Luận văn tốt nghiệp
Tình hình hoạt động tiền tệ Ngân hàng có
nhiều biến chuyển do chịu tác động ảnh
hưởng của nhiều yếu tố bất lợi trong và
ngoài nước
Lời nói đầu.
Trong năm qua, tuy phải đương đầu với những khó khăn thách thức nhưng đất
nước ta đã giành được những thành tựu quan trọng và khá toàn diện, giữ vững ổn
định kinh tế chính trị - xã hội. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế hàng đầu đều đạt và
vượt kế hoạch, trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phịng đất nước được giữ vững.
Tình hình hoạt động tiền tệ Ngân hàng có nhiều biến chuyển tích cực mặc dù phải
chịu tác động ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất lợi trong nước cũng như trên thế
giới.
Cùng với xu thế này, trong những năm vừa qua , NHCT Đống Đa đã được đánh
giá là một trong những Ngân hàng đã có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đổi mới
của ngành, cơ cấu tổ chức Ngân hàng được hoàn thiện hơn. Là một Ngân hàng
thương mại, NHCT Đống Đa thực hiện rất nhiều nghiệp vụ, trong đó nghiệp vụ
duy trì sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng chủ yếu là huy động vốn trung dài
hạn để cho vay dự án đầu tư phát triển, nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án
thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, kinh doanh tiền tệ tín dụng. Bên cạnh những
thành công đã đạt được trong hoạt động cho vay tín dụng trung dài hạn các dự án
đầu tư, Ngân hàng cịn gặp khơng ít khó khăn và nhiều rủi ro. Chính vì vậy, để
đảm bảo hiệu quả và an tồn cho vay địi hỏi phải tích cực nâng cao chất lượng
công tác thẩm định trước cho vay, đặc biệt là cho vay dự án đầu tư. Hoạt động
thẩm định dự án đầu tư đang thực sự đóng vai trị quan trọng. Mục tiêu đặt ra của
NHCT Đống Đa trong năm tới là tiếp tục mở rộng hình thức tín dụng này.
Từ thực tế như vậy, với mong muốn góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển của
Ngân hàng – nơi cá nhân thực tập, em lựa chọn đề tài :
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi
nhánh NHCT Đống Đa” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề gồm 3 chương cơ bản :
Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm định dự án đầu tư
Chương III : Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu
tư tại chi nhánh NHCT Đống Đa
Do hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tế cũng như tài liệu sử dụng nên nội
dung chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp bổ ích của các thầy cô giáo và các cán bộ Ngân hàng để đề tài ngày càng
hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Chương I: Những vấn đề lí luận cơ bản về thẩm định dự án đầu tư.
1.1. Khái niệm về đầu tư và dự án đầu tư
1.1.1 . Đầu tư
a. Khái niệm đầu tư.
Hoạt động đầu tư (gọi tắt là đầu tư) là q trình sử dụng các nguồn lực tài chính,
lao động , tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc
gián tiếp tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền kinh tế nói chung, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ của ngành, cơ quan
quản lý và xã hội nói riêng.Hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư trực tiếp và gián tiếp.
Hoạt động đầu tư gián tiếp là hoạt động bỏ vốn trong đó người đầu tư khơng trực
tiếp tham gia điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra.
Hoạt động đầu tư trực tiếp là hoạt động trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia
điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chia ra thành 2 loại đầu tư chuyển dịch
và đầu tư phát triển. Trong đó:
-
Nâng cấp các hoạt động đó vì mục tiêu phát triển thực chất. Nó tạo ra của
cải vật chất cho nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm Đầu tư chuyển dịch là
hoạt động đầu tư mà chủ đầu tư bỏ tiền để mua lại một số lượng đủ lớn cổ phiếu
của một doanh nghiệp nhằm tham gia nắm quyền điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp đó.
-
Đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn nhằm gia tăng giá trị tài sản, tạo ra
những năng lực sản xuất , phục vụ mới bao gồm: xây dựng các cơng trình mới, các
hoạt động dịch vụ mới, cải tạo mở rộng cải thiện đời sống người lao động.
Có thể nói đầu tư phát triển đó là một q trình có thời gian kéo dài trong nhiều
năm với số lượng các nguồn lực được huy động cho từng công cuộc đầu tư khá lớn
và vốn nằm đọng trong suốt quá trình thực hiện dự án đầu tư(viết tắt là DAĐT).
Các thành quả của loại đầu tư này cần được sử dụng trong nhiều năm, đủ để các lợi
ích thu được tương ứng và lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra. Chỉ có như vậy thì
cơng cuộc đầu tư mới được coi là có hiệu quả.
b. Đặc trưng của đầu tư
Để làm rõ hơn nội dung của khái niệm hoạt động đầu tư, chúng ta đi sâu phân tích
các đặc trưng cơ bản của hoạt động này:
- Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường và trước hết
là quyết định tài chính.
Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi. Dưới các hình thức khác nhau nhưng
vốn có thể xác định dưới hình thức tiền tệ. Vì vậy, các quyết định đầu tư thường
được xem xét trên phương diện tài chính (khả năng sinh lời, tổn phí, có khả năng
thu hồi được hay không…). Trên thực tế, các quyết định đầu tư cân nhắc bởi sự
hạn chế của ngân sách nhà nước, địa phương, cá nhân và được xem xét từ các khía
cạnh tài chính nói trên. Nhiều dự án có khả thi ở các phương diện khác (kinh tế –
xã hội) nhưng không khả thi về phương diện tài chính vì thế cũng khơng thể thực
hiện được trên thực tế.
- Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài.
