Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

điều tra nguồn lợi cá chình tại Phú Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.74 MB, 61 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA THUỶ SẢN
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
ĐIỀU TRA NGUỒN LI CÁ CHÌNH (Anguilla
spp) TẠI PHÚ YÊN
NGÀNH: THUỶ SẢN
KHÓA: 2001 – 2005
SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHẠM ANH PHƯƠNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Tháng 07/2005
ĐIỀU TRA NGUỒN LI CÁ CHÌNH (Anguilla spp)
TẠI TỈNH PHÚ YÊN
Thực hiện bởi
PHẠM ANH PHƯƠNG
Luận văn được đệ trình để hoàn tất yêu cầu cấp bằng kỹ sư thủy sản
Giáo viên hướng dẫn: PHẠM VĂN NHỎ
Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 07/2005
2
TÓM TẮT
Đề tài nghiên cứu: “Điều tra nguồn lợi cá chình (Anguilla spp) tại tỉnh Phú
Yên” được thực hiện từ ngày 1/04/2005 đến ngày 31/08/2005.
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tiến hành thu thập số liệu tại một số
huyện ở Phú Yên, cùng một số tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Chúng tôi
phỏng vấn trực tiếp 60 hộ trong đó: có 37 hộ khai thác, 16 hộ nuôi, 7 hộ thu mua cá
chình, từ đó đònh hướng đánh giá nguồn lợi cá chình ở tỉnh Phú Yên. Đi sâu tìm hiểu
quá trình khai thác, nuôi, thu mua cá chình từ các hộ từ lúc con giống đến con thương
phẩm.


Qua sự nghiên cứu khảo sát này, chúng tôi thu thập được một số kết quả như sau:
Chúng tôi thu mẫu được 3 loài cá chình có ở 5 thủy vực thuộc tỉnh Phú Yên, đó
là cá chình hoa (A. marmorata) chiếm 97,53%, cá chình mun (A. bicolor) chiếm 2,38%
và cá chình nhọn (A. malgumora) chiếm 0,09%.
Sản lượng khai thác cá chình (Anguilla spp) của 5 thủy vực trong điều tra đạt
được 9945 kg/năm. Trong đó, vào mùa mưa khai thác được 7039,4 kg (chiếm 70,78%),
mùa khô khai thác được 2905,6 kg/năm (chiếm 29,22%). Ước tính tổng sản lượng toàn
tỉnh khai thác trong năm 2004 khoảng 10 – 13 tấn/năm. Ở 5 thủy vực trong vùng
nghiên cứu, cá chình được khai thác nhiều nhất vào mùa mưa lũ (IX đến tháng XII).
Đặc biệt, cá chình hoa và cá chình mun được khai thác quanh năm ở các thủy vực, cá
chình nhọn khai thác được ở 2 thủy vực chính là sông Kỳ Lộ và sông Ba; còn các thủy
vực khác (sông Bàn Thạch, biển hồ Hảo Sơn, hồ Sông Hinh) không khai thác được.
Nghề nuôi cá chình (Anguilla spp) hiện tại ở Phú Yên chỉ còn nuôi 8 lồng ở xã
Sông Hinh – huyện Sông Hinh, 2 bể xi-măng (1 bể tại xã An Thạch – huyện Tuy An,
1 bể tại xã Hòa Phong – huyện Tuy Hòa). Nhưng mô hình nuôi bể xi-măng đạt hiệu
quả cao hơn mô hình nuôi lồng.
Qua sản lượng điều tra ngư dân cho rằng nguồn lợi cá chình ở Phú Yên ngày
càng giảm sút trầm trọng so với những năm trước. Đặc biệt là cá chình mun (A.
bicolor) và cá chình nhọn (A. malgumora) rất hiếm gặp.
ABSTRACTS
3
The study, “Investigating the resource of Anguilla” in Phu Yen province was
carried out from 01/04/2005 to 31/08/2005. To do this research, we collected the data
is some districts of Phu Yen province and some related documents.
We directly interviewed 60 families in which 37 ones exploited, 6 ones
reared, 7 collected and bought Anguilla in Phu Yen province. From that, we tended to
evaluate the resource of Anguilla in Phu Yen province. We researched deeply about
the process of exploiting rearing, collecting Anguilla buying Anguilla of these families
from the Anguilla seed to Anguilla goods.
Through this surveying - study, we got the followed results:

We collected the pattern of three kinds Anguilla at aquatic areas of Phu Yen
province: Anguilla marmorate was of 97.53%, Anguilla bicolor was of 2.38% and
Anguilla malgulmora was of 0.09 %.
Yield of Anguilla of these five areas attained 9945 kg/year in rainy season
people exploited 7039.4 kg (70.78%) and 2905.6 kg/year (29.22%) in dry season.
Estimating that whole province exploited about 10-13 ton/year for the sum of
Anguilla yield in 2004.
In these five aquatic areas, Anguilla exploited the most in the torrential rain
season (September to November). Especially, Anguilla marmorate and Anguilla
bicolor were exploited every year in aquatic areas: Anguilla malgumora was exploited
in 2 main aquatic areas: Ky Lo river, Ba river. The others could not be exploited, such
as Ban Thach river, Hao Son river and Song Hinh lake.
Now aquaculture of Anguilla Phu Yen remains eight cages culture in Song
Hinh district, 2 cisterns culture come in An Thach town, Tuy An district: one in Hoa
Phong town, Tuy Hoa district. However, the model cistern culture is more effective
than the one of cage culture.
Through investigating yield, fisher informed that the resource of Anguilla in
Phu Yen reduced more and more heavily than previous years. Especially, Anguilla
bicolor is rear to meet.
CAÛM TAÏ
4
Chúng tôi xin chân thành cảm tạ:
Ban giám hiệu Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh và quý
thầy cô trong trường đã tận tình dạy dỗ chúng tôi trong bốn năm học qua.
Ban chủ nhiệm và quý thầy cô trong Khoa Thủy Sản đã dạy dỗ và tạo điều
kiện cho chúng tôi hoàn tất tốt khoá học.
Chúng tôi xin gởi lời biết ơn sâu sắc đến:
Thầy Phạm Văn Nhỏ đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ chúng tôi hoàn thành tốt
luận văn tốt nghiệp này.
Đồng thời chúng tôi xin chân thành cảm ơn:

Thầy Hoàng Đức Đạt
Các anh, chò sở Thuỷ Sản Phú Yên, phòng Kinh Tế huyện Tuy An, huyện Phú
Hoà, huyên Tuy Hoà, huyện Sông Hinh và bà con ngư dân đã tạo điều kiện tốt cho
chúng tôi thực hiện đề tài tốt nghiệp.
Tất cả bạn bè trong và ngoài lớp đã giúp đỡ và động viên chúng tôi thực hiện
đề tài.
Do thời gian thực hiện đề tài có hạn và bước đầu làm quen với công tác nghiên
cứu khoa học nên không tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi kính mong sự chỉ bảo của
quý thầy cô cũng như sự đóng góp ý kiến của các bạn.
MỤC LỤC
5
ĐỀ MỤC TRANG
TÊN ĐỀ TÀI i
TÓM TẮT TIẾNG VIỆT ii
TÓM TẮT TIẾNG ANH iii
CẢM TẠ iv
MỤC LỤC v
DANH SÁCH CÁC BẢNG vii
DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ viii
DANH SÁCH CÁC HÌNH ẢNH viii
I. GIỚI THIỆU
1.1 Đặt Vấn Đề 1
1.2 Mục Tiêu của Đề Tài 1
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2
2.1 Điều Kiện Tự Nhiên ở Phú Yên 2
2.1.1 Vò trí đòa lý 2
2.1.2 Đòa hình 2
2.1.3 Đặc điểm sông ngòi 5
2.1.4 Khí hậu thủy văn đất liền 7
2.1.5 Một số nét thủy văn vùng biển 8

