Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Công ty truyền thông và công tác quảng cáo với việc sử dụng các công cụ về tiếp thị - 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.83 KB, 41 trang )

chiếm dụng vốn còn khá phổ biến; phương thức sản xuất còn rất lạc hậu, tình trạng
ngưng trệ sản xuất, thua lỗ, phá sản rất phổ biến.
Nhìn chung, ở nước ta, quy mô DNVVN còn hạn chế, công nghệ lạc hậu, khả
năng cạnh tranh rất thấp, sản xuất kinh doanh mang tính chất tự phát, thiếu định hướng,
mất cân đối, phân bổ không đều (DNVVN tập trung ở Đ ông - Nam Bộ 35,8%, đồng
bằng sông Hồng 24,3%, đồng bằng sông Cửu Long 16,6%), tổ chức kinh doanh thiếu
chặt chẽ, rất ít DN áp dụng phương thức kinh doanh, quản lý hiện đại, bỏ lỡ nhiều cơ
hội kinh doanh; khả năng giải quyết việc làm cho người lao động chưa cao; năng lực và
trình độ quản lý DN của đội ngũ chủ DN rất thấp (mà đây lại là yếu tố quyết định sự
thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh, theo điều tra nguyên nhân thất bại của
DNVVN, 96% là do quản lý yếu kém); tình trạng thiết vốn hoạt động, mặt bằng sản
xuất, thông tin còn phổ biến. Khoảng 60% DNNN không đủ vốn pháp định theo luật
định, 50% không đủ vốn lưu động tương ứng với quy mô hoạt động. Số DNNN có số
vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm 26%, dưới 5 tỷ đồng 65%, 5-10 tỷ đồng 15%. Khoảng 66,7%
DNVVN gặp khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng sản xuất. Khoảng 20% DNVVN
tiếp cận được thông tin từ các thương vụ; thông tin mà các DNVVN có được chủ yếu
khai thác từ internet, đo đó, chất lượng thông tin chưa cao. Việc triển khai thương mại
điện tử còn rất hạn chế, hiện chỉ có khoảng 7% tổng DN tiếp cận thương mại điện tử,
trong số đó DNVVN chiếm 33,1%. DNVVN cũng rất hạn chế trong việc tiếp thị và
khai thác thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, sự liên kết hợp tác giữa DNVVN với các
DN lớn và với các dự án liên doanh còn thấp. Việc phát triển DNVVN còn gặp trở ngại
từ phía các cơ quan nhà nước như thủ tục hành chính nhiêu khê, quyền tự đo kinh
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
doanh theo pháp luật vẫn chưa thực thi đầy đủ, các chính sách trợ giúp DN chưa được
quán triệt; sự không nhất quán của một số cơ quan chức năng khiến DN gặp không ít
khó khăn, gây tốn kém, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh; một số chủ trương
của Nhà nước chậm được thực thi do chưa có văn bản hướng dẫn hoặc đo những quy
định chưa hợp lý, vẫn còn tình trạng ban hành các văn bản pháp quy chưa thật sự xuất
phát từ yêu cầu sản xuất kinh doanh của DN. ở một số địa phương, quỹ bảo lãnh tín
dụng đã được thành lập, nhưng đến nay chưa có quỹ nào đi vào hoạt động do một số
quy định còn vướng mắc, như yêu cầu về vốn lên đến 30 tỷ đồng, trong đó bắt buộc


ngân sách địa phương phải chiếm đến 30%, điều kiện bảo lãnh vay vốn khó khăn (được
bảo lãnh 80% tổng số vốn vay, nhưng 70% trong đó phải có tài sản thế chấp). Còn có
sự phân biệt giữa DNVVN với DN lớn mà quy định thưởng kim ngạch xuất khẩu là
một ví dụ điển hình. Theo quy định, những DN có kim ngạch xuất khẩu lớn hơn 1 triệu
USD mới được thưởng. Hiện nay, số lượng DN xuất khẩu hoặc phục vụ xuất khẩu ở
nước ta hiện có tới 30.000 DN, chiếm 60% tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng rất ít
DNVVN đạt được tiêu chuẩn này. Trong đấu thầu các DNVVN cũng rất khó đưa ra
mức giá chào thầu thấp để thắng thầu do hạn chế về khả năng tài chính và những trở
ngại từ phía thị trường.
 Khó khăn:
Nếu xét kết hợp tiêu chí về vốn với tiêu chí về lao động, các số liệu thống kê cho
thấy, trong tổng số 88.222 DNVVN năm 2004 có 2.211.895 lao động, tương đương với
tỷ lệ bình quân mỗi DN có 25 lao động.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Như vậy, quy mô về vốn và lao động của DNVVN Việt Nam còn quá nhỏ so với
quy mô DN thông thường của các nước phát triển và có nền kinh tế mới nổi. Đặc điểm
này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam hội nhập hoàn toàn vào WTO.
Do quy mô của các DNVVN như vậy kéo theo hiệu quả kinh doanh không cao.
Năm 2004, lợi nhuận bình quân của DNVVN là 240 triệu đồng (khoảng 16.000 USD),
thấp hơn nhiều so với mức lợi nhuận bình quân/ DN của cả nước (khoảng 1,14 tỷ
đồng).
Các tiêu chí về tỷ suất lợi nhuận/ vốn và lợi nhuận/ doanh thu cũng thấp, ở mức 3
tỷ đồng và 2,57 tỷ đồng so với các mức bình quân chung các DN cả nước là 4,85 tỷ
đồng và 5,99 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, các DNVVN chủ yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa
động cơ, xe máy (chiếm 40,6% DN của cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến
(20,9%), xây dựng (13,2%) và các ngành còn lại như kinh doanh tài sản, tư vấn, khách
sạn, nhà hàng (25,3%).
Theo quy định của WTO, Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các nhà
phân phối nước ngoài, do đó, với quy mô lớn, mạng lưới phân phối toàn cầu và có tính