Khác với các hoạt động thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính khác, đầu tư
ln là hoạt động có tính chất lâu dài. Do đó, mọi sự trù liệu đều là dự tính và chịu
một xác suất biến đổi nhất định do nhiều nhân tố biến đổi tác động. Chính điều này
là một trong những vấn đề then chốt phải tính đến trong nội dung phân tích, đánh
giá của q trình thẩm định dự án.
- Hoạt động đầu tư là một trong những hoạt động luôn cần có sự cân nhắc giữa lợi
ích trước mắt và lợi ích trong tương lai.
Đầu tư về một phương diện nào đó là sự hy sinh lợi ích hiện tại để đánh đổi lấy lợi
ích trong tương lai. Vì vậy, ln có sự so sánh cân nhắc giữa hai loại lợi ích này và
nhà đầu tư chỉ chấp nhận trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn
lợi ích hiện này họ phải hy sinh - đó là chi phí cơ hội của nhà đầu tư.
- Hoạt động đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro.
Các đặc trưng nói trên đã cho ta thấy đầu tư là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi
ro do chịu xác suất nhất định của yếu tố kinh tế – chính trị – xã hội – tài nguyên
thiên nhiên…Bản chất của sự đánh đổi lợi ích và lại thực hiện trong một thời gian
dài không cho phép nhà đầu tư lường hết những thay đổi có thể xảy ra trong quá
trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Tuy nhiên, nhận thức rõ điều này nên nhà đầu
tư cũng có những cách thức, biện pháp để ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng rủi
ro là ít nhất.
Những đặc trưng nói trên cũng đặt ra cho người phân tích, đánh giá dự án chẳng
những quan tâm về mặt nội dung xem xét mà cịn tìm các phương pháp, cách thức
đo lường, đánh giá để có những kết luận giúp cho việc lựa chọn và ra quyết định
đầu tư một cách có căn cứ.
c. Vai trị của đầu tư.
Từ sau Đại hội Đảng lần VI, với chủ trương chuyển đổi cơ chế kinh tế từ tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt Nam đã có những
tiến bộ rõ rệt. Tỉ lệ tăng trưởng cao và tương đối ổn định, tỉ lệ lạm phát dừng lại ở
mức thấp, đặt biệt kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng…cùng với sự chuyển mình
của đất nước cũng như việc thực hiện đa dạng, đa phương hoá các phương thức sản
xuất kinh doanh đã làm cho chúng ta hoà nhập hơn, thân thiện hơn với bạn bè quốc
tế. Theo đó, tư duy về kinh tế của mỗi người dân đều thay đổi. Chính vì vậy mà
người ta đã biết đến đầu tư như là một yếu tố quan trọng cần thiết. Hay nói khác đi,
đầu tư cũng giống như một chiếc chìa khố để chiến thắng trong cạnh tranh sinh
tồn.
Tăng trưởng và phát triển bền vững là phương hướng, mục tiêu phấn đấu của mọi
quốc gia. Để đạt được điều đó cần quan tâm giải quyết các nhân tố ảnh hưởng đến
sự tăng trưởng là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và công nghệ. Thông qua hoạt
động đầu tư, các yếu tố đó sẽ được khai thác, huy động và phát huy một cách tối đa
để từ đó tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực mới cho sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Đối với nền kinh tế, đầu tư có tác động rất lớn đến tổng cung và tổng cầu. Do đầu
tư tác động khơng hồn tồn phù hợp về mặt thời gian đối với nhịp độ phát triển
nên mỗi sự thay đổi tăng hoặc giảm của đầu tư đều cùng lúc vừa là yếu tố duy trì
sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế.
Với những nước có tỉ lệ đầu tư lớn thì tốc độ tăng trưởng cao. Ngược lại khi tỉ lệ
đầu tư càng thấp thì tốc độ tăng trưởng và mức độ tích luỹ càng thấp. Trong nền
kinh tế quốc dân, để tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý thì vấn đề đầu tiên có tính
chất then chốt là phải thực hiện đầu tư và phân bổ vốn một cách hợp lý. Có như
vậy mới tạo ra được sự dịch chuyển về cơ cấu do mỗi ngành, mỗi thành phần kinh
tế đều có thế lực và tiềm năng riêng. Ngồi ra, kinh nghiệm của các nơi trên thế
giới cho thấy con đường tất yếu để có thể phát triển nhanh là tăng cường đầu tư
vào phát triển khu công nghiệp thương mại du lịch và dịch vụ.
Đối với một doanh nghiệp thì đầu tư cũng đóng vai trị quyết định đến sự tồn vong
và phát triển. Trong nền kinh tế hiện nay, doanh nghiệp được coi là các tế bào chủ
yếu nhất cho sự phát triển chung. Để thành lập nên một doanh nghiệp thì điều đầu
tiên là phải có vốn đầu tư. Nó là một trong những yếu tố thiết yếu để có thể tạo
dựng nên nền móng cơ sở vật chất ban đầu cho doanh nghiệp. Ngay cả sau khi
doanh nghiệp đã được thành lập thì việc phát triển hay lụi tàn đến mức nào đó
cũng phụ thuộc rất nhiều vào việc đầu tư.
1.1.2. Dự án đầu tư.
a.
Khái niệm dự án đầu tư (DAĐT)
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì “DAĐT là một tập hợp các
hoạt động đặc thù nhằm tạo nên một thực tế mới có phương pháp trên cơ sở các
nguồn lực nhất định”.
ở Việt Nam, khái niệm DAĐT được trình bày trong nghị định 52/1999 NĐ-CP về
quy chế quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản: “ DAĐT là tập hợp các đề xuất có liên
quan tới việc bỏ vốn để tạo vốn, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vật chất nhất
định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao
chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thơì gian nhất định”.
