Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.61 KB, 70 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản
xuất mang tính xã hội hoá ngày càng cao, các lĩnh vực của đời sống xã hội đều
rất phát triển như kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học- kỹ thuật…Sự phát triển
đó đều xuất phát từ việc thoả mãn nhu cầu của con người, hay nói cách khác con
người là trung tâm của sự phát triển xã hội. Trên thế giới hiện nay, phụ nữ chiếm
gần nửa dân số, là một lực lượng lao động to lớn, góp phần rất quan trọng vào
việc xây dựng gia đình và đất nước, thúc đẩy sự tiến bộ và phồn vinh trên trái
đất. Tuy nhiên, chưa ở nước nào phụ nữ thực sự được hoàn toàn bình đẳng, chị
em vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi so với nam giới và ở nhiều nơi phụ nữ vẫn còn
bị áp bức, bóc lột nặng nề.
Chính vì vậy, bình đẳng nam nữ một cách toàn diện, triệt để là lý tưởng mà
nhân loại đã theo đuổi hàng nhiều thế kỷ. Đầu thế kỷ XIX, nhà tư tưởng xã hội chủ
nghĩa không tưởng Pháp S.Phuriê đã cho rằng: Trình độ giải phóng phụ nữ là thước
đo trình độ phát triển của xã hội. Luận điểm này tiếp tục được khẳng định trong
học thuyết Mác ngay từ khi nó ra đời và phát triển ở trình độ mới cao hơn trong các
giai đoạn tiếp theo. Những quan điểm trên đã cổ vũ cho nhiều phong trào đấu tranh
đòi quyền bình đẳng giữa nam và nữ, trở thành một trong những mục tiêu phấn đấu
của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Phải nói rằng đây là một thực trạng đã và đang diễn ra mang tính toàn cầu,
trong đó Việt Nam không phải là ngoại lệ. Bộ văn hoá, thể thao và du lịch Việt Nam
đã chỉ ra một trong năm tồn tại yếu kém của ngành năm 2008, đó là: tình trạng bạo
lực gia đình, bạo lực đối với người già, phụ nữ và trẻ em gây nhức nhối công luận
(theo báo thể thao hàng ngày số ra ngày 25/12/2008).

1
Có thể nói vấn đề đấu tranh giải phóng cho phụ nữ là một trong những vấn đề
vô cùng quan trọng không những đối với xã hội mà nó còn là vấn đề bức xúc trong
gia đình Việt Nam nói chung và gia đình ở tỉnh Sơn La nói riêng.


Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình có tốt thì xã hội mới ổn định và
phát triển. Chính vì vậy, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì điều quan trọng
nhất là phải thấy được vị trí, vai trò của gia đình và có những biện pháp hữu hiệu
để ngăn chặn những yếu tố trực tiếp tác động đến sự bền vững của gia đình.
Trong đó bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một nội dung quan trọng mà chủ
nghĩa xã hội cần quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt, ở Việt Nam, trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, vấn đề này phải được quan tâm, nghiên cứu để đưa ra
giải pháp khắc phục triệt để tận gốc rễ sâu xa của nó. Phải đi vào nghiên cứu
thực trạng ở từng cơ sở, địa phương, để đưa ra giải pháp phù hợp với đặc điểm
của từng địa phương.
Sơn La là một tỉnh miền núi phía Bắc với 12 dân tộc anh em cùng chung
sống. Hiện nay, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở đây ngày càng được
nâng cao nhưng mặt bằng dân trí vẫn còn thấp và phát triển không đều. Nhiều quan
niệm, tư tưởng phong kiến, nhất là tư tưởng “trọng nam khinh nữ” vẫn chưa được
xoá bỏ. Họ vẫn phải chịu thiệt thòi cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, vẫn phải chịu
sự bất bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong gia đình. Đặc biệt
là tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ đang gây nhiều bức xúc trong
tỉnh Sơn La. Với những lý do nêu trên, tôi đã chọn đề tài: “Tình trạng bạo lực gia
đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp” làm khoá luận tốt
nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ là một biểu hiện của bất bình đẳng giới
và với tính chất là một sự sai lệch chuẩn mực xã hội. Vì thế, nó đã thu hút được
nhiều nhà khoa học, xã hội học, phụ nữ học trên thế giới quan tâm nghiên cứu từ
những năm 60 của thế kỷ XX.

2
Ở Việt Nam, vấn đề bạo lực trong gia đình bắt đầu được quan tâm nghiên
cứu từ những năm 90 của thế kỷ XX. Sau Hội nghị quốc tế về bạo lực trên cơ sở
giới tổ chức ở Bali năm 1993 và Hội nghị quốc tế về phụ nữ lần thứ 4 tổ chức tại

Bắc Kinh năm 1995,“bạo lực trong gia đình” đã được khẳng định là một chủ đề
quan trọng trong nghiên cứu xã hội phục vụ cho công cuộc phát triển. Trên cơ sở
định nghĩa của Liên hợp quốc về bạo lực đối với phụ nữ, các nghiên cứu về bạo
lực gia đình của Việt Nam đã đưa ra nhiều phân loại khác nhau về các hành vi
bạo lực trong gia đình. Trong đó hầu hết các nghiên cứu đều đề cập đến hành vi
bạo lực về thể chất với các tên gọi khác nhau như ngược đãi thân thể (Vũ Mạnh
Lợi và cộng sự, 1999), hay bạo hành thể xác (Lê Phương Mai, 2000; Nguyễn
Thị Hoài Đức, 2001), hay cưỡng bức thân thể (Bùi Thu Hằng, 2001). Bên cạnh
đó các tác giả này cũng đề cập đến các hành vi bạo lực về tâm lý, tinh thần, tình
cảm và tình dục. Ngoài ra, nghiên cứu của Lê Thị Quý (2000) và Lê Ngọc Văn
(2004) phân loại bạo lực thành hai loại là bạo lực nhìn thấy được và bạo lực
không nhìn thấy được…Nhìn chung các nghiên cứu đều đưa ra kết luận rằng gốc
rễ của nạn bạo lực trên cơ sở giới là sự bất bình đẳng và quan hệ giới.
Cuốn “Bạo lực gia đình - một sự sai lệch giá trị” của Lê Thị Quý - Đặng
Vũ Cảnh Linh, NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 2007 tập trung nghiên cứu tình
trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, những nguyên nhân
và hậu quả của bạo lực gia đình và đặc biệt là công tác phòng chống bạo lực gia
đình - những bài học kinh nghiệm của Việt Nam.
Cuốn “Bình đẳng giới ở Việt Nam” của Trần Thị Vân Anh - Nguyễn Hữu
Minh (chủ biên), NXB khoa học xã hội, Hà Nội, 2008 đã góp phần nghiên cứu
về vấn đề bạo lực gia đình ở Việt Nam dưới góc độ giới, đồng thời dành hẳn một
chương để đưa ra những quan niệm chung nhất về bạo lực gia đình và làm rõ các
yếu tố tác động đến hành vi bạo lực.
Ngoài ra, còn rất nhiều giáo trình, luận văn, luận án hay các tạp chí thông
tin khoa học về phụ nữ có đăng các báo cáo phân tích và đánh giá về vấn đề bình
đẳng giới và bạo lực gia đình đối với phụ nữ.

