Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Nhận thức tầm quan trọng của việc bảo hiểm hàng hóa trong các tai nạn không dự đoán trước docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.96 KB, 45 trang )


Lời mở đầu
Những năm gần đây, công cuộc đổi mới của Chính phủ với việc chuyển nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đ• mở ra cơ hội kinh doanh,
làm ăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài và góp phần đẩy nhanh tiến trình tư
nhân hoá tại Việt Nam. Một trong những vấn đề đang được các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế quan tâm là bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài
sản nói riêng do vai trò quan trọng của chúng trong việc bảo toàn vốn, hình thành
tâm lý ổn định, an tâm cho người được bảo hiểm trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Đây cũng là mối quan tâm lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam,
nhất là từ khi thị trường bảo hiểm đã chuyển từ "thị trường của người bán" thành
"thị trường của người mua". Vấn đề nghiên cứu, cải tiến, áp dụng và triển khai
các loại hình bảo hiểm mới đang trở thành một trong những chiến lược quan
trọng mà các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh trên thị trường.
Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng như những ai đang nghiên cứu, học tập
trên lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm Hoả hoạn đã không còn xa lạ. Tuy nhiên,
làm thế nào để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý luận và thực tế triển khai loại
hình này cho phù hợp với điều kiện Việt Nam mà vẫn đáp ứng được với nhu cầu
ngày càng đa dạng và phức tạp của các doanh nghiệp đang là câu hỏi lớn đặt ra
với tất cả các công ty bảo hiểm hoạt động tại Việt nam. Chính vì vậy, em đã chọn
đề tài “Bảo hiểm hoả hoạn thực trạng- giải pháp đối với Tổng Công ty Bảo Việt “
làm nội dung nghiên cứu.
Mục đích của đề tài nhằm tập hợp, hệ thống hoá các nguyên tắc lý luận được
áp dụng chung trong loại hình Bảo hiểm Hoả hoạn, các đặc điểm riêng biệt của
loại hình, cũng như những công tác cần thiết trong việc triển khai nghiệp vụ.
Ngoài ra, đề tài cũng dành một phần đề cập đến thực tế tình hình triển khai
nghiệp vụ tại Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam - công ty bảo hiểm đầu tiên tiến
hành loại hình bảo hiểm mới mẻ này trong những năm vừa qua.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bản luận văn bao gồm 3 chương với
những nội dung cơ bản sau:


Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện đề tài này, chúng tôi đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình thiết thực của Thầy giáo hướng dẫn Thân Danh
Phúc và một số cán bộ công tác tại Phòng Bảo hiểm Hoả hoạn và Kỹ Thuật thuộc
Tổng Công ty Bảo hiểm Hà Nội. Xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn về sự giúp
đỡ quý báu đó.
Bản chuyên đề này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những khiếm
khuyết trong biên tập và trình bày. Rất mong được sự góp ý và phê bình của
thày giáo và các bạn đồng nghiệp.
Sinh viên thực hiện: Tạ Quang Tuấn
Chương I
Một số cơ sở lý luận về bảo hiểm hoả hoạn trong nền kinh tế thị trường
I. Vài nét về lịnh sử bảo hiểm hoả hoạn
Hiệp hội bảo hiểm hoả hoạn lần đầu tiên ra đời trên thế giới là ở Đức năm
1591 mang tên Feuer Casse. Một thời gian ngắn sau đó xuất hiên thêm vài Công
ty nữa nhưng không để lại dấu ấn gì lớn cho tới giữa thế kỷ 17. Năm 1666 đẫ xẩy
ra một vụ Hoả hoạn khủng khiếp ở Lôn Đôn. Vụ Hoả hoạn kéo dài năm ngày.
Thiêu huỷ gần như toàn bộ thành phố đã kích thích sự ra đời của bảo hiểm hoả
hoạn. Một nhà vật lý người Anh tên là NICHOLAS BARBEN chuyển nghạch
sang lĩnh vực xây dựng trong thời gian xây dựng lại thành phố đã đồng thời cũng
bắt đầu bảo hiểm hoả hoạn cho các ngôi nhà mới xây dựng. Ban đâu ông điều
khiển Công ty theo kiểu Công ty tư nhât nhưng sau đó năm 1680 ông đổi thành
Công ty cổ phần mang tên là “ The Fire Office “. Một số Công ty khác cũng theo
đó ra đời trong đó có Hand in Hand năm 1696 và Sun Fire Office năm 1710.
Công ty bảo hiểm đầu tiên thành công ở Mỹ là Công ty bảo hiểm tương hỗ, do
Benfamir Franklin và một số thành viên khác sáng lập năm 1752, mang tên là
The Philadenphia Contributionship chuyên bảo hiểm Hoả hoạn cho nhà cửa.
Công ty bảo hiểm cổ phần đầu tiên ở Mỹ mang tên là The insurance company of
Noth America được thành lập năm 1792.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế. Bảo hiểm hoả hoạn đã phát triển mạnh mẽ và trở
thành nghiệp vụ truền thống với phí thu hàng năm rất cao. ở Nhật, số phí bảo

hiểm hoả hoạn thu hàng năm 1993 là 1.017.008 triệu yên ( trên 10 tỷ đô la)
chiếm 15,5% doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm phí nhân thọ.
II . Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm hảo hoạn
Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung vật tư,
hàng hoá rất lớn, quy trình công nghệ ngày càng phức tạp và những loại máy
móc hiện đại sẽ được phổ biến hơn. Trong khi đó, khoa học kỹ thuật an toàn
thường đi sau, nguồn vốn sử dụng cho các biện pháp an toàn thường rất thấp so
với vốn đầu tư phát triển sản xuất thêm vào đó điều kiện tự nhiên ngày càng khắc
nghiệt và đã khiến cho khả năng xảy ra rủi ro tai nạn nhiều hơn so với mức độ
thiệt hại về người và của nghiêm trong hơn.