•
Về mặt hình thức: DAĐT là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi
tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết
quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
•
Về mặt nội dung: DAĐT là một tập hợp các hoạt động có liên quan với
nhau nhằm đạt được những mục đích đã đề ra thơng qua nguồn lực đã xác định
như vấn đề thị trường, sản phẩm, công nghệ, kinh tế , tài chính…
Vậy, DAĐT phải nhằm việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào để thu được
đầu ra phù hợp với những mục tiêu cụ thể. Đầu vào là lao động, nguyên vật liệu,
đất đai, tiền vốn… Đầu ra là các sản phẩm dịch vụ hoặc là sự giảm bớt đầu vào. Sử
dụng đầu vào được hiểu là sử dụng các giải pháp kỹ thuật công nghệ, biện pháp tổ
chức quản trị và các luật lệ…
Dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì DAĐT cũng gồm những thành phần chính
sau:
+ Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án: Khi thực hiện dự án, sẽ mang lại
những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho chủ đầu tư nói riêng.
+ Các kết quả: Đó là những kết quả có định lượng được tạo ra từ các hoạt động
khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện các mục tiêu của dự
án.
+ Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện trong dự án
để tạo ra các kết quả nhất định, cùng với một lịch biểu và trách nhiệm của các bộ
phận sẽ được tạo thành kế hoạch làm việc của dự án.
+ Các nguồn lực: Hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu thiếu các
nguồn lực về vật chất, tài chính và con người. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn
lực này chính là vốn đầu tư cho các dự án.
+ Thời gian: Độ dài thực hiện DAĐT cần được cố định.
DAĐT được xây dựng phát triển bởi một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Các giai
đoạn này vừa có mối quan hệ gắn bó vừa độc lập tương đối với nhau tạo thành chu
trình của dự án. Chu trình của dự án được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn chuẩn
bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn vận hành kết quả. Giai đoạn
chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề quyết định sự thành công hay thất bại ở giai đoạn sau,
đặc biệt đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư.
Đối với chủ đầu tư và nhà tài trợ, việc xem xét đánh giá các giai đoạn của chu trình
dự án là rất quan trọng. Nhưng đứng ở các góc độ khác nhau, mỗi người có mối
quan tâm và xem xét các giai đoạn và chu trình cũng khác nhau. Chủ đầu tư phải
nắm vững ba giai đoạn, thực hiện đúng trình tự. Đó là điều kiện để đảm bảo đầu tư
đúng cơ hội và có hiệu quả.
b.
Vai trò của DAĐT.
Vai trò của DAĐT được thể hiện cụ thể ở những điểm chính sau:
-
Đối với chủ đầu tư: dự án là căn cứ quan trọng để quyết định sự bỏ vốn đầu
tư. DAĐT được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ trên cơ sở nghiên cứu đầy
đủ về các mặt tài chính, thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý. Do đó, chủ đầu tư sẽ
yên tâm hơn trong việc bỏ vốn ra để thực hiện dự án vì có khả năng mang lại lợi
nhuận và ít rủi ro. Mặt khác, vốn đầu tư của một dự án thường rất lớn, chính vì vậy
ngồi phần vốn tự có các nhà đầu tư cịn cần đến phần vốn vay ngân hàng. Dự án
là một phương tiện rất quan trọng giúp chủ đầu tư thuyết phục ngân hàng hoặc các
tổ chức tín dụng xem xét tài trợ cho vay vốn. DAĐT cũng là cơ sở để chủ đầu tư
xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư.
Quá trình này là những kế hoạch mua sắm máy móc thiết bị, kế hoạch thi công,
xây lắp, kế hoạch sản xuất kinh doanh. Ngồi ra, dự án cịn là căn cứ để đánh giá
và điều chỉnh kịp thời những tồn đọng vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư,
khai thác cơng trình.
-
Đối với Nhà nước: DAĐT là cơ sở để cơ quan quản lý Nhà nước xem xét,
phê duyệt cấp vốn và cấp giấy phép đầu tư. Vốn ngân sách Nhà nước sử dụng để
đầu tư phát triển theo kế hoạch thơng qua các dự án các cơng trình, kết cấu hạ tầng
kinh tế – xã hội, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, cac DAĐT quan
trọng của quốc gia trong từng thời kỳ. Dự án sẽ được phê duyệt, cấp giấy phép đầu
tư khi mục tiêu của dự án phù hợp với đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã
hội của đất nước, khi hoạt động của dự án không gây ảnh hưỏng đến môi trường
và mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội. Dự án được phê duyệt thì các bên liên q uan
đến dự án phải tuân theo nội dung, yêu cầu của dự án. Nếu nảy sinh mâu thuẫn,
tranh chấp giữa các bên liên quan thì dự án là một trong những cơ sở pháp lý để
giải quyết.
-
Đối với nhà tài trợ: Khi tiếp nhận dự án xin tài trợ vốn của chủ đầu tư thì họ
sẽ xem xét các nội dung cụ thể của dự án đặc biệt về mặt kinh tế tài chính, để đi
đến quyết định có đầu tư hay không. Dự án chỉ được đầu tư vốn nếu có tính khả thi
theo quan điểm của nhà tài trợ. Ngược lại khi chấp nhận đầu tư thì dự án là cơ sở
để các tổ chức này lập kế hoạch cấp vốn hoặc cho vay theo mức độ hoàn thành kế
hoạch đầu tư đồng thời lập kế hoạch thu hồi vốn.