3
Như vậy, có thể thấy vấn đề bạo lực trong gia đình đã được nhiều nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện đề tài này tác giả đã

tiếp thu được rất nhiều luận điểm cho đề tài của mình. Tuy nhiên tác giả nhận
thấy ở mỗi công trình trên vẫn còn một số vấn đề chưa được đề cập hoặc đề cập
chưa sâu, đặc biệt là việc khắc phục vấn đề bạo lực trong gia đình đối với phụ
nữ. Cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt nào với đề
tài này, tác giả chọn đề tài này vì muốn chỉ ra thực trạng bạo lực gia đình ở Sơn
La để từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp để khắc phục và góp phần vào công
cuộc giải phóng phụ nữ nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là trên cơ sở những quan điểm lý luận về
vấn đề giải phóng phụ nữ để làm rõ thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ
ở tỉnh Sơn La và đề ra phương hướng cũng như giải pháp nhằm ngăn chặn tình trạng
bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình nhằm giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng
nam nữ đáp ứng sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở tỉnh Sơn La.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là trình bày hệ thống cơ sở lý luận về vấn
đề bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ; làm rõ thực trạng vấn đề bạo lực đối với
phụ nữ trong gia đình trên địa bàn tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay. Bên
cạnh đó, đề xuất những phương hướng và phân tích những giải pháp chủ yếu
nhằm thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ tiến tới bình đẳng nam nữ, xoá bỏ
tình trạng bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình ở tỉnh Sơn La, góp phần vào
công cuộc phòng chống bạo lực gia đình trong cả nước.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu ở tỉnh Sơn La giai đoạn 2005 - 2010, thực trạng và
giải pháp.
4.2. Đối tượng nghiên cứu

4
Đề tài đi sâu nghiên cứu thực trạng đồng thời đưa ra những phương hướng

và giải pháp nhằm ngăn chặn tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài là những lý luận nhận thức chung về gia đình và
bình đẳng giới của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng Cộng Sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử, các Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Sơn La để xem xét đánh giá về vấn
đề bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ ở Sơn La.
Đề tài sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, quy
nạp, diễn dịch, khái quát hoá…Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu tài liệu kết hợp điều tra xã hội học, hệ thống hoá, so sánh.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung của đề
tài gồm 3 chương.
Chương 1: Quan điểm tiếp cận cơ bản về bạo lực đối với phụ nữ trong
gia đình.
Chương 2: Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn
Tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay (2005 - 2010).
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm khắc phục tình trạng bạo lực
trong gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay.


5
CHƯƠNG 1
QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN CƠ BẢN VỀ BẠO LỰC ĐỐI VỚI
PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH
Phụ nữ chiếm một nửa dân số thế giới, ở Việt Nam, phụ nữ chiếm 50,8 % dân
số. Vấn đề đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ vừa là mục tiêu phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, vừa là đòi hỏi bức xúc của xã hội. Trong xu thế hội nhập và phát triển,
tư tưởng “Nam nữ bình quyền” hơn lúc nào hết đang được tôn trọng và thúc đẩy ở
Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về thực trạng này, trước hết chúng ta đi tìm hiểu một số

khái niệm, nội dung cơ bản liên quan đến vấn đề này.
1.1. Một số khái niệm
Theo PGS.TS.Lê Thị Quý ở trung tâm nghiên cứu giới và phát triển (Đại
học quốc gia Hà Nội) đã nói: “Khía cạnh bạo lực gia đình, một biểu hiện của bất
bình đẳng giới” [26;17]. Vì vậy, để hiểu bạo lực là gì? bạo lực đối với phụ nữ trong
gia đình như thế nào? Chúng ta cần làm rõ một số khái niệm sau.
1.1.1. Bình đẳng
Đã có rất nhiều quan điểm khác nhau về “bình đẳng”. Nhưng có lẽ hai
định nghĩa sau đây được nhiều người công nhận và sử dụng phổ biến:
Thứ nhất là theo từ điển Tiếng Việt: “Bình đẳng là sự ngang nhau về
quyền lợi và địa vị” [34;6]
Thứ hai là theo từ điển Chủ nghĩa xã hội khoa học: “Bình đẳng là những
điều kiện và những khả năng như nhau đối với việc tự do phát triển năng lực thoả
mãn các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội, địa vị
như nhau của mọi người trong xã hội” [28;10].

6
1.1.2. Bình đẳng giới
Bình đẳng giới là khái niệm biểu đạt sự đối xử như nhau của xã hội giữa
nam và nữ; là trạng thái (hay tình hình) xã hội trong đó phụ nữ và nam giới có vị
trí như nhau, có các cơ hội như nhau để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình.
Luật bình đẳng giới (2007) có viết: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí vai
trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự
phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của
sự phát triển đó” [24;9].
Bình đẳng giới là vấn đề không của riêng một quốc gia, dân tộc nào, mà nó là
vấn đề mang tính toàn cầu. Ở Việt Nam có biết bao tấm gương nữ anh hùng liệt sỹ ở
khắp mọi miền của Tổ quốc trong hai cuộc kháng chiến thần thánh (chống Pháp và
chống Mỹ) như: Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Thị Thập, Nguyễn
Thị Định…Bên cạnh đó, trên thế giới còn có rất nhiều “Những người phụ nữ làm

thay đổi thế giới” như mẹ Teresa được trao giải Nobel hoà bình năm 1979 vì sự
nghiệp hoạt động nhân đạo của bà. Đặc biệt phải kể đến Simone de beauvior với tác
phẩm “Giới thứ hai” (The second sex), bà đã trở thành mẹ đẻ của phong trào đòi
nam nữ bình quyền sau năm 1968, với câu nói nổi tiếng “Người ta sinh ra không là
phụ nữ mà là để trở thành phụ nữ…”.
Không chỉ vậy, trong gia đình, phụ nữ luôn là người vợ, người mẹ đảm
đang chịu thương chịu khó, thương yêu chồng con. Thế nhưng chưa ở nước nào,
người phụ nữ được thực sự bình đẳng. Ở nhiều nơi họ vẫn bị áp bức nặng nề,
thậm chí có nơi họ vẫn là nô lệ. Tình trạng này đặc biệt trầm trọng ở các nước
đang và chậm phát triển, nhất là các nước ở vùng Trung Đông, các nước theo
đạo Hồi…Trước tình hình đó, Liên hợp quốc ngay từ khi thành lập sau Đại
chiến thế giới lần thứ hai đã quan tâm đến vấn đề bình đẳng nam nữ. Hiến
chương của Liên hợp quốc tuyên bố: “Các dân tộc hợp thành liên hiệp quốc kiên
quyết khẳng định lại niềm tin vào các quyền cơ bản của con người, vào phẩm giá
con người” [7;54].