chuyên nghiệp cao, các công ty nước ngoài sẽ là những đối thủ lớn, đe doạ sự tồn tại
của nhiều DN vừa và nhỏ trong lĩnh vực thương mại của Việt Nam.
Một thực trạng phổ biến trong các DNVVN là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu,
khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí, 70% công nghệ
ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm
tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới.
Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 - 50% so với các
nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng
suất thấp.
Nhiều DNVVN rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh
doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên
môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý DN, một phần là do đầu tư
cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến
của thị trường.
Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm và
phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các DNVVN của Việt Nam trước áp lực
cạnh tranh quốc tế.
WTO có phải là thời cơ mới?
Kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê cho thấy, các DNVVN hiện đang chiếm
tới 99% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, 25% tổng đầu tư xã hội và
thu hút khoảng 77% lực lượng lao động phi nông nghiệp.
Ngoài ra, các DNVVN còn đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách quốc gia
và chi phối hầu hết các hoạt động phân phối (bán lẻ) của cả nước (chiếm tỷ trọng
khoảng 80% năm 2003).
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong bối cảnh mới, với việc trở thành thành viên của WTO, Việt Nam được
hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường (MNF) và đối xử quốc gia (NT) giữa
các nước thành viên WTO. Quy chế này sẽ tạo thuận lợi cho các DNVVN ngày càng

đa dạng được sản phẩm, thị trường và sản phẩm xuất khẩu.
Bởi, hầu hết các sản phẩm của DNVVN của Việt Nam có giá thành cao, khối
lượng nhỏ lẻ, tiệu thụ ở thị trường nội địa nên rất khó thâm nhập vào các thị trường
nước ngoài nếu bị đánh thuế cao hoặc bị giới hạn bằng hạn ngạch.
Do đó, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị thu hẹp lại hoặc được rỡ
bỏ, các sản phẩm của các DNVVN sẽ dễ dàng vào các thị trường nước ngoài hơn, nhờ
đó sẽ khai thác được lợi thế lao động rẻ.
Trong những năm vừa qua, có tới trên 80% các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất
của các DNVVN chủ yếu từ nhập khẩu. Mặt khác, do hạn chế về năng lực tài chính nên
các DNVVN rất khó nhập khẩu trực tiếp từ các đối tác nước ngoài, đồng thời các DN
này cũng không thể dự trữ được nhiều nguyên vật liệu nhập khẩu nên nguyên liệu
thường phải mua lại từ các cơ sở đại lý, do đó đã làm tăng chi phí sản xuất và rất khó
nắm bắt được nhu cầu của khách hàng nước ngoài.
Hội nhập WTO khiến cho hàng hoá nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam với giá rẻ
và phong phú hơn, nhờ đó sẽ làm giảm sức ép về nguyên liệu ngoại nhập và các
DNVVN cũng sẽ biết được nhu cầu của thị trường thế giới do được tiếp xúc trực tiếp
với các nhà phân phối của nước ngoài.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Theo lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam, tính minh
bạch trong quản lý của các cơ quan, tổ chức hữu trách đối với các DNVVN cũng sẽ
được nâng cao. Mặt khác, hiện tượng phân biệt đối xử giữa các DN Nhà nước với các
DNVVN (chủ yếu là khu vực tư nhân) sẽ không còn, nên các DNVVN sẽ thuận lợi hơn
trong việc tiếp cận với các nguồn lực tài chính, gia nhập thị trường, hỗ trợ kinh doanh.
Xét về dài hạn, trước áp lực cạnh tranh, các DNVVN sẽ phải tích cực nâng cao
năng lực quản lý, đổi mới công nghệ, chú trọng sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng
và cải thiện văn hoá DN, nhờ đó phát triển DN bền vững hơn trong môi trường cạnh
tranh quốc tế.
Ngoài ra, cũng chính từ áp lực cạnh tranh mà nhiều DNVVN không có khả năng
tồn tại sẽ bị phá sản, ra khỏi thị trường
 Thuận lợi

Bên cạnh những khó khăn gặp phải thì các DNVVN cũng có những ưu điểm:
 Thứ nhất, cần ít vốn, chi phí quản lý, đào tạo không lớn, thường hướng vào
những lĩnh vực phục vụ trực tiếp đời sống, những sản phẩm có sức mua cao, dung
lượng thị trường lớn, nên huy động được các nguồn lực xã hội, các nguồn vốn còn tiềm
ẩn trong dân.
 Thứ hai, có thể sử dụng các loại máy móc, thiết bị sản xuất trong nước, dễ
dàng thay đổi công nghệ, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí;
có thể kết hợp cả những công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, sản xuất
những sản phẩm chất lượng cao trong điều kiện sản xuất không thuận lợi.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
 Thứ ba, nhạy cảm với những biến động của thị trường, chuyển đổi mặt hàng
nhanh phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, tận dụng được các nguồn nguyên vật
liệu, nhân lực tại chỗ.
 Thứ tư, dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh, làm vệ tinh gia công, chế tác cho
các DN lớn. DNVVN có thể len lỏi, xâm nhập vào các thị trường ngách và dễ dàng tạo
nên sự phát triển cân đối giữa các vùng, miền trong lãnh thổ một quốc gia.
2.2. Thực trạng xây dựng thương hiệu của các DNVVN, những khó khăn
mà họ thường gặp phải.
Thời gian gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã chú ý hơn tới việc xây dựng
thương hiệu. Tuy nhiên còn có nhiều vấn đề mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải
quan tâm hơn nữa.
Trước hết, một thực tế là hiện nay không ít doanh nghiệp Việt Nam đang còn
nhầm lẫn giữa hai khái niệm thương hiệu và nhãn hiệu. Nhãn hiệu là những yếu tố vật
thể có thể nhìn thấy bằng mắt thường về những “chào mời” (offer) của doanh nghiệp.
Theo tôi, nhãn hiệu thuộc lĩnh vực quảng cáo, là những thông điệp được gửi đi
bởi doanh nghiệp. Còn thương hiệu bao gồm tất cả những gì mà khách hàng thật sự
cảm nhận về doanh nghiệp và về những sản phẩm dịch vụ cung ứng bởi doanh nghiệp.
Nói cách khác, thương hiệu là một khái niệm xuyên suốt cả quy trình từ khi thông
điệp được gửi đi bởi doanh nghiệp đến khi thông điệp nhận được bởi các đối tác của
doanh nghiệp. Vì thế thương hiệu mang tính phi vật thể, là cách kết nối của mối quan