1.2. Thẩm định dự án đầu tư
1.2.1. Khái niệm thẩm định dự án đầu tư
Đối với mỗi DAĐT, từ khi lập xong đến khi thực hiện phải được thẩm định qua
nhiều cấp: Nhà nước, nhà đầu tư, nhà đồng tài trợ… Đứng dưới mỗi giác độ, có
những định nghĩa khác nhau về thẩm định. Nhưng hiểu một cách chung nhất thì:
“Thẩm định DAĐT là việc tổ chức xem xét một cách khách quan và toàn diện
các nội dung cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành, khai thác và tính sinh
lợi của cơng cuộc đầu tư”
Cụ thể theo cách phân chia các giai đoạn của chu trình DAĐT, ta thấy ở cuối Bước
1 có khâu “Thẩm định và ra quyết định đầu tư”. Đây là bước mà chủ đầu tư phải
trình hồ sơ nghiên cứu khả thi lên các cơ quan có thẩm quyền để xem xét quyết
định và cấp giấy phép đầu tư và cấp vốn cho hoạt động đầu tư.
Dưới góc độ là người cho vay vốn, các Ngân hàng thương mại (viết tắt là NHTM)
khi nhận được bản luận chứng kinh tế kỹ thuật sẽ tiến hành thẩm định theo các chỉ
tiêu và ra quyết định là có cho vay hay khơng cho vay. Sau đó là đi đến “đàm
phán và ký kết hợp đồng”. Như vậy có thể hiểu thẩm định DAĐT trong Ngân hàng
là thẩm định trước đầu tư hay thẩm định tín dụng. Nó được đánh giá là công tác
quan trọng nhất.
1.2.2. ý nghĩa của công tác thẩm định DAĐT
+ Đối với nền kinh tế : Xét trên phương diện vĩ mơ để đảm bảo được tính thống
nhất trong hoạt động đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, tạo ra một tốc độ tăng trưởng
mạnh mẽ, đồng thời tránh được những thiệt hại và rủi ro không đáng có thì cần
phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư cơ bản. Thẩm định
DAĐT chính là một cơng cụ hay nói cách khác đó là một phương thức hữu hiệu
giúp nhà nước có thể thực hiện được chức năng quản lý vĩ mơ của mình. Cơng tác
thẩm định sẽ được tiến hành thông qua một số cơ quan chức năng thay mặt nhà
nước để thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư như: Bộ kế hoạch đầu
tư, Bộ Xây dựng, Bộ Tài Chính, Bộ khoa học cơng nghệ và môi trường…cũng như
các UBND tỉnh, thành phố, các bộ quản lý ngành khác. Qua việc phân tích DAĐT
một cách hết sức toàn diện, khoa học và sâu sắc, các cơ quan chức năng này sẽ có
được những kết luận chính xác và rất cần thiết để tham mưu cho nhà nước trong
việc hoạch định chủ trương đầu tư, định hướng đầu tư và ra quyết định đầu tư đối
với dự án. Trong thực tế, để tạo điều kiện cho các cơ quan thẩm định dự án, các
DAĐT được chia ra làm một số loại cụ thể. Trên cơ sở phân loại này, các sự phân
cấp trách nhiệm trong khâu thẩm định và xét duyệt. Các DAĐT phải đảm bảo tính
chính xác và được nhanh chóng phê duyệt. Hiện nay, các công tác quản lý đầu tư
trên lãnh thổ Việt nam được thực hiện theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng,
ban hành và kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ - CP ban hành 08/07/1999 của
Thủ tướng Chính phủ – Nghị định số 12/2000/NĐ - CP ban hành 05/05/2000.
Theo những Nghị định này, các ngân hàng đã cụ thể hoá chức năng của mình
nhằm nâng cao hiệu quả về quản lý phân cấp đầu tư.
+ Đối với NHTM: Cũng như các doanh nghiệp khác, trong cơ chế thị trường hoạt
động của NHTM phải chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan trong
đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường luôn dẫn đến kết
quả một người thắng và nhiều kẻ thất bại và cạnh tranh là một quá trình diễn ra
liên tục. Các doanh nghiệp luôn phải cố gắng để là người chiến thắng. NHTM
trong nền kinh tế luôn phải đương đầu với áp lực của cạnh tranh, khả năng xảy ra
rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ loại hình hoạt động này của ngân hàng như rủi ro
tín dụng, thanh toán, chuyển hoán vốn, lãi suất, hối đoái…Trong đó rủi ro về tín
dụng, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn là rủi ro mà hậu quả của nó có thể tác
động nặng nề đến các hoạt động kinh doanh khác thậm chí đe doạ sự tồn tại của
ngân hàng.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng xảy ra khi xuất hiện các biến cố
làm cho bên đối tác (khách hàng) không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình
đối với ngân hàng vào thời điểm báo hạn. Các khoản nợ đến hạn nhưng khách
hàng khơng có khả năng trả nợ ngân hàng sẽ thuộc về một trong hai trường hợp:
khách hàng sẽ trả nợ ngân hàng nhưng sau một thời gian kể từ thời điểm báo hạn,
như vậy ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro đọng vốn, hoặc khách hàng hồn tồn khơng
thể trả nợ cho ngân hàng được, trường hợp này ngân hàng gặp rủi ro mất vốn.