7
Hiện nay, Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống
lại phụ nữ (CEDAW) đã được 186 nước phê chuẩn, riêng Việt Nam đã ký công
ước từ năm 1980. Hiện nay, ở khu vực ASEAN đã có 8/10 quốc gia ban hành
luật và điều khoản liên quan đến bạo lực gia đình. Trong đó, Malaysia là nước
đầu tiên đưa ra luật này vào năm 1994, Việt Nam thông qua luật này vào năm
2007 và có hiệu lực thi hành từ 7/2008.
Nếu như bình đẳng giới là sự ngang bằng nhau về nghĩa vụ và quyền lợi
thì bất bình đẳng giới là sự không ngang bằng nhau về nghĩa vụ và quyền lợi.
Chúng ta có thể hiểu bất bình đẳng giới là sự phân biệt không công bằng trong
đối xử, hưởng thụ, trong kiểm soát và ra quyết định giữa nam và nữ…
Bất bình đẳng giới có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử, nó xuất hiện ngay
trong xã hội loài người. Hiện tượng này, bắt đầu cùng với sự chuyển đổi từ chế
độ mẫu hệ sang chế độ phụ quyền trên phạm vi toàn cầu, sau khi xác lập quyền

tư hữu. Sự bất bình đẳng giới được bắt đầu từ những mối quan hệ ruột thịt trong
gia đình, nên nó diễn ra có vẻ dễ dàng và hầu như không gặp sự phản kháng nào
từ phía nữ giới. Sự áp đặt về giới đã mang tính vô hình từ nhiều thế kỷ: “Có lẽ,
trong ba hình thức bất bình đẳng lớn nhất của lịch sử nhân loại (bất bình đẳng
chủng tộc, bất bình đẳng giai cấp, bất bình đẳng giới) thì bất bình đẳng giới
chính là nguồn gốc đích thực (về mặt lịch sử - xã hội) của mâu thuẫn cơ bản, chủ
yếu của quan hệ vật chất”[23;21].
Cho đến nay, lịch sử của sự phát triển xã hội loài người là lịch sử của các
cuộc đấu tranh nhằm xoá bỏ sự bất bình đẳng xã hội qua các cuộc khởi nghĩa vũ
trang, đấu tranh nghị trưởng, thay đổi thể chế chính trị, xã hội. Riêng bất bình
đẳng giới lại không thể giải quyết bằng các biện pháp nêu trên. Bất bình đẳng
giới là địa vị thấp kém của phụ nữ so với nam giới, là một trong những bất bình
đẳng xã hội. Do đó, đã làm xuất hiện những cuộc đấu tranh của phụ nữ giành
quyền bình đẳng đối với nam giới và phong trào vận động ủng hộ phụ nữ trong
cuộc đấu tranh đó. Thực tiễn đó làm nảy sinh các lý thuyết nữ quyền và lý
thuyết giới.

8
Theo như các nhà nghiên cứu về giới: “Giới và giới tính là hai khái niệm cặp
đôi, liên quan chặt chẽ với nhau. Trong tiếng anh giới là GENDER và giới tính là
SEX” [11;29]. Nó được thể hiện rõ hơn trong quan điểm của GS.Lê Thi: “Những
khác biệt về giới tính (sex) giữa đàn ông và đàn bà là những đặc điểm tự nhiên của
cơ thể con người và chức năng của nó là bẩm sinh và không thay đổi. Cần phân biệt
những khác biệt về giới (gender) là những đặc điểm có tính xã hội, lịch sử cụ thể
học tập được và luôn thay đổi” [29;83].
Giới ở đây chính là khái niệm khoa học ra đời từ môn nhân loại học, chỉ
sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay quy định cho nam và nữ. Còn giới
tính là một khái niệm khoa học ra đời từ môn sinh vật học, chỉ sự khác biệt giữa
nam và nữ về mặt sinh học. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái

sản xuất con người, duy trì nòi giống.
Với những phân tích trên đã giúp chúng ta phần nào hiểu rõ về bình đẳng
giới và có thể đi đến kết luận: “Bình đẳng có nghĩa là các em gái được đến trường
học như các em trai, là các cơ hội kinh tế được mở ra đối với phụ nữ, là các gia
đình nghèo được hưởng lợi từ các hỗ trợ chăm sóc sức khoẻ bà mẹ…Bình đẳng
cũng có nghĩa là phụ nữ hoàn toàn có quyền tham gia vào các hoạt động chính trị
và ra quyết định…” [6;20]. Có thể thấy, những quan điểm về vấn đề bình đẳng giới
này, trước sự biến đổi hàng ngày, hàng giờ của nền kinh tế thị trường mang tính
toàn cầu hoá nó được thể hiện khác nhau ở từng quốc gia, dân tộc cũng như giữa
các tỉnh thành trong một đất nước.
1.1.3. Bạo lực gia đình
Lâu nay khái niệm bạo lực vẫn thường được hiểu theo nghĩa hẹp của
chuyên ngành chính trị học. Với cách định nghĩa như vậy, bạo lực vẫn thường
được hiểu với tính chất của một phương thức vận động chính trị: “bạo lực là sức
mạnh dùng để trấn áp lật đổ” (Từ điển Tiếng Việt, 2003). Còn theo từ điển Chủ
nghĩa cộng sản khoa học: “Bạo lực là một giai cấp (các nhóm chính trị - xã hội)
nào đó áp dụng những hình thức cưỡng bức khác nhau, kể cả sự tác động bằng

9
vũ trang, đối với các giai cấp (các nhóm chính trị - xã hội) khác nhau nhằm mục
đích giành lấy hoặc duy trì sự thống trị về kinh tế, chính trị những quyền hay đặc
quyền khác nhau” [28;8].
Tuy nhiên, không phải mọi hình thức bạo lực trong xã hội đều mang tính
chính trị, đều chỉ hướng vào việc lật đổ các đảng và phe phái chính trị. Người ta
có thể dùng bạo lực để hành xử với nhau trong cuộc sống hàng ngày như: giải
quyết sự bất hoà trong quan hệ xã hội, sự tranh chấp quyền lợi giữa hai người
hàng xóm…Như vậy, có thể gọi bạo lực là một hiện tượng xã hội và là một
phương thức hành xử trong các mối quan hệ xã hội.
Các nhà khoa học đã phân chia các dạng thức bạo lực trong xã hội: có thể
là bạo lực về chính trị, khủng bố, lật đổ hoặc bạo lực về kinh tế, tranh giành lợi

nhuận; bạo lực ở cấp độ giai cấp hoặc ở cấp độ các nhóm và tầng lớp xã hội; bạo
lực trong phạm vi địa phương, hoặc trong phạm vi gia đình; bạo lực giữa các cá
nhân với cá nhân. Từ đó ta có thể thấy, bạo lực gia đình là một dạng thức của
bạo lực trong xã hội,“Nó là việc các thành viên trong gia đình vận dụng sức
mạnh để xử lý các vấn đề trong gia đình” [7;27].
Bạo lực gia đình là hiện tượng phổ biến trên thế giới nhưng vẫn có rất
nhiều người nhận thức chưa đúng về nó. Luật phòng, chống bạo lực gia đình của
Quốc hội nước ta chỉ rõ: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia
đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối
với các thành viên khác trong gia đình” [25;1].
Ngày 25-11 hàng năm được Liên hợp quốc lấy làm Ngày quốc tế phòng,
chống bạo lực gia đình. Thế giới từng có nhiều cố gắng trong việc phòng chống
bạo lực gia đình và ban hành nhiều văn kiện pháp lý liên quan. Hiện có 89 nước
có quy định pháp luật về chống bạo lực gia đình, trong đó có 60 nước có luật
riêng về phòng chống bạo lực gia đình; 7 nước có luật riêng về bạo lực chống lại
phụ nữ... Tuy nhiên đến nay tình trạng bạo lực gia đình vẫn đang là nỗi nhức
nhối của cả nhân loại.