Chỉ tính riêng hoả hoạn mỗi năm nước ta xẩy ra hàng nghìn vụ Hoả hoạn nổ, làm
chết hoặc bị thương hàng trăm người, thiệt hại về tài sản hàng chục tỷ đồng. Có
những vụ Hoả hoạn làm thiêu huỷ hàng trăm nóc nhà, toàn bộ khu chợ lớn hoặc
cả một cơ sở sản xuất kinh doanh hàng chục tỷ đồng, làm cho hàng nghìn người
không còn nhà ở hàng nghìn hộ kinh doanh phải điêu đứng vi mất hết toàn bộ
hàng hoá, tiền của , không còn chỗ kinh doanh làm cho hàng trăm công nhân
không còn nơi làm việc. Số liệu thống kê về hoả hoạn ở Việt Nam của cục cảnh
sát phòng Hoả hoạn chữa Hoả hoạn trong 5 năm 1998-2003 như sau:
Bảng 1_ Hoả hoạn ở Việt Nam trong năm 1998-2002
Năm Số vụ Địa điểm Nghành kinh tế Thiệt hại
Thành phố Nông thôn Nhà nước Tập thể Tư nhân
Liên doanh Chết Thương tật Tài sản(tỷ đồng)
1998 949 678 270 273 60 619 4 47 111 40019
1999 941 657 284 238 39 664 7 65 110 43418
2000 1026 670 356 277 44 704 3 127 465 86218
2001 1055 750 305 199 27 825 2 88 215 215102
2002 1091 720 372 226 33 830 5 105 140 92660
Vậy làm thế nào doanh nghiệp trách được tổn thất bảo toàn nguồn vốn kinh
doanh của mình? Thực ra nó còn nhiều biên pháp sử dụng như sử dụng các biện

pháp an toàn, thành lập quỹ dự trữ đề phòng xẩy ra tổn thất Trước đây chúng ta
có một vài Công ty bảo hiểm hoả hoạn tại miền Nam trong thời kỳ Pháp thuộc
song sang năm 1975 do cơ chế bao cấp, nhà nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại,
bảo đảm tài chính cho các doanh nghiệp khi không may gặp rủi ro nên bảo hiểm
nói chung và bảo hiểm hoả hoạn nói riêng không có mảnh đất phát triển. Trong
điều kiên nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường hiên nay các doanh nghiệp
phải tự chủ về nguồn tài chính, tham gia bảo hiểm tài sản mà cụ thể là bảo hiểm
Hoả hoạn vẫn là phương án tối đa.
Theo quy tắc bảo hiểm Hoả hoạn hiện nay vẫn sử dụng ở các Công ty bảo
hiểm trong nước, người tham gia bảo hiểm có thể tham gia đăng ký bảo hiểm cho
những tài sản như nhà của trang thiết bị hàng hoá, nguyên vật liệu của
mình Ngoài Hoả hoạn là rủi ro chính họ còn đăng ký cho các rủi ro phụ như nổ,
giông bão, động đất nước chảy hay rò rỉ tràn từ bể chứa đường ống hoặc thiết bị
chữa Hoả hoạn, xe cộ hay súc vật đâm vào Trong trương hợp xẩy ra tổn thất,
các Công ty bảo hiểm bồi thường cho những thiệt hại trực tiếp từ các nguyên
nhân kể trên và cả những chi tiết cần thiết hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản
được bảo hiểm trong và ngay khi chấy.
Tuy nhiên Hoả hoạn không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến cho con người và
tài sản mà nó còn để lại những thiệt hại và tổn thât khổng lồ cho các doanh
nghiệp. Trên thực tế sau khi Hoả hoạn hoạt động sản xuất không thể phát triển
theo kế hoạch kinh doanh đặt ra, các doanh nghiệp sẽ mất khoản lợi nhuận do
nhà xưởng, máy móc bị hư hại. Để tránh bị phá sản họ phải tiến hành các biện
pháp khôi phục lại sản xuất. Bên cạch việc duy trì chi trả tiền lương cho nhân
công và thanh toán các chi phí cố định như tiền thuê nhà xưởng, khấu hao, điện
nước lãi xuất ngân hàng các doanh nghiệp còn phải thuê thêm nhân viên làm việc
thêm giờ để hoàn tất đơn đặt hàng tồn đọng Rõ ràng những khám phá này
không được bồi thường theo đơn bảo hiểm Hoả hoạn.
Để đáp ứng được các khoản chi phí trên, nhiều doanh nghiệp đã sử dụng các
quỹ dự trữ, hoặc vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức cho vay khác, song các
phương pháp này hoàn toàn thụ động . Một biện pháp hiện nay đang khẳng định