Như vậy rõ ràng trong nền kinh tế thị trường, thẩm định dự án là vô cùng quan
trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thực tiễn hoạt động của các NHTM
Việt Nam một số năm vừa qua cho thấy bên cạnh một số DAĐT có hiệu quả đem
lại lợi ích to lớn cho chủ đầu tư và nền kinh tế, còn rất nhiều dự án do chưa được
quan tâm đúng mức đến công tác thẩm định trước khi tài trợ đã gây ra tình trạng
khơng thu hồi được vốn nợ q hạn kéo dài thậm chí có những dự án bị phá sản
hoàn toàn. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động ngân hàng, đồng thời
làm cho uy tín của một số NHTM bị giảm sút nghiêm trọng. Như vậy, khi đi vào
nền kinh tế thị trường với đặc điểm cố hữu của nó là đầy biến động và rủi ro thì
yêu cầu nhất thiết đối với các NHTM là phải tiến hành thẩm định các DAĐT một
cách đầy đủ và toàn diện trước khi tài trợ vốn. Qua phân tích trên, đối với các
NHTM, thẩm định dự án có ý nghĩa sau đây:
-
Ra các quyết định bỏ vốn đầu tư đúng đắn, có cơ sở đảm bảo hiệu quả của
vốn đầu tư.
-
Phát hiện và bổ sung thêm các giải pháp nâng cao tính khả thi cho việc triển
khai thực hiện dự án, hạn chế giảm bớt yếu tố rủi ro.
-
Tạo ra căn cứ để kiểm tra việc sử dụng vốn đúng mục đích, đối tượng và tiết
kiệm vốn trong q trình thực hiện.
-
Có cơ sở tương đối vững chắc để xác định được hiệu quả đầu tư của dự án
cũng như khả năng hoàn vốn, trả nợ của dự án và chủ đầu tư.
-
Rút kinh nghiệm và đưa ra bài học để thực hiện các dự án được tốt hơn.
-
Tư vấn cho chủ đầu tư để hoàn thiện nội dung của dự án.
1.2.3. Nội dung công tác thẩm định DAĐT tại các NHTM
Xem xét sơ bộ theo các nội dung chính của dự án:
-
Mục tiêu của dự án
-
Sự cần thiết đầu tư dự án
-
Quy mô đầu tư: Công suất thiết kế, giải pháp công nghệ, cơ cấu sản phẩm
và dịch vụ đầu ra của các dự án, phương án tiêu thụ sản phẩm.
-
Quy mô vốn đầu tư: Tổng vốn đầu tư, cơ cấu đầu tư theo các tiêu chí khác
nhau(lắp đặt, thiết bị và các chi phí khác…)
Phân tích về thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của các dự
án.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của các dự án đóng vai trị rất quan
trọng quyết định việc thành bại của một dự án. Vì vậy việc thẩm định dự án cần
được xem xét đánh giá kỹ về phương diện này khi thẩm định dự án. Các nội dung
chính cần xem xét đánh giá là:
-
Đánh giá tổng quan về nhu cầu sản phẩm của dự án:
+ Định dạng sản phẩm của dự án.
+ Đặc tính của nhu cầu đối với sản phẩm, dịch vụ đầu ra của dự án, tình hình sản
xuất, tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ thay thế đến thời điểm thẩm định.
+ Xác định tổng nhu cầu hiện tại và dự đoán nhu cầu tương lai đối với sản phẩm,
dịch vụ đầu ra của dự án, ước tính mức tiêu thụ gia tăng hàng năm của thị trường
nội địa và khả năng xuất khẩu sản phẩm của dự án trong đó lưu ý liên hệ với mức
gia tăng trong quá khứ, khả năng sản phẩm của dự án có thể bị thay thế bởi sản
phẩm khác có cùng cơng dụng.
-
Đánh giá về cung sản phẩm:
+ Xác định năng lực sản xuất, cung cấp đáp ứng nhu cầu trong nước hiện tại của
sản phẩm dự án như thế nào, các nhà sản xuất trong nước đã đáp ứng được bao
nhiêu phần trăm, phải nhập khẩu bao nhiêu, việc nhập khẩu là do sản xuất trong
nước chưa đáp ứng được nhu cầu hay sản phẩm nhập khẩu có ưu thế cạnh tranh
hơn.
+ Dự đốn biến động của thị trường trong tương lai khi có các dự án khác, đối
tượng khác cũng tham gia vào thị trường sản phẩm và dịch vụ đầu ra của dự án.
+ Sản lượng nhập khẩu trong những năm qua, dự kiến khả năng nhập khẩu trong
những năm tới.
+ Dự đoán ảnh hưởng của chính sách thuế xuất – nhập khẩu đến thị trường sản
phẩm của dự án.
+ Đưa ra một số liệu dự kiến về tổng cung hoặc tốc độ tăng trưởng về tổng cung
sản phẩm, dịch vụ.
-
Thị trường mục tiêu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án:
Để đánh giá về khả năng đạt được các mục tiêu của thị trường, cán bộ thẩm định
cần thẩm định khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án như sau:
+ Thị trường nội địa: cần xem xét đánh giá về hình thức, mẫu mã , giá cả, chất
lượng sản phẩm xem có phù hợp với thị hiếu của người tiêu thụ.
+ Thị trường nước ngoài: cần xem xét đánh giá về tiêu chuẩn để xuất khẩu, quy
cách chất lượng, mẫu mã, thị trường xuất khẩu dự kiến, sản phẩm cùng loại của
Việt Nam đã thâm nhập vào thị trường xuất khẩu dự kiến chưa, kết quả…
-
Phương pháp tiêu thụ và mạng lưới phân phối:
Cần xem xét đánh giá trên các mặt: sản phẩm của dự án dự kiến được tiêu thụ theo
phương thức nào, cần có hệ thống phân phối khơng. Mạng lưới phân phối sản
phẩm của dự án đã được thiết lập hay chưa, có phù hợp với đặc điểm của thị
trường hay không, phương thức bán hàng trả chậm hay trả ngay để dự kiến các
khoản phải thu khi tính tốn nhu cầu vốn lưu động ở phân tích tính tốn hiệu quả
của các dự án.