10
Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, để lại nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ, nó không chỉ gây hậu quả
về thể chất, tâm lý cho bản thân phụ nữ mà còn với cả trẻ em, gia đình, toàn xã
hội và vi phạm nghiêm trọng các quyền của con người.
Ở Ấn Ðộ, mỗi năm có khoảng hơn 5.000 phụ nữ bị cướp đi mạng sống
của mình vì nhà chồng cho rằng của hồi môn không đủ. Ở Băng-la-đét, theo
thống kê tội giết vợ chiếm 50% trong số các vụ giết người. Ngay tại Mỹ, một
cường quốc hùng mạnh được coi là “tự do” thì hiện tượng bạo lực trong gia
đình lại rất phổ biến và đáng báo động. Trên phạm vi toàn nước Mỹ cứ 15 giây
lại có một phụ nữ bị đánh đập, có ít nhất 4 triệu báo cáo tai nạn do bạo lực trong
gia đình chống lại phụ nữ mỗi năm. Còn ở Việt Nam - một đất nước đang phát

triển, thì tình trạng này phải khẳng định là đang tăng lên. Theo báo cáo của Bộ
Công an, cứ 2 - 3 ngày lại có một người chết liên quan đến bạo lực gia đình;
trong năm 2005 có 14% số vụ giết người liên quan đến bạo lực gia đình (39 vụ
chồng giết vợ và 8 vụ vợ giết chồng). Sáu tháng đầu năm 2006, tỷ lệ này là
30,5% (26/77 vụ) [27; 19].
Đánh giá về vấn đề này, theo GS. Lê Thị Quý ở trung tâm nghiên cứu khoa
học về gia đình và phụ nữ thì tệ nạn này đang phát triển trong xã hội ta hiện nay, nó
không chỉ xúc phạm đến nhân phẩm, quyền con người của phụ nữ mà còn gây ảnh
hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá. Có thể phân bạo lực trong
gia đình dưới hai dạng chính là bạo lực nhìn thấy được và bạo lực không nhìn thấy
được ( hay gọi là bạo lực trực tiếp và bạo lực gián tiếp).
Bạo lực nhìn thấy được thường là các hành vi về thể chất như đánh đập, cưỡng
bức tình dục, sử dụng vũ lực hoặc đe doạ, kể cả việc dùng vũ lực để can thiệp vào ý
muốn sử dụng các biện pháp tránh thai của vợ. Còn bạo lực không nhìn thấy được là
dạng bạo lực lao động hoặc kinh tế có thể khiến nhiều người không nhận thấy được
mức độ trầm trọng. Người bị bạo lực thì âm thầm chịu đựng, cam lòng khuất phục trong
suốt cả cuộc đời, còn xã hội thì không ủng hộ họ.

11
Ngoài ra còn nhiều cách phân loại bạo lực gia đình khác nhau: bạo hành thể
xác, bạo hành tinh thần và bạo hành tình dục hay ngược đãi thân thể, ngược đãi về
lời nói và ngược đãi liên quan đến tình dục…và người gây ra bạo lực thường là
người chồng hay sự thờ ơ của người chồng đối với vợ mình. Ngoài ra tham gia vào
việc hành hạ phụ nữ thường là cả gia đình nhà chồng, gồm anh chị em chồng, bố
mẹ chồng, một số trường hợp khác thuê người đánh.
Việc nhận thức vấn đề này lại là một nghịch lý: một số hành vi bạo lực
trong gia đình được nhiều tầng lớp trong xã hội, kể cả phụ nữ, coi là có thể chấp
nhận được như quan hệ lăng nhăng, hỗn láo… Và bạo lực trong gia đình để lại
những hậu quả rất nặng nề: gây tình trạng bất an trong cuộc sống của người phụ
nữ, những đứa trẻ… đặc biệt cản trở sự phát triển, tiến bộ của xã hội. Đây cũng

là vấn đề bức xúc đang được đặt ra ở tỉnh Sơn La.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới
Lịch sử xã hội loài người cho đến nay đã chứng minh rằng, tiến bộ của xã
hội sẽ chậm lại, nếu trong xã hội có một bộ phận đông đảo người bị áp bức bóc
lột, bị hạn chế hay bị loại trừ. Thực tiễn phát triển lịch sử cũng khẳng định: bất
kỳ cuộc đấu tranh cách mạng nào nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại
lao động, nếu không gắn kết chặt chẽ với vấn đề giải phóng phụ nữ và được
đông đảo các tầng lớp phụ nữ tích cực tham gia, thì không thể phát triển và
giành thắng lợi vững chắc.
Một trong những quan điểm phi lý nhất ngự trị trong lịch sử xã hội loài người
thế kỷ XVII, XVIII là: từ khi có xã hội thì đàn bà đã là nô lệ của đàn ông. Để bảo vệ
chế độ thống trị, các tư tưởng của giai cấp bóc lột đã biện hộ cho giá trị không đầy đủ
của người phụ nữ nên sự lệ thuộc của họ vào đàn ông là lẽ tự nhiên. Trái với quan
điểm này, các nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng Điđơrô, J.Rutxô và sau này
là Phuriê đã kịch liệt phê phán. Phuriê - nhà tư tưởng Pháp thế kỷ XIX đã tiến thêm
một bước về mặt lý luận, khi cho rằng giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ giải
phóng xã hội: “Sự phát triển của một thời đại lịch sử bao giờ cũng có thể xác định
được bằng bước tiến của phụ nữ tới tự do, vì trong quan hệ giữa đàn ông và đàn bà,

12
biểu hiện một cách rõ ràng nhất thắng lợi của tính người đối với tính thú. Trình độ của
giải phóng phụ nữ là tiêu chuẩn tự nhiên để đo sự giải phóng phổ biến” [16; 295]. Tuy
nhiên vấn đề đặt ra là giải phóng phụ nữ như thế nào và với những phương thức cụ thể
nào thì các ông chưa chỉ ra được.
Vì thế mà giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời và đã góp phần quan
trọng đưa sự phát triển lý thuyết bình đẳng giới sang một giai đoạn mới.
Khi nghiên cứu về lý luận của cuộc cách mạng vô sản, C.Mác - Ph.Ăngghen đã
đánh giá rất cao vai trò, vị thế của phụ nữ trong xã hội. Theo các ông: “Trong lịch sử
nhân loại, không có phong trào to lớn nào của những người bị áp bức mà lại không có
phụ nữ lao động tham gia; phụ nữ lao động là những người bị áp bức nhất trong tất cả

những người bị áp bức, chính vì vậy nên họ chưa bao giờ và không bao giờ đứng ngoài
các cuộc đấu tranh giải phóng” [4; 60].
Sự nghiệp giải phóng phụ nữ phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc và giải phóng con người. Vì vậy, theo Ph. Ăngghen, phụ nữ tham
gia công việc xã hội chính là điều kiện đầu tiên để giải phóng phụ nữ. Ông
khẳng định: “Người ta thấy rằng, sự giải phóng phụ nữ, quyền bình đẳng giữa
nam và nữ đều không thể có được và mãi mãi không thể có được; chừng nào mà
người phụ nữ còn bị gạt ra ngoài lao động sản xuất của xã hội và còn phải bị bó
hẹp trong công việc riêng tư ở gia đình” [16; 507].
Từ việc phân tích sự bất bình đẳng nam nữ trong xã hội loài người, Mác -
Ăngghen đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế, xã hội và nhận thức của sự bất bình đẳng
đó. Trong đó nguồn gốc kinh tế là nguyên nhân chính tác động đến vai trò, thứ
bậc của mối quan hệ nam nữ trong gia đình. Trong nền kinh tế Cộng sản nguyên
thuỷ, đàn bà nắm giữ kinh tế nên đàn bà nắm giữ quyền cai quản xã hội và gia
đình. “Kinh tế gia đình cộng sản…là cơ sở hiện thực quyền thống trị của người
đàn bà, cái quyền thống trị phổ biến khắp mọi nơi trong thời nguyên thuỷ” [17;
83]. Nhưng khi đàn ông nắm quyền thống trị kinh tế thì sự thống trị của nam
giới với phụ nữ trở nên phổ biến không chỉ trong nền sản xuất vật chất của xã
hội mà cả trong nền tái sản xuất, tức là trong hôn nhân gia đình. Mác -