2.2 Tình Hình Dân Sinh Kinh Tế và Xã Hội Miền Biển 9
2.2.1 Tình hình dân sinh kinh tế 9
2.2.2 Tình hình xã hội miền biển 9
2.3 Thực Trạng Tình Hình Khai Thác các Vùng Nước 10
2.3.1 Vùng nước ngọt 10
2.3.2 Vùng nước lợ 11
2.3.3 Vùng biển 11
2.4 Năng Lực Khai Thác Hải Sản 12
2.4.1 Tàu thuyền 12
2.4.2 Nghề nghiệp khai thác hải sản 12
2.5 Lao Động Khai Thác Thủy Sản 13
2.6 Một Số Đặc Điểm Sinh Học của Cá Chình 14
2.6.1 Đặc điểm hình thái 14
2.6.2 Đặc điểm sinh thái 14
2.6.3 Đặc điểm sinh thái sinh lý 16
III. TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 20
6
3.1 Thời Gian Nghiên Cứu 20
3.2 Đòa Điểm Nghiên Cứu 20
3.3 Phương Pháp Nghiên Cứu 20
3.3.1 Phương pháp xác đònh thành phần loài 20
3.3.2 Phương pháp xác đònh sự phân bố cá chình 21
3.3.3 Phương pháp xử lý số liệu 21
IV KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 22
4.1 Nguồn Lợi Cá Chình Tự Nhiên của Tỉnh Phú Yên 22
4.1.1 Thành phần loài cá chình có ở tỉnh Phú Yên 22
4.1.2 Sản lượng khai thác các loài cá chình (Anguilla spp) theo thời gian
và không gian ở các thủy vực thuộc tỉnh Phú Yên 25
4.1.3 Tình hình khai thác cá chình (Anguilla spp) ở các thủy vực Phú Yên 32
4.2 Nghề Nuôi Cá Chình (Anguilla spp) 40

4.3 Tình Hình Buôn Bán Tiêu Thụ Cá Chình trong Tỉnh 42
4.4 Đề Xuất Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Nguồn Lợi
Cá Chình ở Phú Yên 43
4.4.1 Khai thác hợp lý nguồn lợi 43
4.4.2 Bảo vệ và phát triển nguồn lợi cá chình 43
4.4.3 Đề xuất phương pháp nuôi cá chình 45
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 46
5.1 Kết Luận 46
5.2 Đề Nghò 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO 47
PHỤ LỤC 49
7
DANH SÁCH ĐỒ THỊ và HÌNH ẢNH
ĐỒ THỊ NỘI DUNG TRANG
Đồ thò 4.1 Tỷ lệ sản lượng của cá chình hoa (A. marmorata), cá chình mun
(A. bicolor) và cá chình nhọn (A. malgumora) ở các thủy vực 27
Đồ thò 4.2 Tỷ lệ (%) cá chình hoa khai thác theo mùa ở các thủy vực 28
Đồ thò 4.3 Tỷ lệ (%) cá chình mun khai thác theo mùa ở các thủy vực 30
Đồ thò 4.4 Tỷ lệ (%) cá chình nhọn khai thác theo mùa ở các thủy vực 31
Đồ thò 4.5 Số lượng các loại ngư cụ phân theo đòa bàn tại các điểm thu mẫu 34
HÌNH ẢNH
Hình 2.1 Bản đồ hành chính tỉnh Phú Yên 4
Hình 4.1 Cá chình hoa (A. marmorata) 22
Hình 4.2 Cá chình mun (A. bicolor Schmidt, 1928) 23
Hình 4.3 Cá chình nhọn (A. malgumora Kaup, 1856) 25
Hình 4.4 Ngư dân đang kéo lưới ở vùng An Thạch (sông Kỳ Lộ) 34
Hình 4.5 Ngư dân đang châm điện ở vùng Hòa Thắng (sông Ba) 35
Hình 4.6 Ngư dân đang giở Chà ở vùng Hòa Thắng (sông Ba) 36
Hình 4.7 Dàn ống để cho cá chình ẩn núp 41
8

I. GIỚI THIỆU
1.1 Đặt Vấn Đề
Phú Yên là tỉnh duyên hải miền Trung, có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát
triển kinh tế thủy sản. Tuy nhiên, do xuất phát điểm nền kinh tế xã hội thấp, kết cấu
hạ tầng kỹ thuật kém, đời sống ngư dân còn nghèo, thiếu vốn, thiếu việc làm nên có
những khó khăn nhất đònh trong việc phát triển kinh tế thủy sản nói riêng và kinh tế
của tỉnh nói chung.

Bên cạnh đó, nguồn lợi thủy sản vùng nước ngọt, lợ và mặn đang bò suy giảm
ở mức báo động đe dọa đến việc làm và đời sống của hơn hàng ngàn dân ngư nghiệp
đang sống bằng nguồn tài nguyên này. Những lợi ích kinh tế xã hội đã đạt được, nuôi
trồng thủy sản đang gặp nhiều rủi ro về bệnh tật, môi trường suy thoái, thò trường và
giá cả tiêu thụ không ổn đònh, trong đó bệnh dòch là nguyên nhân chính gây nhiều
thiệt hại nhất cho người nuôi và môi trường sinh thái.
Hệ thống sông ngòi tỉnh Phú Yên rất dày đặc, do đó tài nguyên thủy sảnỏ¬
các thủy vực nước ngọt, lợ và mặn phong phú. Nguồn nước ngọt tuy chiếm tỷ trọng ít
nhưng cũng góp phần vào việc cung cấp nguồn thực phẩm có giá trò. Đặc biệt, cá
chình là loài cá giàu đạm thòt ngon nên thò trường rất ưa thích loài cá này.
Hơn nữa, những năm gần đây do nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu
việc khai thác cá chình (Anguilla spp) ở một số đòa phương gia tăng cùng với việc sử
dụng nhiều hình thức khai thác mang tính hủy diệt (rà điện, dùng chất độc,…) đang đe
dọa nguồn lợi cá chình, việc xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện ở tỉnh làm
ảnh hưởng đến các quần thể cá chình. Chính vì thế, việc bảo vệ và duy trì phát triển
nguồn lợi cá chình (Anguilla spp) đạt hiệu quả trong sản xuất cũng như trong nuôi
trồng thủy sản trở thành một vấn đề cấp thiết.
Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Điều tra nguồn lợi cá
chình (Anguilla spp) tại tỉnh Phú Yên”.
1.2 Mục Tiêu của Đề Tài
Khảo sát đánh giá hiện trạng nguồn lợi của các loài cá chình thuộc giống
Anguilla, làm cơ sở khoa học cho việc bảo vệ nguồn lợi và phát triển các loài cá này ở

tỉnh Phú Yên.
9
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Điều Kiện Tự Nhiên ở Phú Yên
2.1.1 Vò trí đòa lý
Phú Yên là tỉnh Nam Trung Bộ, trong đất liền diện tích đất tự nhiên khoảng
5.045 km
2
. Vó độ điểm cực Bắc đến điểm cực Nam là 13
0
41