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
hệ bền vững giữa doanh nghiệp và khách hàng. Trong kinh doanh, chính quan hệ lâu
dài đó mới làm cho doanh nghiệp phát triển.
Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chỉ quan niệm thương hiệu là những gì
giúp khách hàng nhận biết và gợi nhớ về sản phẩm của doanh nghiệp. Từ quan niệm đó
mà không ít doanh nghiệp đang thực hiện một chiến lược xây dựng thương hiệu sai
lầm.
Xin lấy một ví dụ về việc thực hiện các chương trình khuyến mại vốn đang rất
rầm rộ ở Việt Nam hiện nay. Các kiểu khuyến mại phổ biến ở Việt Nam như giảm giá
hoặc quà tặng thêm thực chất chỉ giúp doanh nghiệp bán được hàng tại thời điểm đó
thông qua việc tạo cho khách hàng cảm giác mua được sản phẩm với giá hời.
Khuyến mại của doanh nghiệp có khả năng mang đến cho người ta lợi ích tức thì.
Tuy nhiên chuyện gì sẽ xảy ra khi doanh nghiệp A khuyến mại, doanh nghiệp B trong
cùng lĩnh vực đó cũng khuyến mại ở mức cao hơn và doanh nghiệp C lại khuyến mại
cao hơn nữa?
Bản chất của hiện tượng khuyến mại khi đó chỉ là giành giật khách hàng mà
không có doanh nghiệp nào thông qua khuyến mại tạo cơ hội cho khách hàng kết nối
một mối quan hệ lâu dài bền vững với mình. Những khách hàng đến với doanh nghiệp
thông qua khuyến mại là những khách hàng không thường xuyên, “khách hàng quay
vòng” (“spinner”), đến với doanh nghiệp do bị quyến rũ bởi những chương trình
khuyến mại.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Bản thân sự khuyến mại không khuyến khích sự trung thành của khách hàng,
trong khi sự trung thành của khách hàng với sản phẩm mới mang lại mối lợi cho doanh
nghiệp.
Theo thống kê của kinh tế thị trường tư bản, với một khách hàng đến bởi hấp lực của
chương trình khuyến mại phải 11 tháng sau mới mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp
(trước đó, doanh số có từ khách hàng mới thu hút được bởi chương trình khuyến mại
của doanh nghiệp chỉ để trang trải những chi phí của chương trình ấy!)
Khi doanh nghiệp đã khuyến mại rồi thì lại phải tiếp tục khuyến mại vì nếu không hình

ảnh của mình trong thâm tâm khách hàng bị phai nhạt. Do đó, khuyến mại biến thành
một vòng tròn xoắn mang tính chất tiêu cực chứ không tích cực trong kinh doanh.
Khi quảng bá hình ảnh của mình, các doanh nghiệp hiện nay không nói đến chất
lượng “chuẩn” nữa mà nhấn mạnh vào những “giá trị vượt trội”, nghĩa là “cái mà mình
có mà không hoặc chưa ai có”. Khá nhiều doanh nghiệp Việt Nam giới thiệu sản phẩm
của mình đạt tiêu chuẩn ISO như là một lợi thế cạnh tranh mà quên đi rằng ISO là
International Standard of Organisation. Mà khi đã là Standard tức là “cái chuẩn” thì
không thể coi đó là lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh phải dựa vào “cái vượt
chuẩn”.
Muốn có thương hiệu, có quan hệ lâu dài với khách hàng doanh nghiệp phải làm
cho khách hàng có được một cảm nhận, một ấn tượng tích cực về doanh nghiệp, nói
cách khác đó là giá trị gia tăng (added value) phi vật thể mà thương hiệu cần phải mang
đến cho khách hàng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Cơ sở của thương hiệu là ở đó, chứ không phải chỉ dựa thuần tuý trên chất lượng của
sản phẩm dịch vụ vì, chất lượng sản phẩm là điều mà doanh nghiệp đương nhiên phải
có.
2.2.1. Chưa nhận thức đầy đủ về thương hiệu:
Theo khảo sát mới đây của Bộ Công Thương, có tới 95% trong số hơn 100 DN
được hỏi trả lời rằng cần thiết phải xây dựng và phát triển thương hiệu. Hầu hết các DN
đều cho rằng, thương hiệu đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
doanh, là tài sản vô hình có giá trị lớn nhất của DN… Tuy nhiên, mới chỉ có 20% DN
hiểu được rằng xây dựng thương hiệu cần bắt đầu từ đâu, số còn lại đều rất lúng túng
khi đưa ra một kế hoạch phát triển thương hiệu. Do vậy, thương hiệu của hầu hết các
DN hiện nay mới chỉ dừng ở mức độ để phân biệt chứ chưa được thương mại hoá.
Thực trạng này xuất phát từ nhận thức của chính các DN, cho rằng việc có một cái tên,
một logo đẹp, được đăng ký bảo hộ, là hoàn thành việc xây dựng thương hiệu… nhưng
thực chất việc xây dựng, phát triển thương hiệu là phải làm cho cái tên đó trở lên có ý
nghĩa, có tác động mạnh tới tâm lý và hành vi của người tiêu dùng và quan trọng hơn,
phải có giá trị thương mại. Đây là công việc lâu dài, mang tính chiến lược của DN, bao

