dụng điều kiện tự nhiên đến chỗ sản xuất thức ăn nhân tạo....
- Sự tăng lên về khả năng sử dụng điều kiện tự nhiên như sử dụng sức gió, sức nước để xay bột,
bơm nước, phát điện, chạy động cơ...., sử dụng sức kéo động vật đến chế tạo máy kéo, ô tô, tìm kiếm ra
các loại nguyên liệu mới....
- Về xã hội từ chỗ tự cấp, tự túc đến chỗ có thừa để bán và phân hóa thành dân nông nghiệp và
dân phi nông nghiệp, những người làm nông nghiệp ít dần đi và diện phi nông nghiệp tăng dần lên.
* Sự phát triển nông nghiệp ở giai đoạn sau:
Đây là giai đoạn xây dựng một nền nông nghiệp phát triển bền vững trên quan điểm sinh thái,
quan điểm hệ thống với việc sử dụng khôn khéo các nguồn lợi tự nhiên, không hoặc ít gây ô nhiễm môi
trường.
Hiện nay vấn đề đặt ra cho nông nghiệp không thống nhất là ở chỗ thiết kế thông minh, sing vật
được sử dụng với kế hoạch hoá tốt hơn, dùng nguồn năng lượng rẻ tiền hơn, để làm được theo hướng
trên cần giải quyết:
+ Vấn đề lai tạo giống cây trồng, vật nuôi cũng đi theo hướng đạt hiệu quả kinh tế và sinh cao
hơn, phải xem học đây là cơ sở của nông nghiệp.

23 / 55
+ Vấn đề tăng mức đầu tư như phân bón, thuốc trừ sâu, sử dụng chúng hợp ly’, không hoặc ít
gây ô nhiễm môi trường... đây là hướng quan trọng, nó góp phần tạo ra sự biến đổi về năng suất cây
trồng với tốc độ cao.
+ Vấn đề năng lượng hiện nay được nghiên cứu nhiều là năng lượng rẻ tiền, không (hoặc ít) phế
thải, có khả năng tái tạo nhưng không làm giảm sản phẩm lương thực trên một đơn vị diện tích.
3.1.2. Sự cần thiết phát triển nông nghiệp bền vững
Sự phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệp hoá đã để lại nhiều hậu quả xấu tới môi
trường và con người.
+ Nông nghiệp và suy thoái đất
Việc bón nhiều phân hoá học và sử dụng nhiều thuốc trừ sâu, trừ cỏ đã làm thay đổi tính chất vật
lý, hoá học và sinh học của đất. Bón phân hoá học liên tục trong nhiều năm, ít bón phân hữu cơ sẽ làm
mặn hoá, chua hoá đất, làm giảm hàm lượng bùn trong đất, phá vỡ kết cấu viên của đất, huỷ diệt các vi
sinh vật đất. Kết cấu viên của đất bị phá vỡ sẽ làm cho đất không còn tơi xốp, mất dần khả năng thấm
nước, thấm khí và chai cứng lại. Các sinh vật sống trong đất như giun đất, vi sinh vật đất...có vai trò cực
kỳ quan trọng đối với các tính chất vật lý, hoá học của đất cũng như quá trình phân giải chất hữu cơ và
hấp thu dinh dưỡng khoáng của rễ cây. Hơn nữa, khu hệ sinh vật đất, đặc biệt là vi sinh vật còn là thành
phần rất quan trọng đối với đa dạng sinh học trong hệ sinh thái nông nghiệp. Việc sử dụn thuốc trừ sâu,
thuốc trừ cỏ, phân hoá học có tác động rất mạnh đến khu hệ sinh vật đất.
Ngoài ra, việc khai thác quá mức các vùng đất nông nghiệp, rừng và đồng cỏ chăn thả làm cho
đất suy thoái dần, cạn kiệt nước và dinh dưỡng, mất dần khả năng trồng trọt dẫn đến sa mạc hoá. Sa mạc
hoá là một quá trình biến đổi dần dần các tính chất vật lý, hoá học và sinh học của đất, dẫn tới khô cằn,
cạn kiệt dinh dưỡng làm cho cây trồng không thể sinh trưởng được. Các hoạt động khai thác rừng và sản
xuất nông nghiệp đã dần biến những vùng đất màu mỡ thành sa mạc và bán sa mạc. Sa mạc hoá là một
nguy lớn, đe doạ mất đất nông nghiệp thế giới, đặc biệt là các vùng khô hạn có lượng mưa hàng năm
thấp, đất không được tưới, trông vào nước trời.
+ Nông nghiệp và sự cạn kiệt nguồn nước
Nhiều vùng đất khô hạn của thế giới, do phát triển nông nghiệp, người ta phải khai thác nhiều
nước ngầm và nguy cơ cạn kiệt nguồn nước ngầm là rất lớn, dẫn tới tình trạng ngày càng khô hạn và
nguy cơ sa mạc hoá càng đến gần. Mặt khác, do khai thác nước ngầm quá mức, vượt quá khả năng tái