28
’’
B và 12
0
42

36
’’
B cách
nhau 108 km. Kinh độ điểm cực Tây đến cực Đông là 108
0
40

40
’’
Đ và 109
0
27


47
’’
Đ
cách nhau 85 km. Bắc giáp Bình Đònh, Nam giáp Khánh Hòa, Tây giáp Đắc Lắc và
Gia Lai, Đông giáp biển Đông. Toàn tỉnh có 8 huyện thò trong đó có 4 huyện thò ven
biển.
Đường sắt Bắc Nam và Quốc lộ 1A chạy dọc tỉnh từ Bắc xuống Nam qua 4
huyện thò ven biển. Quốc lộ 25 nối Tuy Hòa và Gia Lai. Một vò trí rất thuận lợi về mặt
giao thông để phát triển kinh tế xã hội giữa khu vực Tây Nguyên và miền ven biển.
2.1.2 Đòa hình
 Vùng đất liền
Phú Yên nằm ở sườn Đông dãy Trường Sơn. Đồi núi chiếm 70% diện tích đất
tự nhiên. Đòa hình dốc mạnh từ Tây sang Đông. Dải đồng bằng hẹp và chia cắt mạnh.
 Bờ biển
Bờ biển dài gần 190 km khúc khuỷu, có nhiều dải núi ăn lan ra biển hình thành
các eo vònh, đầm phá. Cùng với các vùng bãi triều nước lợ, cửa sông giàu chất dinh
dưỡng, đã tạo nên vùng nước lợ ven biển khoảng 21.000 ha là các bãi đẻ và sinh
trưởng tốt của các loài tôm, cá con, chúng là nguồn bổ sung trữ lượng hải sản vùng
biển. Vùng nước mặn, lợ ven biển rất thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản xuất
khẩu.
 Cửa sông lạch
Dọc bờ biển Phú Yên có 7 cửa sông, lạch là nơi ra vào trú đậu tàu thuyền đánh
cá, là vùng nuôi trồng thủy sản nước lợ. Do đó, từ lâu đời xung quanh vùng cửa sông
lạch đã hình thành các cụm cư dân ngư nghiệp. Từ Bắc xuống Nam có các cửa sông
lạch sau:
+ Cửa đầm Cù Mông
+ Cửa vònh Xuân Đài
+ Cửa Tiên Châu (sông Kỳ Lộ)
10

+ Cửa Tân Quy (đầm Ô Loan)
+ Cửa Đà Rằng ( sông Đà Rằng)
+ Cửa Đà Nông (sông Bàn Thạch)
+ Cửa vònh Vũng Rô
Hai vònh Vũng Rô và Xuân Đài là những vùng nước rộng, sâu, kín gió thích
hợp cho các loại tàu thuyền có trọng tải hơn 1000 tấn ra vào trú đậu. Hai cửa Đà Rằng
và Tiên Châu có độ sâu trung bình dưới 3 m phù hợp cho các loại tàu thuyền dưới 90
CV ra vào trú đậu trong sông. Các cửa lạch còn lại nhỏ hơn 60 CV ra vào khi có triều
dâng.
Hệ thống sông ngòi Phú Yên hàng năm đổ ra biển khoảng 12 ÷ 13 tỷ m
3
nước,
mang theo lượng phù sa, bùn cát gần 2 ÷ 3 triệu tấn và các chất hòa tan khoảng 0,55
triệu tấn. Tạo nên vùng sinh thái nước lợ giàu dinh dưỡng cho các loài thủy sinh thực
vật phát triển phong phú ở các vùng nước cửa sông lạch ven biển [9].
 Thềm lục đòa
Bờ biển dốc, càng về phía Nam độ dốc càng tăng. Phía Bắc tỉnh độ dốc thềm
lục đòa từ 0,35% ÷ 0,45%, độ sâu 100 m cách xa bờ khoảng 18 ÷ 19 km. Phía Nam tỉnh
độ dốc thềm lụa đòa từ 1,4% ÷ 2,8%, độ sâu 100 m chỉ cách xa bờ từ 3,5 km (mũi Kê
Gà) đến 7 km (cửa Đà Rằng). Thềm lục đòa ven biển Phú Yên có nhiều vùng rạn đá,
là nơi tập trung nhiều cá sống ven bờ (như cá cơm, cá đục biển, cá căng,…) và các loài
cá đáy (như cá hồng, cá hanh vàng, tôm hùm,…).
 Đảo
Vùng biển ven bờ Phú Yên có 9 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có 5 đảo có diện
tích lớn như:
+ Hòn Lao diện tích 1,51 km
2
(phía đông An Hải - Tuy An)
+ Hòn Yến diện tích 0,01 km
2

(phía đông An Hòa - Tuy An)
+ Hòn Chùa diện tích 0,22 km
2
(phía đông An Chấn - Tuy An)
+ Hòn Than diện tích 0,01 km
2
(phía đông An Chấn - Tuy An)
+ Hòn Dứa diện tích 0,02 km
2
( phía đông Hòa Hiệp Nam - Tuy Hòa)
Quanh các đảo là nơi cư trú của các loài cá (sinh sản, phát triển và tìm thức ăn)
và các loài hải sản khác.
11
Hỡnh 2.1 Baỷn ủo haứnh chớnh Phuự Yeõn
12
2.1.3 Đặc điểm sông ngòi
Sông ngòi Phú Yên phát nguồn từ dãy núi Trường Sơn ở phía Tây, Cù Mông ở
phía Bắc và đèo Cả ở phía Nam.
Chỉ có sông Ba thuộc loại sông lớn, còn các sông khác thuộc loại vừa và nhỏ.
Hướng chính của các sông là Tây Bắc - Đông Nam hoặc gần Tây Đông, nhưng khi
đến đồng bằng ven biển có xu hướng hơi lệch về phía Bắc.
Phú Yên có khoảng 50 con sông có chiều dài trên 100 km, trong đó phần lớn là
các sông ngắn từ 10-50 km. Các sông ngòi đều đổ ra biển Đông, với mật độ trung bình
cứ 10 km theo bờ biển có một cửa sông. Mật độ sông ngòi tương đối dày 0,3-1,3
km/km
2
, trung bình là 0,5 km/km
2
xấp xỉ mật độ mạng lưới sông của nùc ta (0,5-1
km/km

2
).
Hệ thống sông ngòi ở Phú Yên có các sông chính sau:
 Sông Ba
Sông Ba còn gọi là Eapa ở thượng lưu và sông Đà Rằng ở hạ lưu, đây là con
sông lớn nhất miền Trung, diện tích lưu vực là 13.220 km
2
, chủ yếu tập trung ở Gia
Lai, Kon Tum, Đak Lak, phần diện tích ở Phú Yên chỉ có 2.420 km
2
chiếm 18,3%.
Toàn sông dài 360 km, phần trong tỉnh dài 90 km chiếm 25%.
Sông Ba bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Rô cao trên 1500 m, thuộc đòa phần tỉnh
Kon Tum. Từ thượng nguồn tới gần An Khê sông chảy theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam, sông chính và sông nhánh chảy qua đòa hình núi non hiểm trở, chia cắt mạnh
lòng sông hẹp, lắm thác ghềnh, độ dốc dòng sông lớn 20%.
Từ An Khê đến Cheo Reo (Hậu Bồn) lòng sông mở rộng dần, khi đến thung
lũng Cheo Reo, lòng sông hạ thấp, nhận thêm nước ở phụ lưu lớn AynPa đổ vào bờ
bên phải sông chính tại Cheo Reo.
Từ Cheo Reo đến thò trấn Củng Sơn, sông chảy theo hướng Tây Bắc – Đông
Nam được nhận thêm nước ở các phụ lưu chính: sông Cơrông Hơnâng, diện tích 1.750
km
2
, dài 130 km đổ vào bên phải sông Ba tại biên giới Gia Lai – Phú Yên, sông Hinh
diện tích 996 km
2
, dài 85 km phát nguồn từ vùng núi cao Chư Mu 2051 m, đổ vào phía
phải sông Ba tại Đức Bình – Sơn Hòa. Vùng thượng nguồn sông Hinh là tâm mưa lớn
nhất so với các sông khác, nên có lượng nước bổ sung rất phong phú cho sông Ba
(1,58 tỉ m