tính ưu việt với các nhà đầu tư nước ngoài đó là tham gia bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh. Với loại hình này, các doanh nghiệp không những được bồi thường
tài chính cho các khoản chi phí nói trên mà còn được bù đắp phần lợi nhuận ròng
bị mất mát mà lẽ ra họ được mà không bị tổn thương. Như vậy có thể nói rằng
bảo hiểm hoả hoạn đã hạn chế tối thiểu mức ảnh hưởng của các rủi ro tới hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Bằng việc đóng góp một khoản phí nhỏ ( thường là một phần ngàn giá trị của
tài sản) người được bảo hiểm có thể đầu tư tối đa và triệt để nguồn vốn nhàn rỗi
cho phát triển hoạt động sản xuất, bởi họ không phải trích lập quỹ dự phòng
trường hợp xẩy ra rủi ro và quan trọng hơn, bên cạnh việc được bồi thường khi
xẩy ra tổn thất họ có một tâm lý an tâm khi tiến hành công việc kinh doanh của
mình.
Tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp còn được các Công ty tư vấn về các
biện pháp phòng trách tổn thất, tăng cường biện pháp phòng Hoả hoạn chữa Hoả
hoạn và thực hiện chính sách quản lý rủi ro nhằm đảm bảo sự an toàn cao nhất.
Bên cạnh việc mang lại lợi ích trên cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoả hoạn
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế. Bời vì
thông qua việc hướng dẫn các doangh nghiệp thực hiện những biện pháp an toàn,
các Công ty bảo hiểm góp phần hạn chế tổn thất tai nạn giúp khách hàng của họ
có điều kiện thúc đẩy mở rộng sản xuất như mong muốn. Mặt khác, một phần
không nhỏ khoản phí thu được từ loại hình này được Công ty bảo hiểm đóng góp
vào ngân sách nhà nước để chính phủ sử dụng các mục đích xã hội.
III. Việc thực hiện bảo hiểm hoả hoạn ở Việt Nam
ở Việt Nam bảo hiểm hoả hoạn bắt đầu được thực hiện từ năm 1989 sau khi
có quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/1/1989 của bộ trưởng bộ tài chính ban hành
quy tắc về bảo hiểm hoả hoạn. Sau một thời gian thực hiện để phù hợp hơn với
tình hình thực tế, Bộ tài chính lại có quyết định số 142/TCQĐ ban hành quy tắc
và biểu phí mới và quyết định số 212/TCQĐ ngày 12/4/1993 ban hành biểu phí
và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt với các mức phí tối đa thay cho biểu
phí bảo hiểm hoả hoạn theo quyết định số 142/TCQĐ.

Đến nay bảo hiểm hoả hoạn đã được thực hiện trong khắp cả nước. Nếu như
năm 1991 số đơn vị hoả hoạn cấp ra mới chỉ có 413 thì tới năm 1994 con số này
đã lên tới 2000 giá trị tài sản năm 1991 là 1000 tỷ đồng thì năm 1992 trên 4000
tỷ, năm 1993 là 7000 và năm 1994 trên 14000 tỷ đồ
ng. Số tiền bảo hiểm phí tương ứng của các năm đó là 4,5 tỷ, 10,2 tỷ, 21,3 tỷ và
3902 tỷ. Bảo việt cũng phải chi bồi thường thiệt hại nhiều vụ Hoả hoạn lớn như
Công ty giầy Hiệp Hưng trên 10 tỷ, Công ty dược Đồng Tháp 4,5 tỷ đồng, chợ
đồng xuân trên 8 tỷ đồng, Công ty sản xuất và xuất khẩu sông Bé gần 18 tỷ
đồng Có thể nói rằng bảo hiểm hoả hoạn đã dần dần đi vào tiềm thức của con
người Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi tất yếu của xã hội và ngày càng củng cố vững
chắc vị trí quan trọng của mình trong cơ cấu chung của nghành bảo hiểm Việt
Nam.
Từ khi bắt đầu bảo hiểm hoả hoạn tới nay. Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam
đ•ã tổ chức nhiều đợt tập huấn nghiệp vụ, đã làm nhiều văn bản tài liệu hưỡng
dẫn. Tuy nhiên số người trực tiếp tham gia tập huấn không phải là nhiều, tài liệu
hướng dẫn cũng rải rác, không tập trung hơn nữa theo thời gian bản thân những
tài liệu đã ban hành trở nên lại lạc hậu đòi hỏi phải hoàn thiện bổ xụng thêm.
Ngay cả quan điểm biện pháp thực hiên nghiệp vụ cũng có sự thay đổi căn
bản. Nếu như trước đây chúng ta tiến hành bảo hiểm trong điều kiên độc quyền
thì nay hoàn toàn ngược lại chúng ta phải cạnh tranh với nhiều đối thủ trong và
ngoài nước, hiệu quả kinh doanh đã trở thành thước đo quan trọng cho hoạt động
của Công ty. Điều đó phải đòi hỏi các cán bộ nghiệp vụ, ngoài các phẩm chất
khác của người bán hàng, phải hết sức nhanh nhậy trong việc đưa ra các tỷ lệ phí
có sức cạnh tranh nhưng phải đáp ứng đúng chuẩn mực quy định để đảm bảo
kinh doanh có lãi và đáp ứng yêu cầu của nhà nhận tái bảo hiểm. Đông thời cùng
với việc mở rộng kinh doanh, chúng ta cũng phải chú ý đến việc kiểm soát sự
tích tụ rủi ro, nhất là các rủi ro thiên tai như bão, lũ lụt để tránh các trường hợp
tồn thất hàng loạt. Trong việc giải quyết bồi thường cũng phải đảm bảo chính
xác, đúng điều kiện của đơn bảo hiểm và nhanh chóng hơn. Mặt khác người bảo
hiểm cũng phải tăng cường công tác quản lý rui ro, cùng với khách hàng làm tốt