sinh của nước ngầm, làm giảm mực nước ngầm, tăng hàm lượng muối trong nước hoặc đối với vùng ven
biển thì làm tăng khả năng xâm lấn của nước mặn vào, khi tưới sẽ gây mặn cho đất nông nghiệp.
Nước tưới cho nông nghiệp, sau đó một phần được chảy trở lại các dòng sông mang theo nhiều
muối, các hoá chất bảo vệ thực vật, làm cho nước sông mặn hoá dần và ô nhiễm. Phát triển nông nghiệp
trên vùng đất dốc, thượng nguồn của`các con sông, thường găn liền với việc phá huỷ rừng, làm mất đi
nguồn nuớc dự trữ lớn cho vùng hạ lưu, gây ra khô hạn trong mùa khô và úng lụt vào mùa mưa.
+ Nông nghiệp và nguồn lợi sinh vật
24 / 55
Đa dạng sinh học đóng vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp bền vững. Tuy nhiên,
cùng với phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái
nông nghiệp bị suy giảm đáng kể.
Nông nghiệp chuyên canh thường phá vỡ nơi ở và ổ sinh thái của nhiều loài sinh vật có lợi, làm
mất cân bằng sinh thái đồng ruộng, tạo điều kiện cho sự bùng nổ nhiều loài sâu, bệnh hại, gây bất ổn cho
hệ sinh thái nông nghiệp.
Phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá ở các nước vùng nhiệt đới cũng dẫn đến sự
mất đi các giống cây, con bản địa. Các giống cây con mới năng suất cao được đưa vào sản xuất ngày
một nhiều trong khi các giống địa phương tuy năng suất không cao nhưng có nhiều gen quý, đặc biệt là
những gen chống chịu sâu bệnh và điều kiện môi trường bất lợi, thường không được chú trọng bảo vệ,
gìn giữ và bị mất đi nhanh chóng. Sự đa dạng loài và đa dạng di truyền trong hệ thống cây trồng được
coi là yếu tố chính dẫn tới tính không bền vững của hệ sinh thái nông nghiệp hiện nay.
+ Nông nghiệp và sức khoẻ con người
Việc sử dụng nhiều hoá chất trong nông nghiệp như thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, phân hoá học,
các hoá chất kích thích sinh trưởng và kháng sinh, thường để lại dư lượng của chúng trong nước, đất và
các nông sản, gây nên những hậu quả nghiêm trọng đối với sức khỏe con người.
Theo tổ chức y tế thế giới WHO, mỗi năm trên thế giới có khoảng nửa triệu người bị ngộ độc
thực phẩm do thuốc trừ sâu, tập trung chủ yếu ở các nước đang và kém phát triển.
Như vậy, nền nông nghiệp thâm canh đã để lại nhiều hậu quả xấu đối với con người và môi
trường, làm suy thoái tài nguyên. Do đó, vấn đề đặt ra là cần có một hướng phát triển nông nghiệp mới,
đó là hướng phát triển nông nghiệp bền vững.
3.2. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

* Quan niệm về phát triển bền vững
Thực tế đã cho thấy, tăng trưởng thuần tuý đã xuất hiện những hậu quả to lớn cho hiện tại và
tương lai của xã hội loài người như làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường sinh thái, nghèo đói và
bất bình đẳng tăng lên, văn hoá, dân tộc bị xâm hại...
Ngày nay, “tăng trưởng kinh tế”, “phát triển”, “phát triển bền vững” là những phạm trù được đề
cập thường xuyên trên nhiều diễn đàn quốc tế. Ơ Việt Nam, các phạm trù trên không chỉ dừng lại ở khía
cạnh lý thuyết, học thuật mà đã và đang được thực hiện bằng các chương trình, dự án, chiến lược phát
triển kinh tế xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định một trong những quan
điểm phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến năm 2010 là “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng
trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”
Trên thế giới, trong những thập kỷ gần đây, vấn đề phát triển bền vững đã được nhiều nhà
nghiên cứu, các tổ chức quốc tế đặc biệt quan tâm. Nhiều tổ chức quốc gia và quốc tế như Liên hợp
quốc, Hiệp hội quốc tế bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên (IUCN), Hội đồng thế giới về môi
25 / 55

×