3
). Ngoài ra còn có các sông nhánh nhỏ khác như: sông Cà Lúi, sông Tha
bên phải sông Ba.
13
Đoạn cuối cùng sông chảy theo hướng gần như Tây – Đông, nhưng từ Đồng Bò
ra đến biển Đông thì sông chuyển hướng hơi lệch về phía Bắc và đổ nước ra cửa Đà
Giang cạnh thò xã Tuy Hòa về phía Nam. Đoạn sông này còn nhận thêm nước của các
sông nhỏ như sông Con, sông Cát bên trái, sông Con, sông Đồng Bò bên phải. Lòng
sông chính khá rộng, độ dốc nhỏ khoảng 1‰, dọc theo sông là các dãy bồi rộng lớn,
hai bên sông là cánh đồng lúa phì nhiêu nhất miền Trung.
 Sông Bàn Thạch
Sông Bàn Thạch còn gọi là sông Bánh Lái ở đoạn phía trên và sông Đà Nông
ở phía gần biển.
Diện tích lưu vực sông Bàn Thạch là 590 km
2
, chiều dài sông chính là 68 km,
đứng thứ ba trong tỉnh, sau sông Ba và sông Kỳ Lộ. Sông gồm ba nhánh hợp thành là
suối Đá Đen, sông Trong (suối Thoại) và sông Mới.
Sông bắt nguồn từ dãy núi cao án ngữ phía Nam tỉnh phần thượng nguồn chảy
theo hường Nam, Bắc, gần như vuông góc với dãy núi Hòn Giữ – Đèo Cả. Sau đó
chuyển hướng Tây Nam – Đông Bắc, đến Đông Mỹ lại chuyển hướng theo Tây Bắc –
Đông Nam, đổ xuống cửa Đà Nông ra biển trong mùa lũ, nhưng trong mùa cạn dòng
chảy chuyển hướng theo Đông Nam – Tây Bắc đổ nước ra biển ở Phú Hiệp. Hướng
chảy của sông này khá đặc biệt so với sông khác.
Độ dốc ở thượng nguồn rất lớn 75‰, sau đó chảy ra vùng đồng bằng độ dốc
chỉ còn khoảng 2‰.
Sông Bánh Lái có diện tích lưu vực không lớn, nhưng vùng thượng nguồn cũng
là vùng mưa nhiều nhất trong tỉnh, nên gây ra lũ lụt nghiêm trọng cho vùng Nam Tuy
Hòa.
Trên sông đã có các công trình thủy lợi. Trạm bơm Nam Bình, đập Phú Hữu,

đập An Sang, hồ Đồng Khôn, hồ Hòn Dinh và các vò trí qui hoạch khác như đập Nước
Nóng, đập Đá Đen, hồ Mỹ Lâm, hồ Phước Giang.
 Sông Kỳ Lộ
Sông Kỳ Lộ còn gọi là sông La Hiêng ở thượng nguồn và sông Cái ở hạ lưu,
đây là sông lớn thứ hai trong tỉnh. Diện tích toàn lưu vực 1950 km
2
, phần trong tỉnh
1560 km
2
, chiều dài sông 102 km, phần trong tỉnh là 76 km.
Sông bắt nguồn từ dãy núi cao trên 1000 m ở phía Đông Nam tỉnh Gia Lai và
Tây Nam tỉnh Bình Đònh.
14
Đoạn ngoài tỉnh sông chảy theo hướng gần Bắc – Nam qua vùng núi cao hiểm
trở, lòng sông hẹp, độ dốc lớn hơn 30‰.
Từ biên giới tới Xuân Quang sông chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam,
lòng sông còn hẹp, độ dốc khoảng 10‰. Ở đoạn này sông nhận thêm nước của các
nhánh chính: Tiouan, Cà Tôn ở bên phải và nước Khe Cách, sông Gâm ở Bên Trái.
Từ Xuân Quang đến biển, sông chảy theo hướng gần Tây – Đông, song cũng
có các đoạn ngắn chuyển hướng khác nhau: từ Hà Bằng đến Mỹ Long chuyển hướng
về Đông - Nam, từ quốc lộ I, lòng sông lại chuyển hướng về Đông – Bắc, đổ nước ra
cửa biển Bình Ba. Trong đoạn này sông nhận thêm nước của các nhánh: suối Trà
Bươn, suối Cay, suối Đông Sa (Tà Hôn) bên phải, suối Hải Tim bên trái. Lòng sông
mở rộng, độ dốc giảm nhỏ chỉ còn 1‰. Trên sông đã có các công trình thủy lợi: hệ
thống Tam Giang, đập Hòn Cao, đập Triêm Đức, đập Cây Vừng, hồ Phú Hòa và theo
qui hoạch nhiều vò trí khác có thể xây dựng các công trình thủy lợi.
2.1.4 Khí hậu thủy văn đất liền
Đặc điểm khí hậu thuỷ văn Phú Yên được phân làm 3 vùng chính:
 Vùng khí hậu thủy văn phía Bắc (I)
Đây là vùng núi cao 50 m đến trên 1000 m thuộc Bắc huyện Sông Cầu và Tây

Bắc huyện Đồng Xuân. Vùng này có các đặc trưng sau:

+ Lượng mưa năm tương đối lớn từ 1700 ÷ 2000 mm. Số ngày mưa trong năm
trên 100 ngày. Lượng mưa mùa khô chiếm 25% cả năm.
+ Nhiệt độ không khí trung bình năm < 25
0
C. Tổng nhiệt độ năm dưới 9100
0
C.
+ Độ ẩm tương đối trung bình 83% ÷ 85%.
+ Lượng bốc hơi thực tế 950 mm/năm.
+ Lượng dòng chảy năm lớn trên 920 m
3
. Hệ số dòng chảy α ≈ 0,5 [9].
 Vùng khí hậu thủy văn ở giữa (II)
Phạm vi vùng (II) khá rộng từ biên giới phía tây sang phía đông giáp biển, bao
gồm thung lũng sông Ba và phần lớn các vùng trũng thấp hạ lưu các sông chính của
tỉnh. Do điều kiện khí hậu vùng này có khác biệt tương đối giữa phía đông và tây nên
chia vùng (II) thành hai á vùng là (II
1
) và (II
2
) với các đặc trưng sau:

+ Vùng (II
1
): là vùng đồi núi phía Tây
- Nhiệt độ thấp hơn á vùng (II
2
), nhiệt độ trung bình năm 25,5

0
C. Tổng nhiệt
độ năm 9310
0
C.
15
- Lượng mưa trung bình năm thấp nhất trong tỉnh 1460 mm. Lượng dòng
chảy thấp 560 m
3
. Hệ số dòng chảy α < 0,4.
- Lượng bốc hơi thực tế cao 900 mm/năm.
- Độ ẩm tương đối trung bình 82% ÷ 84%.
- Số ngày gió Tây khô nóng cao nhất tỉnh. Vùng Sơn Hòa là 83 ngày/năm.
+ Vùng (II
2
): bao gồm vùng đất phía Đông có ít đồi thấp, phần lớn là đồng
bằng và các cửa sông ven biển. Có các đặc trưng sau:
- Nhiệt độ trung bình năm cao nhất tỉnh 26,2
0
C. Tổng nhiệt độ năm 9560
0
C.
- Lượng mưa trung bình năm thấp 1640 mm. Lượng dòng chảy 704 m
3
, hệ số
dòng chảy α > 0,4 đều cao hơn á vùng (II
1
).
- Lượng bốc hơi thực tế cao 936 mm/năm.
- Độ ẩm tương đối trung bình 80%.