13
Ăngghen chỉ rõ: “sự thống trị của đàn ông trong hôn nhân đơn thuần là kết quả
của sự thống trị của họ về kinh tế”. Vì vậy, khi không còn chế độ tư hữu thì sự
thống trị của đàn ông đối với đàn bà trong hôn nhân “sẽ tiêu vong cùng với sự
thống trị về kinh tế” [17; 125].
Sở dĩ địa vị xã hội của người phụ nữ lúc bấy giờ luôn thấp kém hơn nam giới, là
bắt nguồn từ địa vị kinh tế của họ. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “tình trạng không bình
quyền giữa đôi bên, do những quan hệ xã hội trước kia để lại cho chúng ta, tuyệt nhiên
không phải là nguyên nhân, mà là kết quả của việc áp bức đàn bà về mặt kinh tế” [2;
115]. Còn theo từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học (do Liên Xô cũ xuất bản năm

1986): “sự xuất hiện chế độ tư hữu đến sự phụ thuộc về mặt kinh tế của người phụ nữ và
người chồng, vào người cha, còn trong các giai cấp bị bóc lột thì nó đồng thời dẫn đến
sự nô dịch người phụ nữ về mặt giai cấp” [28; 391].
Tuy nhiên kinh tế không phải là yếu tố duy nhất, bên cạnh đó còn có các yếu
tố phi kinh tế - đó là yếu tố thuộc về nhận thức, văn hoá - xã hội. Ăngghen đã nêu rõ
quan điểm này như sau: “Chúng tôi coi những điều kiện kinh tế là cái cuối cùng
quyết định sự phát triển lịch sử. Nhưng chủng tộc cũng là một nhân tố kinh tế…sự
phát triển về mặt chính trị, pháp luật, tôn giáo, văn học, nghệ thuật; v.v.v…, là dựa
trên sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và
cùng tác động đến cơ sở kinh tế. Hoàn toàn không phải điều kiện kinh tế là nguyên
nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác chỉ có tác dụng thụ động. Trái lại, có sự
tác động qua lại trên cơ sở tính tất yếu kinh tế, xét đến cùng bao giờ cũng tự vạch ra
con đường đi của nó” [32; 7].
Không dừng lại ở việc xác định nguyên nhân của sự áp bức đối với phụ
nữ trong gia đình và xã hội, chủ nghĩa Mác đã tiến thêm những bước căn bản so
với các nhà lý luận đương thời, bằng cách đưa ra những đề xuất nhằm giải
phóng phụ nữ khỏi sự áp bức này.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặt vấn đề rất rõ ràng, nguồn gốc áp
bức phụ nữ và bất bình đẳng nam nữ nảy sinh từ chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, nên để xoá bỏ sự bất bình đẳng và áp bức về giới, thì cần xoá bỏ chế độ tư

14
hữu này. Ở đây cần một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, vì chủ nghĩa tư bản
với nền tảng là chế độ tư hữu không thể giải phóng phụ nữ mà còn tăng thêm sự
áp bức, bóc lột và sự tha hoá đối với họ. Vì vậy, theo Ăngghen, sự nghiệp giải
phóng phụ nữ chỉ có thể thực hiện được một cách triệt để khi lao động gia đình
biến thành lao động xã hội:“chỉ có thể giải phóng được người phụ nữ khi
người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên một quy mô xã hội rộng lớn và chỉ
phải làm công việc trong nhà rất ít” [2; 268]. Mặt khác, do “sự thống trị của
người đàn ông trong hôn nhân chỉ đơn thuần là kết quả của sự thống trị về kinh

tế, và sẽ tiêu vong cùng với sự thống trị về kinh tế” [2; 127]. Cho nên phải xoá bỏ
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và các quan hệ tài sản do nền sản xuất ấy tạo ra
thì mới tiến đến sự hoàn toàn bình đẳng về quyền lợi giữa nam và nữ.
Trên cơ sở về sự áp bức và nguồn gốc của sự áp bức đối với phụ nữ của
các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác, Lênin đã hiện thực hoá quá trình giải phóng
phụ nữ thông qua hàng loạt chính sách được ban hành sau khi thành lập chính
quyền Xô Viết tại nước Nga. Có 3 nhóm giải pháp quan trọng được coi là then
chốt: Một là, xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật mới đảm bảo quyền bình
đẳng nam nữ. Hai là, đưa phụ nữ vào tham gia quản lý nhà nước, xây dựng
chính quyền. Ba là, giảm nhẹ gánh nặng công việc nội trợ của người phụ nữ
bằng việc xây dựng nhà trẻ, nhà ăn công cộng…
Trên cơ sở thực tiễn của nước Nga, V.I.Lênin đã nêu ra những luận điểm
quan trọng trong quá trình thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Theo ông thì
công việc nội trợ trong gia đình là một vấn đề hết sức nan giải trong số các vấn
đề liên quan nhằm giải phóng phụ nữ. V.I.Lênin cho rằng:“Ngay trong điều kiện
hoàn toàn bình đẳng thì sự thật phụ nữ vẫn bị trói buộc vì toàn bộ công việc gia
đình đều trút lên vai phụ nữ” [15; 39].
Tóm lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, để tiến tới bình đẳng
nam nữ và giải phóng phụ nữ, cần phải thực hiện những điều kiện sau:
Thứ nhất, xoá bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xây dựng chế
độ công hữu nhằm xoá bỏ sự lệ thuộc về kinh tế của người phụ nữ đối với nam

15
giới. Giải phóng phụ nữ ra khỏi sự áp bức, bóc lột và bất bình đẳng trong nền
sản xuất xã hội. Thực hiện tốt điều này sẽ tạo điều kiện cho việc xây dựng quan
hệ bình đẳng nam nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Thứ hai, tạo điều kiện cho phụ nữ thoát khỏi những ràng buộc gia đình,
tạo điều kiện và cơ hội cho họ tham gia vào nền sản xuất xã hội. Xã hội cần giúp
người phụ nữ giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình bằng cách phát triển các
hệ thống dịch vụ công cộng.