-
Đánh giá về dự kiến khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án:
Trên cơ sở đánh giá thị trường tiêu thụ, công suất thiết kế và khả năng cạnh tranh
của sản phẩm dự án, cán bộ thẩm định phải đưa ra được các dự kiến về khả năng
tiêu thụ được sản phẩm của dự án sau khi đi vào hoạt động theo các chỉ tiêu chính
thức như sản lượng sản xuất tiêu thụ hàng năm, sự thay đổi của cơ cấu, sản phẩm
nếu dự án có nhiều loại sản phẩm, diễn biến giá bán sản phẩm dịch vụ đầu ra hàng
năm.
Thẩm định về khả năng cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào của một
dự án.
Trên cơ sở hồ sơ dự án(báo cáo đánh giá chất lượng, trữ lượng tài nguyên, giấy
phép khai thác tài nguyên, nguồn thu mua bên ngoài, nhập khẩu…) và đặc tính kỹ
thuật của dây chuyền cơng nghệ, đánh giá đáp ứng đến khả năng cung cấp nguyên
vật liệu đầu vào cho dự án:
-
Nhu cầu về nguyên vật liệu đầu vào để phục vụ sản xuất hàng năm.
-
Các nhà cung ứng nguyên vật liệu đầu vào: do một hay nhiều nhà cung cấp,
quan hệ từ trước hay mới thiết lập, khả năng cung ứng và mức độ tín nhiệm.
-
Chính sách nhập khẩu đối với các nguyên vật liệu đầu vào nếu có.
-
Biến động về giá mua, nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tỉ giá trong
trường hợp phải nhập khẩu.
Tất cả những phân tích đánh giá trên đều nhằm kết luận được hai vấn đề chính sau
đây:
+ Có chủ động được nguyên nhiên vật liệu đầu vào hay không tức tính ổn định lâu
dài của nguồn nguyên vật liệu.
+ Những thuận lợi khó khăn đi kèm với việc đó có thể chủ động được nguyên
nhiên vật liệu đầu vào.
Thẩm định về phương diện kỹ thuật
Thẩm định dự án về phương diện kỹ thuật là việc kiểm tra phân tích các yếu tố kỹ
thuật và công nghệ chủ yếu của dự án để đảm bảo tính khả thi về mặt thi công và
xây dựng dự án cũng như việc vận hành dự án theo đúng các mục tiêu đã dự kiến.
Đối với ngân hàng, việc phân tích kỹ thuật lại là một vấn đề khó nhất vì nó đề cập
đến rất nhiều chỉ tiêu và quan trọng hơn cả là nó quyết định đến chất lượng sản
phẩm. Chính vì vậy mà cán bộ tín dụng cần đặc biệt quan tâm đến việc thẩm định
dự án trên phương diện kỹ thuật, về việc thẩm định dự án này dựa trên các nội
dung chính sau đây:
-
Địa điểm xây dựng:
+ Xem xét, đánh giá địa điểm có thuận lợi về giao thơng hay khơng, có gần nguồn
cung cấp nguyên vật liệu, điện nước và thị trường tiêu thụ hay khơng, có nằm
trong quy hoạch hay không.
+ Cơ sở vật chất, hạ tầng liên quan đến địa điểm đầu tư thế nào, đánh giá so sánh
về chi phí đầu tư so với các dự án tương tự ở địa điểm khác.
+ Địa điểm đầu tư có ảnh hưởng lớn đến vốn đầu tư của dự án cũng như ảnh
hưởng đến giá thành, sức cạnh tranh, khả năng tiêu thụ sản phẩm.
-
Quy mô sản xuất và sản phẩm của dự án:
+ Sản phẩm của dự án là sản phẩm mới hay đã có sẵn trên thị trường.
+ Quy cách phẩm chất, mẫu mã của sản phẩm như thế nào.
+ Yêu cầu kỹ thuật tay nghề để sản xuất sản phẩm có cao hay không.
+ Công suất dự kiến của dự án là bao nhiêu, có phù hợp với khả năng tài chính và
trình độ quản lý, địa điểm, thị trường tiêu thụ hay khơng.
Cơng nghệ thiết bị:
-
Quy trình cơng nghệ có tiên tiến hiện đại, ở mức độ nào của thế giới.
-
Cơng nghệ này có phù hợp với trình độ hiện nay của Việt Nam hay không,
lý do lựa chọn công nghệ này.
-
Phương thức chuyển giao cơng nghệ có hợp lý hay khơng, có đảm bảo cho
chủ đầu tư nắm bắt và vận hành được công nghệ hay không.
-
Xem xét đánh giá về số lượng công suất quy hoạch chủng loại, danh mục,
máy móc thiết bị và tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất.
-
Trình độ tiên tiến của thiết bị, khi cần thiết phải thay đổi sản phẩm thì thiết
bị này có đáp ứng được hay khơng.
-
Giá cả thiết bị và phương thức thanh tốn có hợp lý, đáng ngờ không.
-
Thời gian giao hàng và lắp đặt thiết bị, các nhà cung cấp thiết bị có chuyên
sản xuất các thiết bị của dự án hay không.
Khi đánh giá về mặt cơng nghệ thiết bị ngồi việc dựa vào hiểu biết, kinh nghiệm
đ• tích luỹ của mình, cán bộ thẩm định cần tham khảo các nhà chun mơn để việc
thẩm định được chính xác và cụ thể hơn.
-
Quy mô và giải pháp xây dựng:
+ Xem xét quy mơ xây dựng, giải pháp kiến trúc có phù hợp với dự án hay khơng,
có tận dụng được các cơ sở vật chất hiện có hay khơng.