- Số ngày gió Tây khô nóng 34 ÷ 56 ngày/năm. Đây là vùng chòu ảnh
hưởng trực tiếp của bão, áp thấp nhiệt đới và lũ lụt nhất trong tỉnh [9].
 Vùng khí hậu thủy văn phía Nam tỉnh (III)
Đây là vùng núi cao từ 500 ÷ 1400 m, từ Tây Nam đến Vũng Rô chạy dọc biên
giới Phú Yên - Khánh Hòa. Có các đặc trưng khí hậu thủy văn như sau:
+ Lượng mưa trung bình năm rất lớn, cao nhất tỉnh 2060 mm. Lượng mưa mùa
khô chiếm 29% ÷ 30% lượng mưa năm. Có số ngày mưa cao trong năm 130 ngày.
+ Lượng dòng chảy dồi dào, trung bình 1510 m
3
. Hệ số dòng chảy α > 0,7.
+ Nhiệt độ trung bình năm thấp < 25
0
C.
+ Lượng bốc hơi thực tế thấp chỉ có 550 mm/năm. Do những đặc điểm trên
thường gây ra lũ lụt lớn ở hạ lưu các sông phía Nam tỉnh, nhất là sông Bàn Thạch nên
các đầm nuôi tôm ở hạ lưu sông Bàn Thạch thường bò ngập lụt, sạt lỡ vào mùa lũ, nên
thường chỉ nuôi tôm được một vụ trong năm [9].
2.1.5 Một số nét thủy văn vùng biển
 Hải lưu
Hoạt động của hải lưu hoạt động quanh năm ở bờ biển Đông theo chi phối của
chế độ gió mùa.
+ Thời kỳ gió mùa Đông Bắc: hải lưu chảy theo hướng Bắc - Nam, tốc độ dòng
chảy 50 ÷ 60 m/s (từ tháng XII đến tháng II năm sau), nhỏ nhất 25 m/s (tháng IV).
+ Thời kỳ gió mùa Tây - Nam: hải lưu chảy theo hướng Nam - Bắc, tốc độ
dòng chảy 30 ÷ 50 m/s và chảy sát bờ biển miền Trung.
+ Hoạt động của hải lưu tạo nên vùng “nước trồi” từ tháng IV đến tháng VIII,
từ mũi Đại Lãnh đến mũi Cà Ná. Vùng “nước trồi” đã ảnh hưởng đến vùng biển Nam
16
Phú Yên, cùng với dòng hải lưu mùa hè mang dòng nước ấm từ phía Nam lên tạo
thành vùng tập trung cá nổi rộng lớn [10].

 Thủy triều, độ mặn và nhiệt độ nước biển
+ Thủy triều vùng biển Phú Yên thuộc chế độ nhật triều không đều. Hàng
tháng có khoảng 20 ngày nhật triều. Biên độ thủy triều kỳ nước cường từ 1,2 ÷ 2,2 m,
kỳ nước kém từ 0,5 ÷ 1 m. Biên độ triều bò tiết giảm mạnh khi truyền vào trong sông,
đầm. Tuỳ theo đòa hình lòng sông và vò trí cách cửa biển, biên độ triều còn khoảng 0,2
÷ 0,5 m.
+ Nồng độ muối ngoài khơi ổn đònh cao từ 33,6‰ ÷ 34‰, vùng ven bờ
khoảng 31‰ ÷ 32‰. Càng vào xa cửa sông, cửa đầm nồng độ muối càng giảm. Tuỳ
đòa hình, độ dốc và thủy văn dòng sông độ mặn 1‰ có thể xâm nhập sâu vào cách
cửa biển khoảng 10 ÷ 15 km.
+ Nhiệt độ nước biển tầng mặt vào mùa hè khoảng 28 ÷ 29
0
C, vào mùa đông
khoảng 24,2 ÷ 25,5
0
C.
Vùng nước lợ trong cửa sông và đầm phá là nơi tranh chấp thủy động học giữa
sông và biển. Chúng biến động rõ rệt theo mùa, mùa mưa vùng tranh chấp đẩy ra gần
cửa sông và ngược lại. Do đó, vùng nước xa cửa biển biên độ thủy triều nhỏ, khả năng
thay nước tự chảy kém, độ mặn thấp cần chú ý bơm bổ sung nước, cải tạo môi trường
cho đầm tôm [10].
2.2 Tình Hình Dân Sinh Kinh Tế và Xã Hội Miền Biển
2.2.1 Tình hình dân sinh kinh tế
Sản xuất thủy sản phát triển, nhiều vùng ven biển đã giàu lên nhờ nuôi trồng
thủy sản, khai thác xa bờ, song bên cạnh đó cũng có những hộ nghèo không đủ điều
kiện để đầu tư ao nuôi tôm, cá, thuyền lớn đánh bắt xa bờ. Chẳng hạn: đầm Ô Loan
có 50% ao nuôi tôm không phải của dân sống quanh đầm. So với năm 1998 thu nhập
bình quân của đầu người năm 2004 tăng 4,7%, nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều hộ
nghèo do thiếu việc làm, do nguồn lợi thủy sản ven bờ suy giảm trong khi dân số và
cường độ khai thác tăng cao.

2.2.2 Tình hình xã hội miền biển
Đến năm 2004 chất lượng cuộc sống cộng đồng dân cư vùng biển từng bước
được cải thiện, bộ mặt xã hội ven biển không ngừng đổi mới, an ninh trật tự ổn đònh.
Trong đó có 26 (100%) xã, phường ven biển của tỉnh đã có điện, tỷ lệ số hộ dùng điện
chiếm trên 80%.
17
Hệ thống giáo dục phát triển nhanh cả về số lượng, qui mô, đa dạng hoá các
loại hình trường lớp: công lập, bán công, dân lập tư thục mẫu giáo; đến nay 100% xã,
phường ven biển của tỉnh đã có trường cấp I, nhà trẻ, lớp mẫu giáo.
Y tế xã là tuyến cơ sở có vai trò quan trọng trong việc chăm sóc sức khỏe ban
đầu và chữa trò cho nhân dân, qua điều tra 01/01/2001 100% xã phường ven biển đã có
trạm xá xã, bình quân có 0,007 bác só/100dân; 0,036 y só/100dân; 0,021 y tá/100dân.
Trong những năm qua mạng lưới y tế xã đã làm tốt công tác khám chữa bệnh cho
nhân dân, vừa kết hợp thực hiện tốt chương trình tiêm chủng mở rộng, bảo vệ và chăm
sóc bà mẹ trẻ em. Tuy nhiên, số bác só, y só bình quân trên 100 dân còn quá thấp,
trang thiết bò y tế còn nghèo nàn.
Mạng lưới bưu điện ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Hầu hết
các xã đã có bưu điện văn hoá xã, góp phần tạo điều kiện cho nhân dân trao đổi thông
tin, mở rộng kiến thức văn hoá, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh…
Ngư dân vùng biển trong những năm qua đã tham gia thực hiện tốt các chính
sách của Đảng, chấp hành tốt pháp luật của nhà nước và hương ước làng xã. Trật tự an
ninh vùng biển ổn đònh.
Nhìn chung vấn đề dân trí, an ninh trật tự, văn hóa miền biển đã được nâng lên
từng bước trong những năm qua, song vẫn còn nhiều bất cập… Do đó, muốn giảm được
sự cách biệt đời sống giữa thành thò và nông thôn thì các giải pháp tăng thu nhập phải
đi đôi với giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cộng đồng ngư
dân vùng biển đảo tỉnh nhà [10].
2.3 Thực Trạng Tình Hình Khai Thác các Vùng Nước
2.3.1 Vùng nước ngọt
Với trên 2600 km sông dốc, hẹp và khoảng 10.000 ha mặt nước, trong đó 7.874