Thứ ba, xoá bỏ dần các phong tục tập quán, định kiến về giới và tâm lý
coi thường phụ nữ, tuyên truyền giáo dục và vận động cộng đồng xã hội nhận
thức được ý nghĩa của việc nâng cao bình đẳng nam nữ là góp phần thúc đẩy gia
đình ổn định và xã hội phát triển bền vững.
Thứ tư, xây dựng quan hệ gia đình bình đẳng, hoà thuận, đòi hỏi hôn nhân
cần dựa trên tình yêu chân chính chứ không bị lợi ích kinh tế chi phối.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng
Kế thừa và phát triển học thuyết Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh là
một trong những người Việt Nam đầu tiên hiểu và đặc biệt quan tâm đến tiềm
năng, vai trò, vị thế của người phụ nữ trong phong trào cách mạng thế giới nói
chung và sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm khi đấu tranh cho quyền độc lập của dân
tộc đã đấu tranh cho quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ các nước
thuộc địa. Trên tờ báo “Người cùng khổ”, trong bài “phụ nữ Việt Nam và chế độ
đô hộ của Pháp”, Người viết: “chế độ thực dân tự bản thân nó đã là một hành
động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó đem ra đối xử đối với
trẻ em và phụ nữ lại càng bỉ ổi hơn nữa”.
Từ cảm nhận sâu sắc nỗi khổ nhục của phụ nữ dưới chế độ thực dân
phong kiến, Bác càng ý thức hơn phụ nữ chính là một lực lượng, một nửa thành
công của các mạng. Trong thư gửi phụ nữ nhân dịp kỷ niệm ngày 8/3/1952,

16
Người khẳng định: “non sông gấm vóc nước Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng
như già ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ” [22; 289].
Tôn trọng phụ nữ, đánh giá đúng vai trò của phụ nữ, song Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng rất nghiêm khắc đối với phụ nữ. Người đã chỉ cho phụ nữ Việt
Nam thấy rằng, muốn có sự bình đẳng thực sự, không nên chỉ trông chờ vào
người khác mà “bản thân chị em phải có chí khí tự cường, tự lập, phải đấu tranh
để bảo vệ quyền lợi cho mình” [21; 225].

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề bình đẳng nam nữ không
chỉ là những nội dung lý luận quan trọng, mà còn là những gợi ý cụ thể và các
biện pháp nhằm xây dựng các mối quan hệ bình đẳng giữa nam, nữ trong gia
đình và xã hội. Người cho rằng, thực hiện bình đẳng nam nữ là vấn đề phức tạp,
không dễ dàng: “Đó là cuộc cách mạng to và khó. Vì trọng nam, khinh nữ là một
thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi
gia đình, mọi tầng lớp trong xã hội” [20; 433].
Theo Bác, đấu tranh giành chính quyền, bình đẳng cho phụ nữ trước hết là
cuộc đấu tranh về nhận thức, đấu tranh chống lại các thói quen lâu đời. Và cuộc
đấu tranh này diễn ra ở mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội. Vậy đối tượng của
cuộc đấu tranh đó là gì? Bác nhấn mạnh “giải phóng người đàn bà đồng thời
phải tiêu diệt tư tưởng phong kiến, tư tưởng tư sản của người đàn ông” [19;
524]. Rõ ràng là, nếu các biện pháp tiến tới bình đẳng nam nữ chỉ dừng lại ở
việc giáo dục và động viên giới nữ nói chung thì chưa đủ. Mà mục tiêu quan
trọng là phải thay đổi nhận thức, khắc phục định kiến và tư tưởng coi thường
phụ nữ của nam giới. Về phương pháp đấu tranh để giành bình quyền, bình
đẳng, Bác chỉ rõ không thể dùng vũ lực. Và lĩnh vực khó nhất của sự nghiệp này
là phấn đấu đạt bình quyền, bình đẳng trong gia đình.
Như vậy, luận điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bình đẳng nam nữ thể
hiện một cách rõ ràng mục tiêu cần đạt được cũng như cách thức và biện pháp
cần thực hiện để đạt được bình quyền, bình đẳng. Có lẽ đây là một trong những
nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh cần được cán bộ, đảng viên nhận thức một

17
cách đầy đủ và vận dụng một cách sâu sắc hơn nữa trong giai đoạn hiện nay của
cách mạng Việt Nam.
Tiếp thu lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ
nữ, ngay từ khi ra đời Đảng ta rất quan tâm đến phụ nữ, luôn coi vấn đề phụ nữ
là trọng tâm trong sự nghiệp cách mạng. Ngay từ năm 1930 khi mới ra đời,
Đảng cộng sản Việt Nam đã đề cao tư tưởng “nam nữ bình quyền” và coi đó là

một trong mười nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam.
Nhận thức vai trò, vị thế của giới nữ trong gia đình cũng như ngoài xã hội,
Đảng cộng sản Việt Nam đã ra nhiều Chỉ thị, Nghị quyết về công tác vận động phụ
nữ tham gia vào các lĩnh vực công tác xã hội, bổ sung nguồn cán bộ cho Đảng, Nhà
nước. Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 12/7/1993 của Bộ chính trị về “đổi mới và
tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thị số 37/CT-TW
ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư về “công tác cán bộ trong tình hình mới”; Nghị
quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” được coi là những văn bản gần
đây nhất ghi nhận phụ nữ Việt Nam vừa có tiềm năng to lớn, là động lực quan
trọng của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, vừa là người mẹ, người
thầy đầu tiên của con người.
Các Văn kiện Đại hội Đảng từ Đại hội VI đến Đại hội X đều nhấn mạnh
đến việc thực hiện bình đẳng giới, chú trọng công tác cán bộ nữ, nâng cao trình
độ học vấn cho phụ nữ là điều kiện quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng,
dân chủ cho phụ nữ. Cụ thể:
Tại Đại hội IX (2001), vấn đề bình đẳng giới được xác định như một
nhiệm vụ cơ bản để xây dựng gia đình văn hoá: “đối với phụ nữ, thực hiện chính
sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ
chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và
quản lý ở các cấp các ngành…” [8; 126].
Đại hội X (2006) là sự kế thừa, tiếp tục mục tiêu bình đẳng giới trong gia
đình. Đại hội đã xác định: “Nâng cao trình độ mọi mặt cả đời sống vật chất tinh

18
thần cho phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt
vai trò người công dân, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng,
đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ
quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp…” [9; 120].
Vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng ta đề cập đến rất nhiều trong các Đại

hội. Tuy nhiên, nó chưa được nghiên cứu sâu và thực hiện có hiệu quả. Cho đến
Đại hội X, những quan điểm của Đảng về vấn đề bình đẳng giới mới thực sự
được đưa ra một cách cụ thể qua luật bình đẳng giới. Luật này được Quốc hội
thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007, đây là văn bản quy
phạm pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta quy định về những nội dung bình đẳng
giới một cách toàn diện. Điều 4 của Luật đã khẳng định mục tiêu của bình đẳng
giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong
phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng thực
chất giữa nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình.
Trước những hậu quả để lại khá nghiêm trọng của nạn bạo hành, Nhà
nước ta đã ban hành Luật phòng, chống bạo hành gia đình ngày 21/11/2007 và
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2008. Luật gồm 6 chương, 45 điều, quy định
phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; quyết
định xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình.
Như vậy, tư tưởng của Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt
Nam là sự tiếp nối các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng nam nữ.
Quan điểm này nhấn mạnh vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng;
nhấn mạnh sự hỗ trợ của Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho phụ nữ thoát khỏi
công việc gia đình tham gia vào công tác xã hội.
Tóm lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ, là cơ
sở lý luận, nền tảng tư tưởng để Đảng và Nhà nước đề ra phương hướng, giải pháp
cho vấn đề bình đẳng giới trong gia đình và được áp dụng phù hợp với đặc điểm,
tình hình của từng tỉnh thành, địa phương cả nước.