công tác hạn chế tổn thất
Xuất phát từ thực tế đó Công ty Bảo Việt đã khai thác tốt thị trường bảo
hiểm trong nước về lĩnh vực bảo hiểm hoả hoạn. Do đó những năm gần đây
doanh số của phòng bảo hiểm hảo hoạn tăng từ đó làm tăng doanh thu của Công
ty Bảo Việt.
IV. Một số khái niệm cơ bản
1. Rủi ro có thể lựa chọn để bảo hiểm
Mỗi rủi ro có thể được nêu thành tên riêng. Hầu hết các Công ty trên thế giới
đều chấp nhận áp dụng các phương pháp tiêu chuẩn khi cấp đơn bảo hiểm và lưu
trữ, sử dụng số liệu các rủi ro này được đưa vào phụ lục của “ Quy tắc bảo hiểm
hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt”.
Dùng áp dụng mẫu đơn bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tiêu chuẩn
của thị trường bảo hiểm Lôn Đôn ( standard Fire and Special Perils Policy) hay (
Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt” của Việt Nam thì rủi ro chính
được bảo hiểm thì cũng là bảo hiểm hoả hoạn. Rủi ro A còn có rủi ro B- nổ, C-
máy bay và rơi vào, E- nổi loạn bạo động dân sự được coi là các rủi ro phụ.
Các rủi ro phụ đó không được bảo hiểm riêng mà chỉ có thể bảo hiểm cùng với
rủi ro hoả hoạn. Các rủi ro phụ đó cũng không được bảo hiểm một cách tự động
mà chỉ được bảo hiểm khi khách hàng yêu cầu với điều kiện phải đóng thêm phí
và phải được ghi rõ trong giấy yêu cầu và giấy chứng nhận bảo hiểm.
Dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số rủi ro cơ bản dễ gây hiểu lầm còn các
rủi ro khác thì hiểu theo tên gọi của chúng
Hoả hoạn
Rủi ro này thực chất bao gồm 3 phần: Hoả hoạn , sét và nổ.
• Hoả hoạn : Trong đơn bảo hiểm Hoả hoạn tiêu chuẩn không định nghĩa rõ
thế nào là hoả hoạn vì người ta hiểu nó theo nghĩa thông dụng nghĩa là sẽ được
coi là hoả hoạn nếu có đủ 3 yếu tố sau đây
- Phải thực sự có phát lửa
- Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng
- Về vật chất đám lửa phải bất ngờ ngẫu nhiên với người được bảo hiểm

chứ không phải là cố ý có chủ định của họ hoặc đồng loã của họ. Tuy nhiên hoả
hoạn được xẩy ra do bất cẩn của người được bảo hiểm vẫn thuộc phạm vi được
bồi thường.
Khi có đầy đủ 3 yếu tố trên và co thiệt hại về vật chất do những nguyên nhân
được coi là hợp lý gây ra những thiệt hại đó được bồi thường dù cho là bị Hoả
hoạn.
Mặc dù không được nêu rõ trong đơn bảo hiểm nhưng thiệt hại do hoả hoạn
ở đây bao gồm có:
- Thiệt hại do khói mà nguồn lửa gây ra thuộc phạm vi thuộc trách nhiệm
bảo hiểm
- Thiệt hại do nước dùng để chứa Hoả hoạn
- Thiệt hại do phá rỡ để ngăn chặn Hoả hoạn lan
- Thiệt hại do việc thực hiện nhiệm vụ chữâ Hoả hoạn
- Thiệt hại mà người được bảo hiểm phải gánh chịu do việc bảo vệ tài sản
và kiểm soát sự phát triển của ngọn lửa.
Tuy vậy hoả hoạn ở đây loại trừ:
- Nổ ro ảnh hưởng của hoạ hoạn
- Động đất ngầm
- Tài sản bị phá huỷ hay hư hỏng do
+ Do bị lên men hoặc toả nhiệt
+Quá trình sử lý bằng nhiệt
Việc loại trừ này nhằm thống nhất khái niệm hoả hoạn được dùng trong toàn bộ
đợn vị bảo hiểm bằng những rủi ro phụ riêng biệt
• Nổ : Theo rủi ro hoả hoạn, phạm vi bảo hiểm bao gồm:
Các trương hợp hoả hoạn do nổ ngẫu nhiên được bảo hiểm như vậy ở đây chỉ
có những thiệt hại do nổ mà không gây Hoả hoạn vấn đề còn lại là:
- Tổn thất và thiệt hại do nổ nhưng không gây chay thì không được bồi
thường trừ trương hợp nổ nồi khơi khí phục vụ cho sinh hoạt, với điều kiện vụ nổ
đó không phải do các nguyên nhân bị loại trừ
- Tổn thất do chay xuất phát từ nổ thì được bồi thường với điều kiện là sự

nổ không phải do các nguyên nhân bị loại trừ
- Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ Hoả hoạn: Thiệt hại ban đầu do
Hoả hoạn được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ thì không
• Sét : Theo khái niệm thông thường được áp dụng trong đơn bảo hiểm là
người được bảo hiểm sẽ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ trực tiếp do sét
hoặc bị sét đánh gây Hoả hoạn. Tuy nhiên, cũng theo khái niệm thông thường thì
sét đánh mà không phát lửa hoặc khônng pha huỷ trực tiếp tài sản thì không
thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường.
ở đây cần lưu ý trừ khi trừ khi tia sét phá huỷ trực tiếp các thiết bị điện được bồi
thường, còn tia sét làm thay đổi dòng điện dẫn tới thiệt hại cho thiết bị điện thì
không được bồi thường.
2. Cụm rủi ro
Một nhóm những ngôi nhà hoặc kho tàng ngoài trời ở liền kề nhau trong một
khu vực, tách biệt với những ngôi nhà kho tàng ngoài trời khác về không gian
Các ngôi nhà hoặc kho tàng ngoài tời được coi là tách biệt nhau về không gian
nếu khoảng cách giữa chúng là khoảng cách tối thiểu. Khoảng cách tối thiểu là
khoảng cách tính bằng chiều cao của ngôi nhà cao nhất hoặc vượt quá 20m nếu
tài sản là loại dễ Hoả hoạn và qua 10m nếu tài sản là loại không Hoả hoạn hoặc
khó Hoả hoạn. Khoảng cách trên 20m được coi là tách biệt về không gian.
3. Đơn vị rủi ro
Một số ngôi nhà, bộ phận của nhà kho ngoài trời liền nhau nhưng tách biệt
với các ngôi nhà, bộ phận nhà kho ngoài trời khác về không gian hoặc cấu trúc.
Đơn vị rủi ro được coi là tách biệt về không gian khi khoảng cách giữa các
ngôi nhà hoặc kho ngoài trời bằng vật liệu không Hoả hoạn đảm bảo 10m.
Đối với kho ngoài trời bằng vật liệu dễ Hoả hoạn, khoản cách đó phải đảm
bảo 20.
Đơn vị rủi ro được coi là cách biệt về mặt cấu trúc nếu các ngôi nhà bộ phận
nhà hoặc kho được ngăn bằng tường chống Hoả hoạn.
Phong được ngăn cách chống Hoả hoạn nếu:
- Không lớn hơn 10% diện tích có tầng bằng phòng đó