ha của 53 hồ chứa, vào mùa mưa lũ thường bò ngập lụt, vào mùa khô thường cạn.
Trong những năm từ 1991 - 1998 do việc khai thác bừa bãi (dùng chất nổ, rà điện,
chất độc,…) làm cho nguồn lợi thủy sản cạn kiệt, chưa được tái tạo nên sản lượng khai
thác hàng năm ngày càng thấp. Bắt đầu từ năm 1999 đến năm 2002 do tỉnh chú trọng
hơn trong việc tái tạo nguồn lợi, nhất là từ khi có dự án thủy điện hồ Sông Hinh kèm
theo việc thả cá giống xuống lòng hồ làm cho nguồn lợi thủy sản trong những năm
gần đây ngày càng phong phú, sản lượng khai thác cá ngày càng tăng. Cụ thể năm
1999 sản lượng khai thác được 80 tấn/năm chiếm 0,30% tổng sản lượng khai thác;
nhưng đến năm 2002 sản lượng khai thác được 420 tấn/năm chiếm 1,38% tổng sản
lượng, tăng bình quân 74%/năm. Hơn nữa, xây dựng hồ thủy điện Sông Hinh (huyện
Sông Hinh); đập Đồng Cam (huyện Phú Hòa), đập ngăn mặn Tam Giang, Hà Yến
(huyện Tuy An) đã ảnh hưởng đến quá trình di cư của quần thể cá chình [10].
18
2.3.2 Vùng nước lợ
Gồm các đầm, vònh, cửa sông ven biển với diện tích gần 21.000 ha mặt nước,
là vùng sinh thái đặc thù, nguồn lợi thủy sản phong phú, đa dạng với nhiều đối tượng
thủy đặc sản.
Trong những năm 1998 do lượng tàu thuyền nhỏ phát triển mạnh, khai thác ở
vùng nước lợ là chủ yếu kết hợp với việc khai thác mang tính hủy diệt môi trường như:
khai thác các rạn san hô, khai thác bằng chất nổ, rà điện, chất độc,… làm cho nguồn lợi
thủy sản gần bờ bò suy giảm, nên sản lượng khai thác hàng năm thấp cụ thể năm 1998
sản lượng khai thác chỉ đạt 150 tấn chiếm 0,61% so với tổng sản lượng, với năng suất
bình quân 0,11 tấn/LĐ.
Trong giai đoạn từ năm 1999 - 2002 ngành thủy sản đòa phương đã chú trọng hơn
trong việc tái tạo nguồn lợi bằng cách tuyên truyền cho ngư dân hiểu các chủ trương của nhà
nước về việc cấm khai thác các rạn san hô, rà điện, chất nổ, chất độc,… Đồng thời chú trọng
tới việc thả tôm tái tạo nguồn lợi. Mặt khác, một số ngư dân mạnh dạn đóng tàu khai thác xa
bờ, nhờ đó giảm cường độ khai thác ven bờ làm cho nguồn lợi gần bờ ngày càng được phục
hồi. Vì vậy, sản lượng khai thác trong những năm gần đây tăng mạnh. Cụ thể năm 2002 sản
lượng khai thác được 402 tấn chiếm 1,32% so với tổng sản lượng và năng suất bình quân đạt

0,26 tấn/LĐ [10].
2.3.3 Vùng biển
Tàu thuyền Phú Yên khai thác tập trung ở vùng biển có diện tích 6.900 km
2
.
Diện tích vùng ven bờ (độ sâu < 50 m) chiếm 11,75%. Tổng trữ lượng hải sản có khả
năng khai thác khoảng 32.000 tấn/năm (gồm tôm, mực, cá, thủy sản khác).
Năm 1998 do lực lượng tàu thuyền có công suất lớn còn ít, trang thiết bò còn
lạc hậu (số lượng tàu thuyền có máy tầm ngư, đònh vò, bộ đàm không đáng kể), một số
nghề còn mới nên thiếu kinh nghiệm đánh bắt, sản lượng khai thác được trong năm
1998 đạt 24.292 tấn chiếm 99,31% tổng sản lượng trong đó năng suất bình quân đạt
0,42 tấn/CV và 1,45 tấn/ LĐ.
Nhìn chung từ năm 1999 - 2002 tình hình khai thác thủy sản Phú Yên đang có
những chuyển biến tích cực, chuyển đổi từ nghề lộng sang nghề khơi, tăng quy mô công
suất tàu thuyền để di chuyển ngư trường ngoài tỉnh và ra xa bờ, làm cho sản lượng khai
thác trong giai đoạn này tăng nhanh cụ thể năm 2002 sản lượng khai thác được 29.549
tấn chiếm 97,29% tổng sản lượng, năng suất bình quân đạt 0,34 tấn/CV và 1,3 tấn/LĐ.
Tốc độ tăng trưởng bình quân từ năm 1999 đến năm 2002 là 4%/năm. Tuy năng suất
bình quân trên CV và trên 1 lao động giảm hơn so với năm 1998, nhưng do việc đánh
bắt xa bờ nên sản phẩm thu hoạch được có giá trò lớn hơn rất nhiều so với sảm phẩm
19
khai thác được trong năm 1998. Do đó, giá trò sản phẩm thu hoạch được cũng lớn hơn
nhiều, làm cho đời sống của ngư dân ngày càng được cải thiện [10].
2.4 Năng Lực Khai Thác Hải Sản
2.4.1 Tàu thuyền
Tổng số tàu thuyền máy năm 2002 là 3.801 chiếc với tổng công suất 88.150
CV. Bình quân công suất tàu thuyền 23,19 CV/chiếc, so với bình quân công suất năm
1999 tăng 4,16 CV/chiếc. Tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn từ năm 1999 đến năm
2002 về số lượng tàu thuyền là 3%, về công suất là: 10%.
Cơ cấu tàu thuyền máy năm 2002 có tỷ lệ như sau:

+ Loại nhỏ hơn 10 có: 928 chiếc, chiếm 24,41%; giảm bình quân 2,2%/năm.
Đây là xu thế phù hợp với chủ trương đánh bắt hải sản.
+ Loại 10 CV – 29 CV có: 1.609 chiếc, chiếm 42,33%; tăng bình quân
1,3%/năm. Chứng tỏ ngư dân vẫn còn đầu tư nghề khai thác ven bờ, nhà nước không khuyến
khích phát triển nghề này.
+ Loại 46 CV – 59 CV có: 245 chiếc, chiếm 6,45%; tăng bình quân 5,46%/năm.
+ Loại 60 CV < 90 CV có: 110 chiếc, chiếm 2,89%; giảm bình quân 0,9%/năm.
+ Loại > 90 CV có: 199 chiếc, chiếm 5,24%; tăng bình quân 57,4%/năm.
Qua cơ cấu tàu thuyền ta thấy đối với tàu thuyền có công suất nhỏ hơn 10 CV
ngày càng giảm mạnh, còn tàu thuyền có công suất trong dãy 60 CV đến < 90 CV thì
giảm do một số tàu trong dãy công suất này đủ điều kiện cải hoán thay đổi máy công
suất lớn hơn để có hướng vươn ra khơi xa. Chính vì vậy, tàu thuyền trong dãy công
suất > 90 CV tăng rất nhanh.
Đối với tàu thuyền thủ công năm 2002 có 2.030 chiếc, trong đó các tàu thuyền
này khai thác chủ yếu ở vùng nước lợ (1.433 chiếc), vùng nước ngọt (254 chiếc) và
vùng ven biển (343 chiếc) [10].
2.4.2 Nghề nghiệp khai thác hải sản
Phú Yên có trên 20 nghề khai thác thủy sản, tên gọi đòa phương khác nhau
theo đối tượng khai thác, hình thức ngư cụ, đặc điểm khai thác,…
Tuy nhiên, chúng được phân thành 6 nhóm nghề chính. Cơ cấu nghề khai thác
năm 2002 như sau:
+ Họ lưới kéo: 695 chiếc, chiếm 11,92%.
+ Họ lưới vây: 167 chiếc, chiếm 2,86%.
+ Họ lưới vó: 1.870 chiếc, chiếm 32,07%.
20
+ Họ lưới rê: 2.252 chiếc, chiếm 38,62%.
+ Họ lưới câu: 416 chiếc, chiếm 7,13%.
+ Họ lưới khác: 431 chiếc, chiếm 7,39%.
Sự chuyển đổi nghề nghiệp đang diễn ra theo xu thế giảm cơ cấu các nghề
khai thác thủy sản ven bờ tăng các nghề khai thác khơi. Giảm các nghề khai thác ảnh