19
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG BẠO LỰC TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
(2005 - 2010)

2.1. Khái quát về địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Sơn La là một tỉnh nằm ở phía Tây Bắc, tổng diện tích tự nhiên là 14.174
km
2
chiếm 4,27% diện tích cả nước. Toàn tỉnh gồm có 11 đơn vị hành chính (01
thành phố và 10 huyện), có chung đường biên giới Việt - Lào dài trên 250km và
đường địa giới giáp các tỉnh bạn là 628km. Toạ độ địa lý từ 20
0
30

- 22
0
02

vĩ độ
Bắc, từ 103
0
11

- 105
0
02

kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái; phía Đông
giáp tỉnh Phú Thọ, Hoà Bình; phía Nam giáp tỉnh Thanh Hoá và tỉnh Hủa Phăn,
Luông Pha Băng của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào; phía Tây giáp tỉnh
Điện Biên, Lai Châu.
Dân số (thống kê năm 2009) là 1.083.700 người, mật độ dân số 73
người/km

2
trong đó nam chiếm 50,2%, nữ chiếm 49,8%. Bao gồm 12 dân tộc
anh em (kinh 17,61%; Thái 53,20%; Mường 7,57%; Mông 14,61%; Dao 1,77%;
Khơ Mú 1,17%; Kháng 0,80%; La Ha 0,75%; Xinh Mun 1,98%; Tày 0,15%;
Lào 0,31%; Hoa 0,02%; dân tộc khác 0,06%). Tổng số lao động trên địa bàn
khoảng 584.940 người (chiếm 56% tổng dân số); lao động nông, lâm nghiệp là
chủ yếu với 502.350 người (chiếm 86% tổng lao động) [33; 1].
Sơn La là một tỉnh miền núi có độ cao trung bình từ 600-700m so với
mực nước biển, địa hình chia cắt sâu và mạnh. Địa hình gồm các dãy núi phần
lớn chạy dần theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và nghiêng dần từ Tây Bắc

20
xuống Đông Nam theo chiều dòng chảy của Sông Đà và Sông Mã. Tỉnh có 2 cao
nguyên là cao nguyên Mộc Châu và cao nguyên Nà Sản.
Tỉnh Sơn La nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa mang đặc điểm
của khí hậu Tây Bắc, chia làm hai mùa: mùa đông lạnh và khô; mùa hè nóng,
ẩm và mưa nhiều. Với đặc điểm địa hình như vậy đã tạo cho tài nguyên thiên
nhiên tỉnh Sơn La đa dạng phong phú với tài nguyên rừng có khả năng phát
triển; tài nguyên khoáng sản, tài nguyên đất, với hệ động thực vật phong phú, đa
dạng với nhiều chủng loại quý hiếm.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà Nước và sự nỗ
lực vượt bậc của Đảng bộ chính quyền địa phương, nền kinh tế Sơn La tiếp tục
chuyển dịch cơ cấu theo hướng sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, hình thành
các vùng tập trung chuyên canh, thâm canh, kết hợp mở rộng vùng cây ăn quả,
cây công nghiệp gắn với cơ sở chế biến có quy mô và công nghệ phù hợp. Đồng
thời hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị mới nhằm đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh trong thời gian tới.
Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh năm 2010 của
Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La, tổng sản phẩm (GDP) trong tỉnh ước đạt 4.377,450 tỷ

đồng, bằng 98,6% kế hoạch và tăng 12,8% so với năm 2009. Trong đó khu vực
nông, lâm, thuỷ sản giảm 3,4%; công nghiệp - xây dựng tăng 19,3%; dịch vụ tăng
24%. Cơ cấu GDP: nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giảm từ 43,6% năm 2009 xuống còn
40,01%; khu vực công nghiệp, xây dựng từ 23,3% năm 2009 lên 23,4%; dịch vụ
tăng từ 33,1% năm 2009 lên 36,56% [33; 2].
Bên cạnh đó, văn hoá - xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được cải thiện, công tác xoá đói giảm nghèo đạt kết quả quan
trọng; các vấn đề bức xúc của xã hội được tập trung giải quyết.
Giáo dục và đào tạo được củng cố và phát triển toàn diện, các ngành học, bậc
học phát triển nhanh về quy mô trường lớp, học sinh; cuộc vận động “hai không”

21
với 4 nội dung được triển khai thực hiện nghiêm túc góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục; đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
Công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân, chính sách khám chữa
bệnh cho người nghèo…được chú trọng; chất lượng khám chữa bệnh được nâng
lên; mạng lưới y tế được củng cố. Tỷ lệ trạm y tế xã có bác sỹ đạt 64%; tổng số
cán bộ y tế hiện có 4.019 người, tăng 13,2% so với năm 2009. Tỷ lệ tử vong trẻ
em dưới 01 tuổi là 0,58%, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống
còn 23,5%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2010 là 1,25%; giảm tỷ lệ sinh con
thứ 3 trở lên xuống còn 9,5% [33; 9].
Chương trình xoá đói giảm nghèo, xoá nhà tạm được đẩy mạnh và đạt kết
quả cao. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 46% (năm 2006) xuống còn 25% (năm
2010), phấn đấu giảm xuống dưới 10% vào năm 2015 [33; 11].
Ngoài ra, tình hình an ninh chính trị tiếp tục được giữ vững, trật tự an toàn
xã hội được bảo đảm, phục vụ tích cực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh. Kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được thể hiện toàn diện trên
các mặt: công tác nắm tình hình, công tác tham mưu; đẩy mạnh thực hiện có hiệu
quả chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, ma tuý…Quan hệ đối ngoại, hợp
tác quốc tế tiếp tục được củng cố, tăng cường và mở rộng; đặc biệt là quan hệ hợp tác

với các tỉnh giáp biên giới Việt - Lào. Công tác tôn tạo, tăng dày hệ thống mốc quốc
giới Việt - Lào được tập trung chỉ đạo, đến nay đã hoàn thành 13 mốc biên giới giữa
Sơn La với tỉnh Luông Pha Băng.
Như vậy, ta có thể thấy Sơn La là một tỉnh miền núi có nền kinh tế tăng
trưởng khá nhanh, mặc dù những yếu tố vật chất tạo điền kiện cho sự phát triển
phần lớn vẫn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Trung ương, nhưng cũng góp phần
dần đưa Sơn La thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn và rút ngắn khoảng cách
với các tỉnh phát triển, tạo lập các yếu tố cơ bản làm tiền đề phát triển trong
những năm tiếp theo. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ở Sơn
La mặt bằng dân trí vẫn còn thấp và phát triển không đều. Vì vậy còn nhiều hủ
tục lạc hậu đặc biệt là tư tưởng phân biệt nam nữ.