- Được ngăn cắt bằng tường chông Hoả hoạn
- Trần làm bằng vật liệu không Hoả hoạn.
4.Tương ngăn Hoả hoạn.
Là tường ngăn Hoả hoạn để chia ngôi nhà hoặc kho ngoài trời thành nhiều
đơn vị rủi ro
Đặc điểm xây dựng của tường ngăn Hoả hoạn:
- tường ngăn Hoả hoạn phải có giới hạn chiu lửa ít nhất 90 độ
- Phải được xây kín các tầng và không được so le nhau
- Nếu mái nhà là loại khó Hoả hoạn thì tường ngăn Hoả hoạn phải cách mái
nhà ít nhất là 30m
- Nếu có các cấu kiện khác nằm trong tường ngăn Hoả hoạn phân độ dầy
còn lại cũng phải đảm bảo giới hạn chịu lửa tối thiếu
- Không được để vật liệu cấu kiện dễ Hoả hoạn vắt nganh qua tường ngăn
Hoả hoạn.
- Tường ngăn Hoả hoạn phải xây cách những lỗ hở trên mái ít nhất 5m.
V. Đánh giá rủi ro
Đánh giá rủi ro là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong công
tác quản lý rủi ro. Có làm tốt công công việc đánh giá rủi ro thì mới có thể thực
hiện đựơc công tác quản lý rủi ro. Đối với người khai thác bảo hiểm việc đánh
giá rủi ro sẽ giúp họ quyết định có nhận bảo hiểm hay không, mức phí bao nhiêu.
Tài liệu về định giá rủi ro coi như báo cáo của họ trong hồ sơ về khách hàng, nó
cũng là tài liệu để báo cáo cho các nhà nhận bảo hiểm và cũng là cơ sở đối chiếu
khi giải quyết bồi thường.
Nếu việc điều tra đánh giá rủi ro được thực hịên một cách đầy đủ, kỹ lưỡng,
kết hợp với bảng hưỡng dẫn tính phí hoặc sử dụng chương trình tính phí bảo
hiểm trên máy vi tính, cán bộ khai thác hoàn toàn có thể tính toán ngay được một
cách chính xác tỷ lệ phí. Điều này giúp cho việc chủ động, nhanh chóng trong
khai thác, trách được tình trạng phải tham khảo, hỏi han, tốn kém mất thời giờ.
Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn tại Bảo Việt
I. Thị trường bảo hiểm Việt Nam - Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ bảo

hiểm Hoả hoạn
Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam ( gọi tắt là Bảo Việt ) được thành lập từ
ngày 15.1.1965 theo Quyết định số 179/CP ngày 17.12.1964 của Thủ tướng
Chính phủ, là doanh nghiệp nhà nước duy nhất hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo
hiểm. Bảo Việt có nhiệm vụ thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ sự đóng góp, tham
gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Từ năm 1981, Bảo Việt đã thành lập các công ty chi nhánh ở các tỉnh, địa
phương để tiến hành các dịnh vụ bảo hiểm. Hoạt động của các chi nhánh không
những giúp Bảo Việt triển khai bảo hiểm trên phạm vi cả nước mà còn hình
thành một mạnh lưới đảm bảo an toàn tài chính cho toàn bộ người được bảo
hiểm.
Trong hơn 30 năm qua, ở Việt nam từ "bảo hiểm " đồng nghĩa với "Bảo
Việt " và ngược lại lúc nào người ta cũng nghĩ rằng chỉ duy nhất có một công ty
bảo hiểm hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó có lý do của nó. Ngoài sự
hiện diện và đóng góp của Bảo Việt đối với nền kinh tế, xã hội và với mỗi gia
đình, trong suốt thời gian qua không thấy nói đến một tên công ty bảo hiểm nào
khác.Với đường lối mở của của nhà nước, trong cơ chế thị trườngthì việc Nhà
nước dộc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm ( kể cả trên danh nghĩa) là điều khó có
thể chấp nhận. Chính vì thế nên ngày 18-12-1993 Nghị định 100/CP của Chính
Phủ đã ra đời cho phép các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài được
thành lập các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, mở chi nhánh
công ty nước ngoài tại Việt Nam.
Tại Bảo Việt, các nghiệp vụ bảo hiểm như bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu đã được tiến
hành từ lâu và đã trở thành những nghiệp vụ bảo hiểm truyền thống. Song đến
năm 1989, Bảo Việt mới chính thức triển khai bảo hiểm Hoả hoạn theo Quyết
định 06/TCQĐ của Bộ Tài chính.
Năm 1990, trên cả nước đã có 16 công ty bảo hiểm tiến hành nghiệp vụ
này. Tuy nhiên nhìn chung mới chỉ bảo hiểm cho các nghành xăng, dầu còn lại
phần lớn các tài sản, các nhà máy, xí nghiệp, công xưởng, hệ thống khách sạn từ