gồm việc định hướng chiến lược cho hệ thống thương hiệu, việc quảng bá và định vị
thương hiệu và các hệ thống quản lý nhằm bảo vệ và phát triển thương hiệu.
Ở Việt Nam đang diễn ra tình trạng rất nhiều sản phẩm của các DN có chất lượng
tốt, giá rẻ nhưng do chưa có thương hiệu nên rất khó cạnh tranh với sản phẩm cùng loại
trên thị trường cả trong nước và nước ngoài. Nhiều sản phẩm hàng Việt Nam hiện nay
đang được bán trên thị trường thế giới dưới tên thương hiệu mạnh của nước ngoài, bản
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chất là chúng ta làm gia công cho họ. Cái lợi của việc này là chúng ta tranh thủ được
sức mạnh của một thương hiệu khác, từ đó phát triển thương hiệu cho riêng mình. Tuy
nhiên, hiệu quả của cách này không cao và mất nhiều thời gian, phụ thuộc vào việc các
nhà thu mua, phân phối có cho phép thương hiệu nhà sản xuất của chúng ta xuất hiện
hay không. Hoặc một số sản phẩm đã có thương hiệu trên thị trường nhưng chưa thực
sự nổi bật do các DN chưa có chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu của mình,
kinh phí dành cho việc xây dựng và quảng bá thương hiệu chưa được đầu tư đúng mức.
Trong khi đó, một số sản phẩm được coi là có chỗ đứng lại gặp nhiều khó khăn trong
việc duy trì và bảo vệ thương hiệu.
Theo một điều tra mới đây do Báo Sài Gòn Tiếp thị thuộc nhóm Thời báo Kinh tế
Sài Gòn về hiện trạng xây dựng thương hiệu của DNVVN Việt Nam trên 498 DN cho
thấy: Trong đó 66% là DN tư nhân và 34% DN nhà nước cho thấy các DN chưa đầu tư
đầy đủ nhân lực cho xây dựng và phát triển thương hiệu. Chỉ có 16% số DN có bộ
phận chuyên trách/phòng tiếp thị chịu trách nhiệm chính về hoạt động tiếp thị, 80%
DN không có chức danh quản lý thương hiệu (brand manager) trong công ty.
(5)

Trên thực tế, các lãnh đạo DN đều biết rõ tầm quan trọng của việc xây dựng thương
hiệu cho sản phẩm, dịch vụ hay công ty mình nhưng nhiều khi do điều kiện tài chính eo
hẹp không đủ thể trả cả ngàn USD / tháng để thuê các giám đốc thương hiệu nhiều kinh
nghiệm từ các công ty nước ngoài về xây dựng và thực hiện chiến lược cho mình. Còn
thuê những người ít kinh nghiệm thì lại không tin tưởng để giao cho họ hoạch định và


(5)
(Nguồn TBKTSG số 47 ngày 14/11/2002 trang 13, tác giả Lan Anh).

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thực hiện các kế hoạch phát triển thương hiệu vì chi phí của các hoạt động này thường
là rất lớn. Mặt khác, các giám đốc thương hiệu đã từng làm cho các công ty nước ngoài
nhiều khi cũng ngần ngại khi làm với các công ty Việt Nam vì mối lo phải làm việc
trong môi trường không chuyên nghiệp.
Theo số liệu thống kê của Sở Thương Mại TPHCM, phối hợp với các câu lạc bộ
hàng Việt Nam chất lượng cao tiến hành gần đây đối với 500 doanh nghiệp, chỉ có
30% doanh nghiệp nghĩ rằng thương hiệu giúp họ bán được hàng, 50% doanh nghiệp
không có bộ phận tiếp thị thương hiệu, 70% doanh nghiệp chỉ đầu tư từ 2,5%-5%
doanh thu cho việc quảng bá thương hiệu. Có thể nói rằng, các doanh nghiệp thực sự
chưa chú trọng nhiều về vấn đề này.
2.2.2. Thiếu đầu tư xây dựng, bảo hộ thương hiệu
Thế nhưng, việc xây dựng thương hiệu của các DN ở nước ta hiện nay còn mang
tính tự phát, một số có tính tổ chức nhưng còn mang tính manh mún, rời rạc. Nhiều DN
còn ngần ngại cho việc đầu tư xây dựng, đăng ký bảo hộ thương hiệu. Đây là điểm yếu
của của các DN hiện nay bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết do hạn chế
về tiềm lực tài chính vì đa số các DN Việt Nam là DNVVN hoạt động chủ yếu dựa vào
nguồn vốn vay. Vì vậy, họ rất ngại tốn kém chi phí khi phải bỏ ra số tiền không phải là
nhỏ và còn gặp nhiều khó khăn trong việc đăng ký bảo hộ thương hiệu, đặc biệt là ở thị
trường nước ngoài. Hơn nữa, các DN Việt Nam còn yếu về nhận thức luật pháp, phong
cách kinh doanh mang đậm nét của một quốc gia nông nghiệp như tâm lý làm ăn nhỏ,
sợ rủi ro trong kinh doanh, chỉ thấy lợi ích trước mắt mà chưa thấy lợi ích lâu dài…
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Chỉ khi nào thương hiệu bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại từ phía thứ ba thì DN
mới tính đến việc làm thủ tục đăng ký bảo hộ.
Kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy, việc đăng ký bảo hộ thương hiệu phải
được tiến hành đồng thời với việc quảng bá và đưa sản phẩm thâm nhập thị trường,