hưởng đến môi trường sinh thái như nghề lưới kéo, tăng các nghề khuyến khích phát
triển như nghề: câu khơi, vây khơi, rê khơi [10].
2.5 Lao Động Khai Thác Thủy Sản
Tổng số lao động khai thác thủy sản toàn tỉnh năm 2002 là: 24.702 người/10.730
hộ tăng 13% về số lao động và 20% về số hộ so với năm 1999; tốc độ tăng bình quân năm
là: 4,2% về số lao động và 6,3% về số hộ. Trong đó lao động vùng biển 22.699 người; lao
động vùng nước lợ 1.576 người/1.433 hộ, chiếm 6,4% về số lao động và 13,4% về số hộ;
lao động vùng nước ngọt 457 người/254 hộ, chiếm 1,9% về số lao động và 2,3% về số hộ.
Tình hình phân bố lao động trong năm 2004 tại các huyện, thò như sau:
+ Huyện Sông Cầu: số lao động khai thác 8.890 người trên 3.682 hộ, chiếm
36% về số lao động và 34,3% về số hộ.
+ Huyện Tuy An: số lao động khai thác 8.247 người trên 3.196 hộ, chiếm
33,4% về số lao động và 28,9% về số hộ.
+ Thò Xã Tuy Hòa: số lao động khai thác 2.912 người trên 1.160 hộ, chiếm
11,8% về số lao động và 10,8% về số hộ.
+ Huyện Tuy Hòa: số lao động khai thác 4.448 người trên 2.528 hộ, chiếm
18% về số lao động và 23,6% về số hộ.
Trình độ nghề nghiệp khai thác thủy sản nhìn chung đã nâng cao, tích luỹ kinh
nghiệm nhiều về khai thác xa bờ, cụ thể số lượng tàu dùng trang thiết bò hiện đại như:
tầm ngư, đònh vò, bộ đàm ngày càng nhiều, số lượng ngư dân có bằng thuyền trưởng,
máy trưởng ngày càng tăng [10].
21
2.6 Một Số Đặc Điểm Sinh Học của Cá Chình
2.6.1 Đặc điểm hình thái
Thân cá chình dài, phần trước hình ống, phần sau hơi dẹp. Đầu dài và nhọn,
mắt bé, miệng rộng và ở phía trước. Hàm dưới và hàm trên có răng nhỏ xếp thành
hình đai. Lổ mang nhỏ ở phía dưới gốc vây ngực. Vảy rất bé xếp như hình chiếc chiếu
và dấu dưới da.
Có vây ngực và vây lưng, vây hậu môn dài và nối liền với vây đuôi. Trên thân
không có hoa văn, lưng có màu nâu sẫm, bụng màu trắng.

Cá chình có 2 lỗ mũi, lỗ trước ở phía trước miệng, lỗ sau ở phía trước mắt, khi
cá chui xuống bùn thì mũi đóng lại để bùn không chui vào. Do đời sống ở hang hốc
dưới đáy sông hồ nên mắt nhỏ, cơ quan đường bên đều phát triển.
Da gồm có biểu bì, bài tiết làm giảm bớt lực cản trong nước, tăng tốc độ bơi lội
và giảm ma sát khi chui vào hang, niêm dòch cá tiết ra còn có tác dụng bảo vệ thân cá
khi gặp môi trường không thích hợp [8].
2.6.2 Đặc điểm sinh thái
2.6.2.1 Tính ăn
Cá chình là loài cá ăn thòt. Ở giai đoạn cá giống chủ yếu ăn luân trùng, giun ít
tơ, ấu trùng côn trùng, cũng ăn các loại ốc, hến,… mảnh vụn hữu cơ. Khi cá nặng
khoảng 5 g cá mới bắt đầu đuổi bắt mồi ăn cá con, tôm con, xác các động vật chết, lúc
thiếu thức ăn chúng tranh cướp thức ăn lẫn nhau.
Khi nhiệt độ nước trên 12
0
C bắt đầu bắt mồi, nhiệt độ 24 ÷ 30
0
C ăn khoẻ và ăn
nhiều. Lượng thức ăn chiếm 10 ÷ 15% trọng lượng thân.
Nuôi nhân tạo cho thức ăn tổng hợp gồm các thành phần: bột ngô, cám, khô
dầu, bột cá, các chất vô cơ, vitamine,… ngoài ra còn ăn thức ăn cá tươi [8].
2.6.2.2 Sinh trưởng
Ngoài tự nhiên, nguồn thức ăn không ổn đònh và đầy đủ nên cá lớn chậm. Mùa
xuân năm thứ nhất dài 6 cm, nặng 0,1 g; năm thứ hai dài 15 cm, nặng 5 g; năm thứ ba
dài 25 cm, nặng 15 g; năm thứ tư mới đạt cở thương phẩm.
Nuôi ở ao năm thứ nhất nuôi từ 0,1 g đến 20 g. Nuôi trong ao nước ấm có dòng
chảy cá lớn nhanh, trọng lượng cở 0,1 g sau 10 - 12 tháng đạt 150 g [8].
22
2.6.2.3 Sinh sản
Cá chình sống ở nước ngọt, di cư ra biển để sinh sản. Sống ở nước ngọt, tuyến
sinh dục của nó không thể thành thục, hàng năm đến mùa thu cá bố mẹ kết đàn từ

sông hồ ra biển. Trong hành trình di chuyển tuyến sinh dục chín dần, cuối cùng đến
bãi đẻ ở ngoài biển sâu đẻ trứng. Trứng nở ra ấu trùng hình lá rồi chuyển sang ấu
trùng dạng Kính Leptocephalus và sau đó là dạng chình (17 – 75 mm). Càng lớn màu
sắc của cá chình con càng đậm lên theo màu sắc của cá chình trưởng thành. Hàng năm
cuối đông đầu xuân cá con tập trung ở vùng cửa sông di cư vào vùng nước ngọt và
sinh trưởng ở đó (Đặng Trung Thuận, 2000).
Ở đầm Châu Trúc (Bình Đònh) cá chình nhọn (Anguilla malgumora) di cư trước,
sau đó đến cá chình mun (A. bicolor Schmidt, 1928) cuối cùng là cá chình hoa (A.
marmorata). Thời gian di cư của các loài trên ứng với mùa mưa, vào những đêm tối
trời có gió mùa Đông - Bắc với cấp gió 5 - 6 trở lên từng đàn cá chình rời bỏ nơi cư trú
tìm đường ra biển đẻ (Nguyễn Hữu Dực - Nguyễn Văn Hảo, 1996).
Cá chình sinh trưởng trong nước ngọt, bình thường cá sống ở sông, hồ và cửa
sông,… Khi tuyến sinh dục thành thục nó di cư ra biển để đẻ, đẻ xong cá mẹ chết.
Có người cho rằng cá đực thành thục vào năm 3 - 4 tuổi, cá cái 4 - 5 tuổi; sống
ở nước ngọt 6 - 7 năm có nơi nuôi được 37 năm, thậm chí cá chình có thể sống 50 năm.
Ở Nhật Bản bắt được con cá dài 129,7 cm, nặng 5,1 kg.
Cá bố mẹ thành thục khi thấy vây ngực, vây lưng, vây hậu môn có màu đen
ánh bạc, có con phía bụng có màu đỏ hồng nhạt, gốc vây ngực có màu vàng kim tức là
màu “áo cưới”.
Nhìn chung, con cái lớn đến 2 - 3 kg, con đực 1 kg. Tuyến sinh dục phát triển
nhất là vào tháng 10 - 11. Mổ bụng lật ruột và bong bóng sẽ thấy tuyến sinh dục nằm
hai bên cột sống từ vây ngực cho đến hậu môn. Hàng năm cá bố mẹ thành thục từ
tháng 9 - 12 ở sông ngòi, sẽ di cư ra biển sau khi xuống biển lúc này tuyến sinh dục
mới phát dục chín.
Cá chình hoạt động ban đêm sợ ánh sáng, di cư nhanh ban ngày núp trong các
khe đá, hang hốc hay nằm im dưới đáy, những đêm trăng sáng không di cư, chỉ có
những đêm tối trời, đặc biệt là lúc mưa to cá tập trung thành đàn từ cửa sông đi ra
biển, đã đi là không trở lại nữa.
Mỗi ngày cá đi được 8 - 32 hải lý (1 hải lý bằng 1852 m) nếu môi trường thích
hợp có thể đi 30 - 60 hải lý đó là năng lực thích ứng để bảo tồn nòi giống.