Nam ra Bắc trị giá nhiều tỷ đồng vẫn chưa được bảo hiểm. Có nhiều nguyên
nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến việc ngành bảo hiểm chưa triển khai
được toàn diện. Nguyên nhân cơ bản là chúng ta đã quá quen với cơ chế bao cấp,
Hoả hoạn và rủi ro xảy ra đã có Nhà nước bù đắp thiệt hại còn các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác thì chưa có thói quen tham gia bảo hiểm tài
sản. Bên cạnh đó về chủ quan, công tác tuyên truyền, vận động thu hút khách
hành của nghành bảo hiểm còn nhiều hạn chế.
Sau một năm thực hiện, một yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải có quy
định chung hướng dẫn về bảo hiểm Hoả hoạn. Vì vậy ngày 2. 5.1991, Bảo Việt
đã ban hành Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt áp dụng trên cả
nước. Nghiệp vụ này ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của nó đặc
biệt là sau khi Hội đồng bộ trưởng ra quyết định số 332/ HĐBT ngày 23. 10 1991
về việc bảo toàn, phát triển vốn kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước. Bên
cạnh đó, thông tư số 82/TC/CN hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quyết định trên
của HĐBT : " Để tránh các trường hợp không bảo toàn được vốn do nguyên
nhân khách quan như thiên tai, rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh tránh
các trường hợp phải xử lý giảm vốn và đưa lỗ vào doanh nghiệp, các doanh
nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó
tại các công ty bảo hiểm Việt nam. Khoản chi về bảo hiểm được hạch vào giá
thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không cho ghi giảm
vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà công ty bảo hiểm
trong nước triển khai loại hình bảo hiểm tương ứng ".
II Các hoạt động trong bảo hiểm hoả hoạn
Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, nghiệp vụ bảo hiểm
Hoả hoạn gồm các bước cơ bản sau :
- Khai thác
- Giám định
- Bồi thường
- Hạn chế tổn thất
Các bước này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Kết quả của bước này

ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của các bước tiếp sau nó và làm thành một chu
trình hoạt động của một nghiệp vụ.
1. Công tác khai thác bảo hiểm
Đây là bước đầu tiên và không thể thiêú trong nghiệp vụ bảo hiểm. Công
tác khai thác đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển một công ty. Khách
hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết rằng mua bảo hiểm họ sẽ được
lợi gì. Do đó mà công việc tuyên truyền, quảng cáo trong bước này là cần thiết và
nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đồi với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn -
nghiệp vụ mà chưa có tập quán ở nước ta
1.1 Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng
Hàng năm Bảo Việt kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan như :
cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các Bộ, nghành để tuyên
truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm Hoả hoạn. Qua đó mới có thể thuyết
phục được khách hàng mua bảo hiểm.
Mặt khác, công ty cử cán bộ xuống từng xí nghiệp, đơn vị kinh doanh để
giải thích, vận động mua bảo hiểm chứ không thụ động ngồi chờ khách hàng
hoặc chỉ gửi các công văn, quy tắc cho họ trả lời vì khách hàng rất ngại đọc. Một
phần vì khó hiểu, một phần vì không nhận thức được hết ý nghĩa, tác dụng của
bảo hiểm.
Cán bộ bảo hiểm cần chủ động đến gặp khách hàng, cùng họ đi thăm cơ
sở sản xuất, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ , chỉ cho họ thấy những rủi ro
mà họ có thể gặp phải và những hậu quả của nó. Cán bộ bảo hiểm giải thích rõ
cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm họ được gì và mất gì, ước tính số phí mà
họ phải trả, giải đáp những vấn đề mà họ còn thắc mắc, chưa hiểu rõ, gây cho họ
lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm. Kinh nghiệm cho thấy rằng, hướng tuyên
truyền vận động nên tập trung vào những đối tượng "ăn nên làm ra ", có của ăn
của để. Vì thế, Bảo Việt đã chú ý đến các đơn vị, doanh nghiệp lớn có khả năng
tài chính khai thác như : Công ty liên doanh về các thiết bị viễn thông COMVIK
đã mua bảo hiểm với số tiến bảo hiểm là 19000000 $, mức phí là 47500 $ ; công
ty liên doanh INDOCHINA CERAMIC sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị

nội thất đã mua với số tiền bảo hiểm là 12250000 $, mức phí là 20825 $.
Để tìm ra các doanh nghiệp "ăn nên làm ra" không phải là khó, cán bộ
khai thác nên chú ý theo dõi quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng
(báo chí, phát thanh, truyền hình ) đồng thời phải có sự phối hợp với các ngân
hàng, cơ quan khác để nắm bắt được đối tượng.
1.2 Đánh giá rủi ro
Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy yêu
cầu bảo hiểm với mục đích giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với các đối
tượng bảo hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp tương ứng với các
rủi ro mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Để có cơ sở đáng giá đúng rủi ro, thông thường công ty bảo hiểm sẽ gửi
cho khách hàng bản phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi). Qua phần trả lời
khách hàng trong phiếu điều tra, các công ty bảo hiểm sẽ xác định được bậc chịu
lửa của công trình, loại PCCC (các thiết bị PCCC được trang bị, đội cứu hoả, bảo
vệ ), hạng sản xuất (với đơn vị sản xuất), loại kinh doanh dịch vụ ( với đơn vị
kinh doanh dịch vụ ), mức độ nguy hiểm với các tài sản để trong kho, cửa hàng,
từ đó xác định mức phí thích hợp.
Tuy nhiên trên thực tế, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi đánh giá
rủi ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo hiểm sẽ đến
làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực tế kỹ hơn, hướng
dẫn khách hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra, cùng cộng tác với cảnh
sát PCCC đánh giá thực tế về công tác PCCC, phương tiện chuyên môn (khách
hàng cần những phương tiện PCCC nào, bố trí ở đâu, với số lượng là bao
nhiêu ). Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuân với
khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng.
Như vậy công tác đánh giá rủi ro có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó yêu
cầu cán bộ bảo hiểm không những phải giỏi chuyên môn mà còn phải có sự năng
động, tận tình và cẩn thận.Trong bảo hiểm Hoả hoạn, khâu đánh giá rủi ro là
khâu quyết định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như việc đưa ra mức phí phù
hợp.

1.3 Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm)
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy
chứng nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí. Giấy
chứng nhận bảo hiểm Hoả hoạn bao gồm :
- Số đơn bảo hiểm
- Tên, địa chỉ người được bảo hiểm
- Ngành sản xuất kinh doanh
- Những rủi ro được bảo hiểm
- Tài sản dược bảo hiểm
- Tổng giá trị tài sản
- Số tiền bảo hiểm
- Chi phí dọn dẹp hiện trường
- Mức miễn thường
- Thời hạn bảo hiểm
- Phí bảo hiểm cả năm
Thông thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại không
thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm theo Giấy
chứng nhận bảo hiểm còn có bản danh mục tài sản. Bản này được coi như một bộ
phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị pháp lý, nó thể hiện từng hạng
mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số tiền bảo hiểm của từng loại đó :
Giấy chứng nhận bảo hiểm cần được lập thành bốn bản : Một bản trao cho
khách hàng, một bản cho tài vụ, một bản lưu và một bản cho Tổng công ty.Hiện
nay Bảo Việt cũng quy định phạm vi mức phân cấp khai thác cho từng công ty.
Nếu đối tượng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trong phạm vi đó thì công ty chỉ cần
gửi một bản giấy chứng nhận. Nếu vượt quá mức phân cấp, trước khi cấp giấy
chứng nhận cho khách hàng, các công ty cần gửi hồ sơ cho Tổng công ty xem xét
và quyết định.
1.4 Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí
Trên thực tế, có nhiều khách hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung tài sản được
bảo hiểm sau khi đã được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Các công ty cần xem

xét kỹ yêu cầu thay đổi như : giá trị bảo hiểm, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ phí
để từ đó tính toán, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, phí bảo hiểm cho thích hợp. Bản bổ
sung sửa đổi cũng được lập thành bốn bản trao cho các bộ phận nói trên.
Ngoài ra các cán bộ khai thác cũng cần định kỳ xuống thăm các đối tượng
bảo hiểm, kiểm tra các công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng cường công
tác này. Đồng thời phải phối hợp với các bộ phận tài vụ để theo dõi việc đóng phí
của khách hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi thời hạn bảo hiểm sắp hết.

1.5 Hoa hồng
Trong công tác khai thác không thể không nói đến vấn đề hoa hồng. Đây
là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với số phí bảo hiểm. Khoản
hoa hồng này, công ty trả cho người trực tiếp đứng ra tham gia bảo hiểm hoặc
trả cho người môi giới nhằm động viên khuyến khích họ nhiệt tình công tác, thu
hút thêm nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây cũng là một hình thức tạo
dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.Từ năm 1995, để tạo tính chủ động,
linh hoạt trong hoạt động, khoản chi hoa hồng được tính vào chi quản lý nghiệp
vụ.
Có thể nói công tác khai thác có một vai trò quan trọng trong hoạt động
kinh doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho các công ty bảo
hiểm mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
2. Công tác giám định tổn thất
Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với công tác bồi thường.
Các giám định viên bảo hiểm có nhiệm vụ xác định : nguyên nhân rủi ro có
thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, giá trị thiệt hại thực tế là bao nhiêu
2.1 Điều tra tai nạn
Nhận được thông báo tai nạn, giám định viên bảo hiểm sẽ xuống ngay
hiện trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Mục đích của việc điều tra tai
nạn là thu nhập các bằng chứng và sự kiện. Trên cơ sở đó giải đáp các câu hỏi :
tai nạn đã xảy ra như thế nào, ở đâu, khi nào, vì sao. Muốn vậy trong quá trình
điêù tra, giám định viên phải thu thập hai loại thông tin : các tang vật và lời khai