+ Tổng dự tốn, dự tốn của từng hạng mục cơng trình, có hạng mục nào cần đầu
tư mà chưa được tích luỹ hay khơng, có hạng mục nào cần thiết hoặc chưa cần
thiết phải đầu tư hay không.
+ Tiến độ thi công có phù hợp với việc cung cấp máy móc thiết bị, có phù hợp với
thực tế hay khơng.
+ Vấn đề hạ tầng cơ sở: Giao thơng, điện, cấp thốt nước…
-
Mơi trường:
+ Xem xét đánh giá các giải pháp về môi trường của dự án có đầy đủ, phù hợp
chưa, đã được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận trong từng trường hợp yêu cầu
phải có hay chưa.
Trong phần này, cán bộ thẩm định cần phải đối chiếu với các quy định hiện hành
về Thẩm định về phương diện tổ chức và quản lý thực hiện dự án
-
Xem xét năng lực uy tín của các nhà đầu tư, thi cơng cung cấp thiết bị, cơng
nghệ.
-
Xem xét kinh nghiệm, trình độ tổ chức vận hành chủ yếu của các nhà đầu
tư, đánh giá sự hiểu biết, kinh nghiệm của khách hàng đối với việc tiếp cận điều
hành công nghệ, thiết bị mới của dự án.
-
Khả năng ứng xử của khách hàng khi thị trường dự kiến biến mất.
-
Đánh giá về nguồn lực của dự án cần địi hỏi về tay nghề, trình độ kỹ thuật,
kế hoạch đào tạo, khả năng cung ứng nguồn nhân lực cho dự án.
Thẩm định về mặt tài chính của dự án.
Thẩm định tài chính DAĐT, đối với NHTM, ngồi mục tiêu đánh giá hiệu quả của
dự án còn nhằm đảm bảo sự an toàn cho các nguồn vốn mà ngân hàng tài trợ cho
dự án. Đó là việc phân tích, xem xét, đánh giá về mặt tài chính của DAĐT bao
gồm một loạt các phương pháp đánh giá hiệu quả tài chính và các chỉ tiêu phân
tích DAĐT. Qua đó đi đến kết luận có đầu tư cho dự án hay khơng.
Trong cơng tác thẩm định tài chính DAĐT, giá trị thời gian của tiền là một trong
những nguyên tắc cơ bản của việc tính tốn các chỉ tiêu, việc thẩm định chi phí và
lợi ích của dự án phải được quy về thời điểm gốc để tiện cho việc so sánh. Thẩm
định tài chính DAĐT ở các NHTM thường được tiến hành với các nội dung sau:
Thẩm định về tổng vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư.
Việc thẩm định tổng vốn đầu tư là rất quan trọng để tránh việc khi thực hiện, vốn
đầu tư tăng lên hoặc giảm đi quá lớn so với dự kiến ban đầu dẫn đến việc không
cân đối được nguồn ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự
án. Xác định tổng vốn đầu tư sát với thực tế sẽ là cơ sở để tính tốn hiệu quả tài
chính và khả năng trả nợ của dự án.
Tổng vốn đầu tư của dự án là tập hợp toàn bộ các khoản chi phí hợp lý góp phần
hình thành nên dự án và đảm bảo cho dự án sẵn sàng đi vào hoạt động.
Vốn đầu tư gồm: Vốn cố định, vốn lưu động, vốn đầu tư và dự phòng:
-
Vốn cố định nhằm tạo ra năng lực mới tăng thêm để đạt mục tiêu DA. Bao
gồm:
+Vốn chuẩn bị đầu tư: gồm các chi phí điều tra, khảo sát, lập, thẩm định DAĐT.
+Vốn chuẩn bị xây dựng: chi phí ban đầu về đất đai(tiền đền bù, giải phóng mặt
bằng, chuyển quyền sử dụng đất…). Chi phí khảo sát, lập và thẩm định thiết kế,
tổng dự tốn. Chi phí đấu thầu hồn tất các thủ tục đầu tư. Chi phí xây dựng đường
điện, nước, lán trại thi công.
+ Vốn thực hiện đầu tư: Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo các hạng mục cơng
trình xây dựng, lắp đặt thiết bị. Chi phí mua sắm thiết bị, vận chuyển, bảo quản.
Chi phí quản lý giám sát thực hiện đầu tư. Chi phí sản xuất thử và nghiệm thu bàn
giao. Chi phí huy động vốn, các khoản lãi vay vốn đầu tư và các chi phí khác
trong thời gian thực hiện đầu tư.
-
Vốn lưu động là khoản vốn đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên sau khi kết
thúc giai đoạn thực hiện đầu tư. Bao gồm:
+Vốn sản xuất: Chi phí nguyên , nhiên vật liệu, điện, nước, phụ tùng thay thế.
+ Vốn lưu động: Thành phần tồn kho, sản phẩm dở dang, hàng hố bán chịu, vốn
bằng tiền.
-
Vốn dự phịng: là tổng mức vốn đầu tư dự tính của dự án cần được xem xét
theo từng giai đoạn của quá trình thực hiện đầu tư.
Trong phần này, cán bộ thẩm định phải xem xét đánh giá tổng hợp vốn đầu tư của
dự án được tính tốn hợp lý chưa, đã tính tốn đủ các khoản cần thiết hay chưa,
cần xem xét yếu tố làm tăng chi phí do trượt giá, phát sinh thêm khối lưọng dự
phòng, việc thay đổi tỷ giá ngoại tệ nếu dự án sử dụng ngoại tệ… Ngoài ra cán bộ
thẩm định cũng cần tính tốn, xác định xem nhu cầu vốn lưu động cần thiêt ban
đầu để đảm bảo hoạt động của dự án sau này nhằm có cơ sở thẩm định các giải
pháp nguồn vốn và tính tốn hiệu quả tài chính sau này.