23
Nhìn chung, trong thời gian đi đẻ cá không bắt mồi hay giảm lượng bắt mồi rất
lớn, lúc này ống tiêu hóa của cá thoái hoá, gan nhỏ lại, hàm lượng mỡ trong thòt giảm
thấp những chất dinh dưỡng tích luỹ trong gan, mỡ,… cung cấp hết cho sự thành thục
của tuyến sinh dục.
Hàng năm từ tháng 2 - 7 ở bãi đẻ xuất hiện ấu trùng hình lá rất bé mà mùa
khác không thấy, bởi vậy suy ra mùa đẻ của nó từ đầu xuân cho đến giữa hè (khoảng
tháng 5). Một con cá mẹ có thể đẻ 700 vạn đến 1300 vạn trứng.
Đường kính trứng khoảng 1 mm, nhờ có hạt mỡ trong trứng nên trứng nổi lơ
lửng theo dòng nước cá nở tự nhiên. Trong 10 ngày sau khi nở sống bằng noãn hoàng,
cá dài 6 mm.
Cá con nở ra bơi dần lên mặt nước, cá dài 7 - 13 mm ở độ sâu 100 - 300 m, cá
lớn dần bơi lên tầng trên khoảng 30 m, có hiện tượng phân bố thẳng đứng ngày đêm,
ban ngày ở tầng nước 30 m, ban đêm lên tầng mặt.
Cá bột có hình dáng giống chiếc lá gọi là ấu trùng lá liễu, sức đề kháng yếu,
hình dẹp có thể uốn cong được nên giảm được ma sát xung quanh. Vì vậy, dễ bò nước
cuốn đi trôi dạt vào các cửa sông.
Khi ấu trùng dạt vào ven bờ, do kích thích của môi trường mới bắt đầu biến
thái thành ấu trùng trong suốt, vì vậy gọi là cá bột “bạch tử “ (cá bột trắng) và từ chỗ
bò động di cư chuyển dần thành chủ động, sau đó cá bột trắng xuất hiện các sắc tố
đen, gọi là cá bột “hắc tử “ (cá bột đen).
Sau khi cá biến thái thành cá bột trắng, bắt đầu di cư vào các cửa sông và
ngược lên các sông. Thời gian di cư vào sông thường vào mùa đông đến mùa xuân.
Nếu mùa đông nhiệt độ nước dưới 8
0
C thì cá bột nằm lại ở cửa sông ven biển chui
trong các khe đá hay đáy sông, chờ đến khi điều kiện thích hợp mới ngược sông. Do
mùa Đông nhiệt độ nước sông thấp hơn nhiệt độ nước biển ven bờ cho nên khi nước
sông lên cao gần với nước biển thì cá bột ngược sông lên sống ở sông, hồ [8].
2.6.3 Đặc điểm sinh thái sinh lý

2.6.3.1 Tính thích ứng với ánh sáng
Cá chình không thích ánh sáng mạnh, cá bột vào sông vào ban đêm, ban ngày
nằm dưới đáy, ban đêm ngoi lên, cá phân bố theo chiều thẳng đứng. Ở ngoài thiên
nhiên ban ngày núp nơi tối, ban đêm bơi ra kiếm ăn, nuôi ở trong ao cá cũng thích ở
nơi tối, bởi vậy khi nuôi cá chình nơi cho ăn phải che đậy tránh ánh sáng.
24
Cá bột trắng tuy không thích ánh sáng mạnh nhưng ánh sáng yếu nó lại có tính
hướng quang, tuỳ theo sự lớn lên của nó có tính hướng quang cũng giảm dần và mất
đi. Vì vậy, khi vớt cá bột hay thuần dưỡng dùng ánh sáng mờ dụ cá lại một chỗ có thể
nâng cao sản lượng đánh bắt [8].
2.6.3.2 Tính thích ứng với nhiệt độ
Cá chình thuộc loài cá ôn nhiệt. Nhiệt độ thân cá bằng với nhiệt độ môi
trường, ở 38
0
C là giới hạn cao thích hợp. Khi nhiệt độ tầng mặt vượt ngưỡng trên thì cá
bơi về chỗ nước sâu hay chui vào bùn nơi có nhiệt độ thấp hơn.
Khi nhiệt độ dưới 5
0
C năng lực bơi lội giảm đi và ở trạng thái ngủ đông. Ở 25 -
30
0
C là nhiệt độ thích hợp nhất, cá lớn nhanh. Khi quá 30
0
C cá bắt mồi ổn đònh, lượng
thức ăn giảm.
Khả năng thích ứng nhiệt độ ởù cá bột kém nên khi vận chuyển cũng như thả cá
nhiệt độ không được chênh nhau quá 4
0
C.
2.6.3.3 Sự thích ứng với nước chảy


Đời cá chình liên quan mật thiết với dòng nước chảy, cá bố mẹ khi đến tuổi
thành thục xuôi dòng di cư ra biển để đẻ trứng. Cá bột sau khi biến thái thành ấu trùng
hình lá trôi theo dòng hải lưu và thủy triều, sau khi biến thái thành cá bột trắng mới di
cư vào nước ngọt, ngược lên thượng lưu, cần một ít nước chảy là vượt qua đồng ruộng
hay bãi cỏ thậm chí có vách đứng cá bột cũng có thể vượt qua. Ở giai đoạn cá con cá
thích ngược dòng nước, ở gần cống có dòng nước ngọt chảy cá tập trung nhiều thích
hợp cho đánh bắt. Trong các ao nuôi khi có dòng nước mới cả đàn cá ngược dòng nước
bơi đến, thậm chí ở vách đứng ở ao có dòng nước chảy vào cả đàn cá nhao nhao đến.
Vì vậy, khi nuôi cá phải hết sức lưu ý đến nước chảy vào. Khi cá lớn dần thì tập tính
trên cũng giảm đi [8].
2.6.3.4 Tính thích ứng với độ muối
Trong đời sống cá chình phần lớn thời gian sống ở nước ngọt nhưng khi cá bố
mẹ ra biển đẻ thì lại thích ứng với nước biển có nồng độ muối cao 35‰.
Khi nồng độ muối thay đổi mạnh, cá có khả năng điều tiết áp lực thẩm thấu
của cơ thể. Khi cá bột trắng từ nước biển ngược dòng vào sông, nơi nào có dòng nước
ngọt chảy mạnh thì cá bột tập trung để ngược dòng sông nhiều [8].
25

×