thậm chí việc đăng ký thương hiệu phải đi trước một bước. Thực tế thời gian qua ở
nước ta cho thấy, nhiều mặt hàng của Việt Nam chất lượng không thua kém hàng hóa
của nước ngoài nhưng giá cả thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác
do DN chưa chú trọng trong công tác thương hiệu, chưa có hành động tích cực trong
việc quảng bá thương hiệu. Thực trạng công tác xây dựng, phát triển thương hiệu thời
gian qua cho thấy, hầu hết trong các DN chưa có bộ phận chuyên trách về thương hiệu,
nhiều DN chưa có chức danh quản lý nhãn hiệu độc lập. Đối với DN tư nhân nhỏ hầu
như chưa có khái niệm thương hiệu trong chiến lược kinh doanh, còn đối với DN tư
nhân quy mô lớn hơn thì vấn đề xây dựng, phát triển thương hiệu chủ yếu thuộc về ban
giám đốc, các bộ phận khác như phòng kinh doanh, bộ phận bán hàng, phòng tiếp thị
mang tính chất phụ trợ, giúp việc. Ở các DN nhà nước, do ràng buộc về cơ chế, chính
sách, sự bảo hộ và ưu đãi của Nhà nước dẫn đến vấn đề thương hiệu chưa được quan
tâm thỏa đáng.
2.2.3. Những số liệu thực tiễn
Điều đáng mừng là, theo kết quả điều tra gần đây của báo Sài Gòn tiếp thị và Câu
lạc bộ hàng Việt Nam chất lượng cao cho thấy: trong các tiêu chí về cải tiến công nghệ,
giảm giá thành, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, quảng bá thương hiệu sản phẩm… thì DN
nhà nước quan tâm đến việc xây dựng và phát triển thương hiệu đạt 56%, DN tư nhân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
57%. Nếu phân theo lãnh thổ thì khu vực miền Trung đạt tỷ lệ cao nhất 62%, kế đến là
miền Đông Nam Bộ 60%, miền Bắc 54%, đồng bằng sông Cửu Long 41%
(6)
. Tuy
nhiên, những con số trên chỉ mang tính chất thăm dò, tương đối.
Số lượng thương hiệu hàng hóa được các DN Việt Nam đăng ký bảo hộ trong 2
năm qua đã tăng hơn 2 lần, năm 2001 có 3.095 thương hiệu trong tổng số 6.345 thương
hiệu đăng ký, chiếm 48,7%; năm 2002 lên đến 6.564 thương hiệu trong tổng số 8.818
thương hiệu đăng ký bảo hộ, chiếm 74%
(7)
. Số lượng thương hiệu Việt Nam đăng ký

bảo hộ ở nước ngoài theo thỏa ước Madrid cũng tăng lên từ 7 năm 2001 lên 31 năm
2002. Hai tên gọi xuất xứ hàng hóa của Việt Nam là nước mắm Phú Quốc và chè Mộc
Châu đã được công nhận bảo hộ ở thị trường nước ngoài. Ngoài ra, nước ta đang bảo
hộ gần 6.000 nhãn hiệu hàng hóa theo thoả ước Madrid.
Đến nay, trong tổng số 90.000 thương hiệu hàng hóa đã đăng ký bảo hộ trong nước
mới chỉ có 15% là của DN Việt Nam. Theo khảo sát tại 500 DN, chỉ có 80% số DN
đầu tư dưới 5% chi phí cho thương hiệu. Năm 2002, 10 thương hiệu quảng bá nhiều
nhất ở Việt Nam đều là thương hiệu của DN nước ngoài.
Từ khi luật DN có hiệu lực 1.1.2000, đã có hơn 42.000 DN thành lập, rất nhiều DN
trong số này chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu ngay từ đầu do hạn chế về vốn,
thiếu kinh nghiệm và kiến thức kinh doanh hiện đại như đã đề cập ở trên, nhưng một
phần còn do nhận thức của đội ngũ chủ DN cho rằng cứ sản xuất ra sản phẩm có chất
lượng cao là được người tiêu dùng biết đến là có thương hiệu. Đành rằng là vậy, nhưng

(6)
Tạp chí Thương mại số 18.2003
(7)
Tạp chí Hoạt động khoa học số 4.2003. Tác giả:Giảng viên đại học kinh tế tp.hcm Đoàn
ngọc phúc
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thử hỏi ở nước ta bao nhiêu DN có đủ khả năng về vốn, công nghệ và nguồn nhân lực
có trình độ chuyên môn cao để tạo ra những sản phẩm chất lượng từ khi DN mới hình
thành. Vì vậy, DN cần phải ý thức được rằng đi đôi với quan tâm nâng cao chất lượng
sản phẩm là xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. Đây là việc làm vừa mang tính cấp
bách vừa mang tính lâu dài và rất khó đánh giá, tính toán hết giá trị của nó, vì thương
hiệu là thứ tài sản vô hình. Khi DN tạo được một thương hiệu riêng cho sản phẩm của
mình và đăng ký bảo hộ thương hiệu thì DN có thể độc quyền khai thác nó, tạo ra ưu
thế trong kinh doanh, để bảo vệ uy tín DN, tạo điều kiện để thực hiện hiệu quả việc
quảng cáo, hướng dẫn tiêu dùng về hàng hóa và dịch vụ từ đó làm tăng doanh thu, lợi
nhuận cho DN và cũng có thể chuyển nhượng cho đối tượng khác hoặc tính gộp giá trị