22
Vì vậy, mặc dù đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử với những cuộc cách
mạng to lớn thì phụ nữ Sơn La, nhất là phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa vẫn chịu
thiệt thòi về mọi mặt, vẫn phải chịu sự bất bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và trong gia đình. Đặc biệt là tình trạng bạo lực trong gia
đình đối với phụ nữ đang gây nhiều bức xúc trong toàn tỉnh.
2.2. Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn
tỉnh Sơn La
2.2.1. Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ
Một trong những vấn đề bức xúc hiện nay là tình trạng một bộ phận phụ
nữ và trẻ em trở thành nạn nhân của các hành vi ngược đãi diễn ra ngay trong
gia đình, do chính người chồng gây ra. Cũng như các vấn đề xã hội khác, nó
chịu tác động của những thay đổi về môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội. Mặc dù
đã có sự ngăn chặn khá kiên quyết của pháp luật, chính quyền, của các đoàn thể
nhưng thực tế tại cộng đồng dân cư, không phải cặp vợ chồng nào cũng có thể
sống một cách hoàn toàn êm ấm hạnh phúc. Bạo lực trong gia đình khi lén lút,
lúc công khai, đã và đang xảy ra phá vỡ hạnh phúc của một số gia đình, nhất là
các cặp vợ chồng trẻ. Vì vậy chúng ta cần phải đấu tranh nhằm ngăn chặn, tiến

tới xoá bỏ hoàn toàn các hành vi bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, bạo lực gia đình bao gồm nhiều
dạng. Trong xã hội Việt Nam nó thường diễn ra dưới hai hình thức: “bạo lực nhìn
thấy được” và “bạo lực không nhìn thấy được”. Hai dạng bạo lực này ở nơi này
được thể hiện trong mối quan hệ khăng khít, ở nơi khác lại được thể hiện trong sự
độc lập, tách biệt lẫn nhau. Điều này phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng gia
đình, vào nhận thức và hành động của các thành viên trong gia đình.
Thứ nhất: bạo lực nhìn thấy được
Vấn đề bạo lực và các hành vi bạo lực trong gia đình là một vấn đề phức
tạp, thể hiện ở nhiều góc độ. Trong thực tế, các nghiên cứu chủ yếu tập trung ở
các hành vi bạo lực nhìn thấy được mà ít có những phân tích sâu đối với những
hành vi bạo lực không nhìn thấy được trong gia đình.

23
Bạo lực nhìn thấy được đó là bạo lực về thân thể, tình dục với các hành vi
đánh đập, hành hạ đến thương tích phải tìm đến cái chết; hay bị hành hạ chửi rủa
hắt hủi khi không sinh được con trai; người chồng đòi lấy vợ hai hoặc người
chồng khinh bỉ coi vợ như người ở…Ta có thể nhận thấy đây là một dạng bạo
lực rất nguy hiểm. Nó làm cho người phụ nữ bị tổn thương, đau đớn hoặc đôi
khi mất đi cả tính mạng của mình.
Thực trạng bạo lực gia đình nói chung, bạo lực nhìn thấy được nói riêng
của toàn tỉnh ngày càng tăng với con số đáng lo ngại. Năm 2005 có 175 vụ ly
hôn do mâu thuẫn gia đình và đánh đập ngược đãi. Đến năm 2006 con số này là
270 vụ, tăng gần 2 lần so với năm 2005 và không ngừng tăng lên, trong năm
2007 là 212 vụ, năm 2008 số vụ bạo lực đã lên tới 319 vụ tăng 1,5 lần so với
năm 2007. Đến năm 2010 là 645 vụ, tăng 2,1 lần so với năm 2008, và tăng 4,8
lần so với năm 2005.
Thực trạng này ngày càng phổ biến khắp các cơ sở địa phương trong toàn
tỉnh, chiếm tỷ lệ lớn trong các vụ án về hôn nhân và gia đình. Theo thống kê của
Toà án nhân dân trong 455 vụ ly hôn năm 2009 trên địa bàn tỉnh thì có đến gần

400 vụ ly hôn do bạo lực gia đình gây ra với các nguyên nhân: rượu chè, ngoại
tình, cờ bạc...
Bạo lực gia đình không chỉ xảy ra ở vùng sâu, vùng xa với những người có
trình độ học vấn thấp mà còn ở thành phố, trong những gia đình có học vấn cao, có
địa vị xã hội. Ngay tại địa bàn Thành phố, năm 2010 có 67 vụ án hôn nhân gia đình
thì có đến 54 vụ án do bạo lực gia đình gây ra. Còn ở địa bàn các huyện là 571 vụ...
[31; 1]. Tuy nhiên con số này chưa hẳn đã phản ánh đúng thực tế. Nhiều trường hợp
các nạn nhân che giấu, âm thầm chịu đựng; một số bị đánh đập quá mức thì chỉ đến
tâm sự với cán bộ cơ sở, không muốn công khai.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc ly hôn của các gia đình nhưng nguyên
nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này vẫn là do mâu thuẫn gia đình và tệ đánh đập
ngược đãi. Trong đó phụ nữ luôn là người gánh chịu hậu quả. TS. Hoàng Bá Thịnh
(Trung tâm nghiên cứu giới gia đình và môi trường trong phát triển) cho rằng: “Bạo

24
lực gia đình là một hiện tượng xã hội, nó chịu sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế,
văn hoá, xã hội khác nhau... Điều dễ nhận thấy là, bạo lực giới trong gia đình có xu
hướng phổ biến hơn ở các cộng đồng có mức sống và dân trí thấp, hoặc tư tưởng
trọng nam khinh nữ vẫn còn nặng nề” [30; 65].
Sơn La với đặc điểm là một tỉnh miền núi nghèo nàn lạc hậu với hơn 80%
là dân tộc. Mấy năm gần đây mới bắt đầu phát triển công nghiệp. Chính vì vậy
trình độ dân trí còn rất thấp, bên cạnh đó còn chịu ảnh hưởng của truyền thống
xưa, tập tục lạc hậu vẫn ăn sâu bám rễ trong tư tưởng mỗi người nơi đây nên
việc nhận thức về bạo lực trong gia đình chưa đúng đắn.
Theo nghiên cứu mới nhất ở Huyện Mộc Châu (2006): Các cuộc thảo luận
nhóm, phỏng vấn sâu cho thấy phần lớn người dân đều không có nhận thức rõ
ràng về bạo lực gia đình, khái niệm bạo lực chưa được nghe nói đến hoặc ở mức
độ rất mơ hồ. Theo kết quả khảo sát phiếu điều tra hộ gia đình, có tới 63,3% số
người được hỏi chưa bao giờ nghe nói tới bạo lực gia đình và 36,8% đã được
nghe nói nhưng hiểu biết rất mơ hồ [10; 10].

Trên thực tế thông tin về bạo lực gia đình đối với người dân, đặc biệt là các
dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa chủ yếu qua các cuộc họp tổ, xã, và do chính
quyền cơ sở cung cấp. Phần lớn các hộ gia đình người dân không có các phương
tiện nghe nhìn. Việc triển khai các chính sách, đường lối, thực hiện chủ trương
pháp luật của nhà nước chủ yếu dựa vào đội ngũ cán bộ cơ sở. Tuy nhiên, trình độ
nhận thức của đội ngũ cán bộ cơ sở còn rất hạn chế. Với cách nghĩ đơn giản, nhiều
chị em phụ nữ chấp nhận những hành vi thô bạo của các ông chồng với quan điểm
cho rằng “phải biết thông cảm”, chỉ có một số hành vi được xác định khá rõ là
hành vi bạo lực gia đình như đánh đập, chửi mắng. Còn những người nam giới lại
có xu hướng phủ nhận tình trạng bạo lực gia đình tại địa phương hay gia đình như:
Một nhóm nam ở huyện Mai Sơn đã nhận xét: cả nhóm người ngồi đây chỉ trừ một
anh thôi còn tất cả đều đã từng đánh vợ. Đánh không nặng đâu chỉ tát tai hoặc đấm
vài cái. Chuyện ấy thì quá bình thường, ở địa phương nhiều lắm.

25

×