Trên cơ sở tổng mức vốn đầu tư được duyệt, cán bộ thẩm định rà soát lại từng loại
nguồn vốn tham gia tài trợ cho dự án, đánh giá khả năng tham gia của từng loại
nguồn vốn từ kết quả phân tích tình hình tài chính của chủ đầu tư, để đánh giá khả
năng tham gia nguồn vốn của chủ sở hữu. Chi phí của từng loại nguồn vốn có điều
kiện vay đi kèm của từng loại nguồn vốn. Cân đối giữa nhu cầu vốn đầu tư và khả
năng tham gia tài trợ của các nguồn vốn dự kiến để đánh giá tính khả thi của nguồn
vốn thực hiện dự án.
Thẩm định chi phí sản xuất, doanh thu, lợi nhuận hàng năm của dự án.
Đây là vấn đề quan trọng mà chủ đầu tư và cả ngân hàng đều quan tâm vì nó là
nhân tố phản ánh được dự án lỗ hay lãi. Việc xác định chi phí sản xuất, doanh thu,
lợi nhuận phải tính riêng cho từng năm hoạt động của cả đời dự án.
-
Việc xác định chi phí sản xuất hàng năm gồm: Chi phí về nguyên vật liệu,
nhiên liệu, năng lượng các bán thành phẩm và dịch vụ mua ngoài, chi tiền nước
cho sản xuất, lương và bảo hiểm xã hội…và các khoản khác.
-
Doanh thu hàng năm của dự án gồm: Doanh thu từ sản phẩm chính, sản
phẩm phụ, tiền thu từ việc cung cấp dịch vụ cho bên ngoài; các khoản tiền thu
khác. Sau khi xác định được nguồn thu và nguồn chi trong kỳ, ngân hàng phải xác
định dòng tiền rịng hàng năm của dự án theo cơng thức:
NCFi= Bi - Ci
Trong đó, Bi là nguồn thu năm thứ (i)
Ci là nguồn chi năm thứ (i)
NCFi là dòng tiền ròng hàng năm của dự án năm thứ (i)
Trên cơ sở dó tiến hành thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án.
Chỉ tiêu giá trị hiện tại rịng của dự án. NPV (Net Present Value)
•
NPV
= * (1+r) - * (1+r)
Trong đó: NPV: là giá trị hiện tại
Bi: thu nhập năm thứ (i) của dự án
Ci: chi phí năm thứ (i) của dự án
r: lãi suất (tỉ lệ chiết khấu của dự án)
n: thời gian đầu tư vào hoạt động của dự án
i: năm thứ (i) của dự án
Giá trị hiện tại ròng của dự án là chênh lệch giữa thu và chi của dự án đầu tư tại
thời điểm hiện tại. NPV cho biết quy mô tiền lời của dự án sau khi đã hoàn chỉnh
vốn đầu tư. Khi tính tốn chỉ tiêu này phải dựa trên cơ sở xác định giá trị hiện tại,
tức là phải chiết khấu các dòng tiền xảy ra vào các năm khác nhau của dự án.
Nếu NPV = 0 nghĩa là các luồng tiền của dự án chỉ vừa đủ để hoàn vốn đầu tư và
cung cấp 1 tỉ lệ lãi suất yêu cầu cho khoản vốn đó.
Nếu NPV > 0 nghĩa là dự án tạo ra nhiều tiền hơn lượng cần thiết để trả nợ và cung
cấp 1 lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư. Số tiền vượt q đó thuộc về nhà đầu tư. Vì
thế khi thực hiện một dự án có NPV > 0 thì ngân hàng sẽ dễ dàng chấp nhận cho
vay.
Chỉ tiêu NPV chỉ được dùng để lựa chọn phương án về mặt tài chính. Trong
trường hợp có nhiều dự án loại trừ nhau thì dự án nào có NPV lớn nhất sẽ được lựa
chọn. Do NPV phụ thuộc vào tỉ suất chiết khấu nên để đạt được hiệu quả thì ta
phải xác định thu, chi một cách chính xác.
Tỷ suất thu hồi nội bộ của dự án IRR (Internal Rate of Return)
Tỷ suất thu hồi nội bộ là tỷ suất chiết khấu mà ứng với nó tổng giá trị hiện tại thu
nhập bằng tổng giá trị hiện tại chi phí (tức NPV = 0).
+ Cơng thức:
=
+ Phương pháp tính: Dùng nội suy tốn học theo 3 bước:
-
Lập cơng thức tính NPV với r là ẩn số.
-
Chọn r1, r2 sao cho r2 > r1 và r2 - r1
5%
Thay vào đó để tìm NPV1 và NPV2 sao cho NPV1 > 0 và NPV2< 0 vì IRR làm
cho cân bằng giữa các giá trị hiện tại của thu nhập và giá trị hiện tại của chi phí của
dự án, cho nên với một mức chi phí > IRR thì dự án sẽ bị lỗ vốn và khơng có tính
khả thi. Ngược lại với chi phí vốn IRR thì dự án mới khả thi. Trong thực tế diễn ra
hai trường hợp:
-
Đối với dự án độc lập thì Điều kiện lựa chọn IRRDA > IRR định mức.
Nếu dự án sử dụng nguồn vay thì IRR lãi suất tiền vay NH.
-
Cũng có thể so sánh IRR tính tốn với IRR của những dự án tương tự đã và
đang được thực hiện.
Thời gian hoàn vốn đầu tư (T) của dự án:
Thời gian hoàn vốn là số năm cần thiết để cho tổng giá trị hiện tại thu hồi bằng
tổng giá trị hiện tại của vốn đầu tư.