thương hiệu vào tài sản DN khi liên doanh, liên kết căn cứ vào thị phần, sự ổn định,
tính quốc tế, xu hướng phát triển và sự bảo hộ thương hiệu của DN.
Như vậy, trong những năm vừa qua hầu như các DNVVN của chúng ta đã chú ý
nhiều đến các vấn đề về thương hiệu, nhưng do nhiều lý do khác nhau mà họ vẫn gặp
những khó khăn khi tiến hành công việc đó của mình.
- Do thiếu kinh nghiệm và kiến thức trong vấn đề xây dựng thương hiệu nên các
DN không biết bắt đầu từ đâu và lúng túng khi đưa ra một kế hoạch phát triển thương
hiệu. Một lý do khác của sự việc này là do nhận thức của các DN chưa đúng về thương
hiệu.
- Còn quá ít các DNVVN nước ta hiện nay có bộ phận chuyên trách / phòng tiếp
thị chịu trách nhiệm chính về hoạt động tiếp thị và hầu hết các DNVVN của chúng ta
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
không có chức danh pháp lý thương hiệu. Theo tôi, nguyên nhân chính gây ra tình
trạng này là do điều kiện tài chính eo hẹp của các DN.
2.3. Thực trạng cung ứng các dịch vụ marketing của công ty Quảng Cáo
Phước Sơn cho các DNVVN hiện nay.
2.3.1. Công ty Quảng Cáo Phước Sơn.
2.3.1.1. Lịch sử hình thành của công ty:
Ngành quảng cáo Việt Nam là một trong những ngành còn non trẻ. So với những
nước tiên tiến trên thế giới thì quảng cáo Việt Na chỉ mới chính thức ra đời vào năm
1989 và thực sự bùng nổ vào những năm gần đây.
Vào năm 1999, ngành công nghiệp quảng cáo Việt Nam có nhiều biến chuyển
thuận lợi như: Chi phí quảng cáo cho năm 1999 tăng 6% so với năm 1998, các dịch vụ
hỗ trợ quảng cáo như nghiên cứu thị trường xuất hiện. Đặc biệt lĩnh vực quảng cáo
ngoài trời, thị trường còn rất lớn. Đứng trước tình hình trên nhằm đáp ứng cho nhu cầu
ngày càng tăng của quảng cáo một số anh chị đã trưởng thành trong chuyên môn, có
lòng yêu nghề đã quyết định thành lập công ty TNHH Phước Sơn. Công ty Phước Sơn
đã ra đời trong hoàn cảnh như vậy.
Với đội ngũ trẻ, đầy tâm huyết, quyết tâm phấn đấu nên công ty đã đạt được
những thành tựu đáng kể và có được cho mình một vị thế nhất định góp phần vào sự

phát triển của ngành quảng cáo nói riêng và kinh tế nước nhà nói chung.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2.3.1.2. Đôi nét sơ lược:
- Tên doanh nghiệp: Cty TNHH Quảng cáo Phước Sơn
- Tên giao dịch: Phuocson Advertising Co., Ltd
- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh: 4 10200 1788
- Do sở kế hoạch và đầu tư cấp ngày: 31/07/2000
- Người đại diện pháp luật
 Ông Đặng Văn Sơn là GD và là người đại diện theo pháp luật của cty
 Bà Nguyễn Thị phước Nhân là phó giám đốc.
- Vốn điều lệ:
 Vốn điều lệ của công ty được ấn định khi thành lập công ty là:
500.000.000 đồng, qua 8 năm hoạt động hiện nay vốn điều lệ công ty đã được tăng lên
đến 5 tỷ đồng.
- Ngành nghề kinh doanh: Dịch vụ quảng cáo, tổ chức hội chợ, triển lãm,
trang trí nội thất, sản xuất pano, hộp đèn, băng rôn, bàn ghế, tủ kệ. Xây dựng dân dụng,
công nghiệp. Tư vấn xây dựng công trình giao thông thuỷ lợi.
- Sản phẩm vàdịch vụ chủ lực: Bảng hiệu, hộp đèn, pano, xây dựng dân dụng,
dịch vụ cấp phép quảng cáo.
Với yêu cầu mở rộng ngành nghề kinh doanh và địa bàn hoạt động đáp ứng sự tin
cậy của khách hàng, công ty Phước Sơn thành lập thêm nhiều chi nhánh công ty tại các
vùng kinh trọng điểm trên toàn quốc như Tây Nguyên, Hà Nội và Đà Nẵng. Nhưng do
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
thị trường ít khách hàng, cạnh tranh khốc liệt cộng với chi phí cao nên công ty đã tạm
thời ngừng hoạt động các chi nhánh một thời gian.
Trong quá trình hoạt động, sự kiện việc thành lập xưởng sản xuất tại 449/30A Nơ
Trang Long P13. Q. Bình Thạnh trên diện tích mặt bằng hơn 1000m
2
với trang thiết bị
phừ hợp với yêu cầu sản xuất là sự kiện đánh dấu bước chuyển mình quan trọng của

công ty.
Hiện nay với văn phòng chính tại 338G Bùi Đình Tuý, P.24, Q.Bình Thạnh, Tp
Hồ Chí Minh và xưởng sản xuất hoạt động của công ty Phước Sơn ngày càng được mở
rộng và phát triển ổn định, bền vững nhằm đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu quảng bá, xây
dựng thương hiệu trên khắp đất nước cũng như sự tin cậy, quý mến của khách hàng.
Hiện nay Công ty Quảng Cáo Phước Sơn đang là một trong những DN có vị thế
trong ngành quảng cáo ở TP Hồ Chí Minh, được người tiêu dùng cũng như các DN
chứng nhận.
2.3.1.3. Cơ cấu tổ chức:







Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -









- Nhiệm vụ của từng phòng ban:
 Ban giám đốc: Giám đốc là người đứng đầu- đại diện cho công ty- có chức
năng điều hành và quản lý các bộ phận thông qua tưởng phòng và phó phòng. Giám
đốc có nhiều kinh nghiệm trong ngành quảng cáo.

 Phòng thiết kế: Có trách nhiệm về chất lượng và tiến độ trong thiết kế. Công
việc cụ thể là:
o Thiết kế mẫu quảng cáo theo yêu cầu của khách hàng.
o Sáng tạo mẫu đính kèm để tư vấn thêm cho khách hàng lựa chọn
o Hỗ trợ cho công việc báo giá với phòng kinh doanh để báo giá chính xác,
thích hợp và kịp lúc cho khách hàng.