của nhân chứng.
- Tang vật : Là bất cứ một việc gì có liên quan giúp cho việc xác định những sự
việc liên quan đến tai nạn. Hầu hết các tang vật đều có thể tìm thấy ở hiện trường
hay cũng có thể tìm thấy ở nơi sửa chữa bị hư hại.
- Lời khai của nhân chứng : Là những lời kể, những câu trả lời của các nhân
chứng thường là những người có mặt ở nơi hiện trường khi xảy ra tai nạn. Lời
khai của nhân chứng cũng giúp cho việc xác định những vấn đề có liên quan đến
tai nạn. Người bảo hiểm cần có những khả năng phân tích tìm ra những lời khai
xác thực vì các lời khai của nhân chứng thường khác nhau và có khi mâu thuẫn
với nhau.
Ngoài việc tiếp xúc, trao đổi, hỏi chuyện với các nhân chứng, giám định
viên cần gặp gỡ, trao đổi với người được bảo hiểm, với công an PCCC. Qua đó,
nguyên nhân Hoả hoạn, đánh giá sơ bộ và khái quát mức độ thiệt hại.
2.2 Đề xuất các biện pháp hạn chế tổn thất
Thông thường sau khi gặp hoả hoạn, người được bảo hiểm rất hoang mang
và lúng túng không biết phải làm gì. Vì vậy trên cơ sở xem xét hiện trường và
song song với việc điều tra tai nạn, giám định viên bảo hiểm phải góp ý kiến với
người được bảo hiểm các biện pháp hạn chế tổn thất như sau:
- Cách ly khu vực và tài sản bị thiệt hại.
- Rào kín những nơi mà người ngoài có thể đột nhập vào.
- Bơm rút nước cứu hoả còn đọng lại ra khỏi những nơi chứa tài sản để
tránh tài sản hư hỏng thêm.
- Di chuyển các mảnh đổ vỡ, tro than để cứu tài sản,
Qua quá trình điều tra, các giám định viên phải tìm ra được nguyên nhân
gây Hoả hoạn. Chú ý rằng đó phải là những nguyên nhân trực tiấp dẫn đến hoả
hoạn. Cuối cùng các giám định viên bảo hiểm sẽ xác định mức độ thiệt hại và lập
biên bản giám định. Biên bản giám định sẽ được trình lên công ty một bản và
Tổng công ty một bản.
3. Công tác bồi thường
Một trong những yêu cầu và cũng là một trong những phẩm chất quan

trọng đối với người làm công tác bảo hiểm là phải quan tâm và cảm thông sâu
sắc tới các nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. Phẩm chất đó phải được thể
hiện đặc biệt rõ nét trong khâu trong khâu giải quyết bồi thường. Giải quyết bồi
thường tốt có nghĩa là giải quyết nhanh và đúng - đây là nhiệm vụ số một của
người làm công tác bồi thường và là một trong những biện pháp tuyên truyền có
hiệu quả nhất, làm tăng uy tín của công ty và có ảnh hưởng tích cực tới khâu khai
thác bảo hiểm.
Đảm bảo được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của công tác bồi thường, cán
bộ công ty cần thực hiện tốt những bước sau :
3.1 Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm
Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem xét
hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ không. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm bảo hiểm
nhưng chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời và ngày trả lời
khách hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét đối chiếu với quy tắc bảo hiểm
và văn bằng hướng dẫn của Tổng công ty để xác định trách nhiệm bảo hiểm. Cụ
thể : khiếu nại có nằm trong phạm vi thoả thuận bảo hiểm không; có điểm loại
trừ nào tác động và ảnh hưởng đến khiếu nại đó không; có điều kiện bảo hiểm
nào bị vi phạm làm vô hiệu hoá hoặc thu hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu
nại không ?
3.2 Xác định mức độ thiệt hại
Chức năng chính của công tác bảo hiểm là bồi thường những thiệt hại thực
tế xảy ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh cho
người được bảo hiểm. Xác định đúng giá trị thiệt hại mới đảm bảo việc bồi
thường thực sự đem lại hiệu quả cho người được bảo hiểm.Việc xác định giá trị
thiệt hại được tiến hành trên nguyên tắc : phải xác định ngay tại thời điểm và địa
điểm xảy ra tổn thất. Trên cơ sở biên bản giám định về mức độ thiệt hại cùng các
biên lai, chứng từ xác minh kèm theo các hồ sơ khiếu nại, cán bộ bồi thường sẽ
xác định được mức thiệt hại thực tế của từng đối tượng bảo hiểm.
3.3 Xác định số tiền bồi thường
Nếu hồ sơ khiếu nại đã hợp lệ, đầy đủ, tổn thất đã được xác định là thuộc

phạm vi bảo hiểm và tính toán được số tiền thiệt hại thì ta có thể tiến hành xác
định số tiền bồi thường.
Số tiền bồi thường xác định dựa trên các cơ sở sau :
- Giá trị thiệt hại thực tế
- Số tiền bồi thường (là giới hạn trên của số tiền bồi thường )
- Mức miễn thường : sẽ không phải bồi thường nếu tổn thất bằng hoặc nhỏ
hơn mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải trừ đi
mức miễn thường ( trong trường hợp áp dụng mức miễn thường có khấu trừ ).
Trước khi tính toán số tiền bồi thường, người được bảo hiểm cần xem xét
số tiền khách hàng đòi bồi thường là bao nhiêu. Nếu số tiền đó bằng hoặc nhỏ
hơn mức miễn thường thì không cần tính toán mà có thể trả lời ngay cho khách
hàng là tổn thất không được bồi thường vì nằm trong phạm vi mức miễn thường.
Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải tính chi tiết mức độ thiệt hại.
Cụ thể :
* Đối với bảo hiểm Hoả hoạn :
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại ____________________
Giá trị bảo hiểm
3.4 Lập hồ sơ bồi thường, giải quyết bồi thường và khiếu nại
Trên cơ sở tính toán được số tiền bồi thường như trên, cán bộ bồi thường
sẽ lập hồ sơ bồi thường và trình lên lãnh đạo Tổng công ty xét duyệt bồi thường.
Sau khi có quyết định của lãnh đạo, cán bộ bồi thường sẽ thông báo cho khách
hàng cụ thể về mức bồi thường, thời gian, địa điểm công ty bảo hiểm chi trả số
tiến đó cũng như các giấy tờ cần thiết mà họ phải có. Nếu khách hàng chấp nhận
thì việc bồi thường sẽ được chuyển cho phòng kế toán-tài vụ.

×