BAN GIÁM ĐỐC
PHÒNG
NHÂN SỰ
PHÒNG
KINH DOANH
PHÒNG
THIẾT KẾ
PHÒNG
KẾ TOÁN
XƯỞNG SẢN
XUẤT

QMR
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
o Trao đổi trực tiếp cho khách hàng về bản vẽ kỹ thuật, maquette mẫu.
 Phòng kế toán: Công việc cụ thể là:
o Chịu trách nhiệm về công tác thu chi, công nợ, lập bảng biểu, phân tích
diễn biến và báo cáo số liệu kinh doanh trong công ty.
o Thực hiện tất cả các nghĩa vụ đối với nhà nước về thuế và tài chính.
o Quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn.
o Lập kế hoạch tài chính, ngân sách hoạt động cho công ty.
o Riêng kế toán vật tư: Chịu trách nhiệm mảng vật tư cho xưởng sản xuất.
 Xưởng sản xuất: Công việc cụ thể là:

o Sản xuất bảng hiệu tại xưởng.
o Lắp đặt bảng hiệu, pano,… cho khách hàng
o Bảo hành bảng hiệu, pano,… co khách hàng
Tất cả các bộ phận trong công ty có mối quan hệ chặt chẽ, hổ trợ nhau từ khâu
đầu tiên là tìm khách hàng cho đến khâu cuối cùng là lắp đặt xong bảng hiệu, pano…
và bảo hành cho khách hàng. Mối quan hệ này vừa mang tính hỗ trợ vừa mang tính phụ
thuộc vào nhau. Chính mối quan hệ này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
công ty, nhưng đây cũng là điểm gây ra không ít khó khăn trong những trường hợp có
sự xáo trộn về cơ cấu ở bất kỳ phòng ban nào đó, hoặc có sự cố xây ra trong quy trình
làm việc theo dây chuyền.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2.3.1.4. Mục tiêu, phương hướng phát triển.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ hống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
ISO 9001: 2000, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ cũng như xây dựng văn hoá
văn nghiệp đạt một tầm cao mới, chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất và nguồn nhân lực trẻ-
khẻo- năng động, đầy nhiệt huyết làm hành trang đưa công ty Phước Sơn tồn tại và
phát triển ngày càng vững mạnh hơn.
- Tái cấu trúc công ty theo tình hình mới, đáp ứng được đòi hỏi của thị trường
cũng như sự cạnh tranh của hàng loạt công ty trong ngành, nhất là khi Việt Nam đã trở
thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, mức dộ cạnh tranh
sẽ trở nên khốc liệt hơn.
- Thực hiện chính sách liên kết, hợp tác với một số công ty trong ngành nghề để
chuyên nghiệp hoá sản xuất, giảm thiểu chi phí tăng khả năng cạnh tranh vàquan trong
hơn nữa là hợp tác đẻ cùng phát triển.
- Thực hiện kế hoạch cổ phần hoá doanh nghiệp tiến tới gia nhập sàn giao dịch
chứng khoán để thu hút vốn đầu tư, tăng quy mô của doanh nghiệp, tăng cường hoạt
động đầu tư trang thiết bị, máy móc chuyên dụng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển.
- Phát triển thêm mảng quảng cáo trên truyền hình, tư vấn, xây dựng thương
hiệu và tổ chúc sự kiện.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

2.3.2. Thực trạng cung cấp dịch vụ marketing của công ty Quảng Cáo
Phước Sơn.
2.3.2.1. Môi trường ngành nghề hoạt động:
Hiện tại thì lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty vẫn là quảng cáo ngoài trời
đặc biệt là in các bảng quảng cáo, pano…Trong lĩnh này công ty đã có khả năng cung
cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính sáng tạo, chất lượng cao và dịch vụ
mạng hỗ trợ quảng cáo cho các đối tác ngày càng hoàn thiện hơn, chính thức gia nhập
đội ngũ các doanh nghiệp quảng cáo hàng đầu tại Việt Nam. Công ty đã trở thành đối
tác quan trọng trong việc cung ứng các dịch vụ marketing cho nhiều tập đoàn kinh tế
quan trọng của đất nước như tập đoàn Bưu Chính- Viễn Thông (VNPT), Tổng Công
Ty Xăng Dầu Việt Nam (PETROLIMEX), Công ty SAMSUNG VINA, Công ty Cổ
Phần Thực Phẩm Kinh Đô, Công ty LG ELECTRONICS Việt Nam, Công ty
ACCECOOK Việt Nam, Công ty Bảo Hiểm ACE LIFE Việt Nam, Công ty Cổ Phần
Sữa Việt Nam (VINAMILK), Công ty Bia Sài Gòn, Công ty thông tin di động Việt
Nam Mobile Telecom Services Company (VMS)…
Nhưng trong một vài năm trở lại đây, với sự phát triển chóng mặt của nền kinh tế
thị trường, công nghệ phát triển mạnh mẽ nhất là công nghệ truyền thông đã sản sinh ra
nhiều loại hình truyền thông mới tiên tiến và hiệu quả hơn nhiều. Ví dụ như việc quảng
cáo qua blog, tin nhắn SMS ngày càng được sử dụng rộng rãi với sự hỗ trợ của internet
và điện thoại di động. “Quảng cáo thoái vị, PR lên ngôi” cũng là một tất yếu khi đời
sống con người ngày càng được nâng cao cả về giáo dục, nhận thức và nhất là nhu cầu
hưởng thụ ngày càng cao.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Việc nước ta mới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO cũng mang lại
những lợi thế cho ngành quảng cáo ngoài trời, những cũng chứa đựng những khó khăn
không lường trước được. Khi các tập đoàn lớn đầu tư vào nước ta thì đây là những
khách hàng tiềm năng các công ty Quảng cáo muốn khai thác, vì họ đang muốn đánh
bóng hình ảnh của mình trên thị trường nước ta. Nhưng họ cũng là những khách hàng
khó tính và có năng lực thương lượng cao hơn các công ty khác. Ngoài ra cũng có
những tập đoàn hoạt động trong ngành thâm nhập vào Việt Nam làm cho thị trường

càng cạnh tranh gay gắt hơn.
Bên cạnh đó, việc xuất hiện ngày càng nhiều các công ty quảng cáo trong nước đã
làm cho thị trường ngày càng khó tính, khách hàng đòi hỏi nhiều hơn do họ có nhiều
lựa chọn và nhu cầu cao hơn. Không những thế, ngày nay đi đâu chúng ta cũng nhìn
thấy các biển quảng cáo được gắn khắp nơi, có những biển được gắn bừa bãi sai quy
định nên làm mất cảnh quan đô thị, ảnh hưởng đến giao thông đi lại…đã buộc các cấp
chính quyền phải can thiệp vào. Do đó việc thực hiện quảng cáo ngoài trời ngày càng
được kiểm soát kỹ càng hơn và gặp không ít khó khăn trong công việc xin giấy phép.
2.3.2.2. Khách hàng:
Khu vực hoạt động chủ yếu của công ty hiện nay là Nam Trung Bộ, Tây Nguyên
và Nam Bộ. Đây là khu vực công ty đã và đang chiếm lợi thế với các đối thủ của mình.
Khách hàng chính của công ty ở khu vực là các công ty, tổ chức thường có thị trường
phân phối rộng khắp cả nước với nhiều chi nhánh, cữa hàng khác nhau. Các công ty
này luôn có những bộ phận chuyên phụ trách về lĩnh vực quảng cáo, truyền thông do
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
đó đây chính là những đối tác mà công ty cần phải tiếp xúc và quan tâm. Các công ty,
tập đoàn lớn luôn đề cao tính chính xác, chuyên nghiệp và nhanh chóng trong công
việc tiếp xúc, ký hợp đồng cũng như việc triển khai các dự án. Đây là loại khách hàng
tổ chức nên việc tìm hiểu khách hàng là rất khó khăn, do đó việc tiếp xúc khách hàng
chủ yếu là dựa trên các mối quan hệ có trước.
Hiện nay công ty đang là nhà cung cấp bảng quảng cao, bảng hiệu chính cho
Công ty thông tin di động Việt Nam Mobile Telecom Services Company (VMS), Công
ty Bia Sài Gòn, Công ty SAMSUNG VINA…Đây là những hợp đồng sản xuất với số
lượng lớn và được kéo dài trong tương lai.
2.3.2.3. Đối thủ cạnh tranh.
Hoạt động trong ngành quảng cáo với số lượng các doanh nghiệp ngày càng
nhiều, công ty Phước Sơn ngày phải đối đầu với nhiều đối thủ mạnh yếu khác nhau.
Nhưng những đối thủ cạnh tranh chính là các doanh nghiệp cũng tập trung nguồn lực
của họ vào lĩnh vực quảng cáo ngoài trời. Đa số các doanh nghiệp này cũng có những
nguồn lực giống công ty như: Công ty Quảng Cáo Đất Việt, Công ty Quảng Cáo Trẻ,

Công ty Quảng Cáo Lập Phương, Công ty Quảng Cáo Thành Vinh…
Bên cạnh các doanh nghiệp trong ngành công ty Phước Sơn còn phải đối diện với
sự cạnh tranh của các doanh nghiệp sắp thâm nhập vào ngành như Công ty TNHH
Quảng cáo Mai Nguyễn.
Đối thủ của công ty được xác định dựa trên việc cạnh tranh khách hàng khi thực
hiện đấu thầu các bản hợp đồng và vị trí của các công ty trên thị trường.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
2.3.2.4. Sản Phẩm:
Sản phẩm hiện tại chủ yếu của công ty là các bảng quảng cáo, Pano, thiết kế, trang
trí nội thất…Đây là những sản phẩm mang tính chất thẩm mỹ cao và phải đúng với quy
định của nhà nước. Khi một hợp đồng được ký, việc thiết kế có thể do khách hàng cung
cấp mẫu hoặc do công ty thực hiện. Nhưng sản phẩm sẽ do công ty vẽ, sau đó đem cho
khách hàng duyệt, nếu đạt nó sẽ được chuyển xuống xưởng sản xuất và đem đi gắn,
trang trí tại các địa điểm có trong hợp đồng.
Với việc phát triển mạnh trong lĩnh vực quảng cáo, nhu cầu mở rộng lĩnh vực
kinh doanh sang các lĩnh vực khác là một tất yếu. Theo chiến lược phát triển sắp tới
của công ty thì công ty sẽ mở rộng phát triển thêm các dịch vụ về tổ chức sự kiện, thiết
kế trang trí nội thất, quảng cáo trên truyền hình và đặc biệt là tư vấn xây dựng thương
hiệu cho các doanh nghiệp. Vì đây là khó khăn đang gặp phải của hầu hết các doanh
nghiệp vừa và nhỏ của nước ta hiện nay.
Vơi tám năm hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo hiện nay công ty đã có một bề
dày kinh nghiệm cộng với một nguồn lực tài chính dồi dao. Nhưng điều quan trong là
hiện nay công ty đang sở hữu một đội ngũ nhân viên hùng hậu với nhân viên kinh
doanh năng động, sáng tạo, nhanh nhẹn được đào tạo chính quy tại các trường danh
tiếng trong và ngoài nước; nhân viên phòng thiết kế với trình độ chuyên môn cao, sáng
tạo luôn thiết kế những sản phẩm độc đáo và biết cách làm hài lòng nhiều khách hàng
khó tính. Bên cạnh đó công ty đang có một đội ngũ công nhân ở xưởng làng nghề và có
kinh nghiệm trong việc sản xuất xây dựng các biển quảng cáo đủ các loại khác nhau.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×