Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Bảo hiểm cho các đối tượng thuộc nhóm nhận lãnh phúc lợi xã hội pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 80 trang )

TRƯỜNG………………………
KHOA……………………








LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Bảo hiểm cho các đối tượng thuộc
nhóm nhận lãnh phúc lợi xã hội










Lời mở đầu

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với
người lao động, nhằm đảm bảo cuốc sống vật chất, ổn định đời sống cho người lao
động và gia đình họ trong các trường hợp bị ốm đau, thai sản, suy giảm khả năng
lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết. Chính sách BHXH ở nước ta
được thực hiện ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước, 60 năm qua, trong


quá trình tổ chức thực hiện, chính sách BHXH ngày càng được hoàn thiện và
không ngừng đổi mới, bổ xung cho phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước.
Cùng với quá trình đổi mới của nền kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI của Đảng (12/1986), chính sách BHXH và tổ chức quản lí hoạt động cũng
có nhiều đổi mới tích cực.
Từ việc nghiên cứu quá trình đổi mới của BHXH tôi nhận thấy BHXH thực sự là
một chính sách quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của đất nước.
BHXH không những góp phần ổn định đời sống của người lao động mà còn
khuyến khích họ tích cực lao động sản xuất tạo ra của cải cho xã hội, xây dựng đất
nước. Trong quá trình thực hiện BHXH đã không ngừng phát triển cả về chất
lượng lẫn số lượng. Số người tham gia ngày càng tăng lên, mở rộng cho các đối
tượng tham gia, hoàn thiện dần hệ thống chính sách BHXH tiến tới thực hiện đủ
các chế độ của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Đặc biệt là sự đổi mới về cơ chế
quản lí từ cơ chế quản lí kế hoạch hoá, tập chung, bao cấp, hoàn toàn do NSNN
đảm bảo đã chuyển sang cơ chế thực hiện có thu và quỹ hoạt động trên nguyên tắc
cân bằng thu chi. Cách thực hiện như vậy không những giảm được gánh nặng cho
NSNN mà còn thể hiện trách nhiệm của cả người sử dụng lao động đối với người
lao động. Nhà nước nước đóng vai trò tổ chức thực hiện và quản lí thông qua
BHXH Việt Nam, là hệ thống ngành dọc được tổ chức từ Trung ương đến địa
phương.
Bên cạnh những mặt đạt được, BHXH Việt Nam cũng còn rất nhiều tồn tại cần
sớm được khắc phục cả về nội dung chính sách, tổ chức quản lí hoạt động. Đây là
những đòi hỏi cấp thiết cần được nghiên cứu để góp phần hoàn thiện chính sách và
tổ chức quản lí hoạt động của BHXH Việt Nam. Trong đó quản lí tài chính BHXH
Việt Nam là một mảng lớn, cần được chú trọng và quan tâm vì tài chính BHXH có
vững thì các chế độ trợ cấp mới được đảm bảo thực hiện tốt mà không dẫn đến
tình trạng thâm hụt NSNN. Chính vì vậy với ngành học được đào tạo, sau khi về
thực tập tại BHXH Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: “Công tác quản lí tài chính
BHXH Việt Nam- Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu công tác quản lí tài
chính BHXH Việt Nam, với mục đích là rút ra những kết quả đạt được để phát

huy, những tồn tại cần khắc phục. Hơn nữa thông qua đó có thể đưa ra những đóng
góp, góp phần hoàn thiện hệ thống BHXH Việt Nam, phát huy tối đa chức năng
của BHXH trong thời đại mới.
Kết cấu của đề tài gồm ba chương:
Chương I: Lí luận chung về BHXH và quản lí tài chính BHXH.
Chương II: Thực trạng công tác quản lí tài chính BHXH tại Việt Nam hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp đối với công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam
trong thời kì tới.
Chương I: Lí luận chung về BHXH và quản lí tài chính BHXH
I. Những vấn đề cơ bản về BHXH.
1. Tính tất yếu khách quan của BHXH.
Sự ra đời của BHXH cũng giống như các chính sách xã hội khác luôn bắt nguồn từ
yêu cầu thực tiễn của cuộc sống đặt ra.Từ thời xa xưa, con người để chống lại
những rủi ro, thiên tai của cuộc sống đã biết đoàn kết tương trợ lẫn nhau, giúp đỡ
lẫn nhau. Nhưng sự giúp đỡ này chỉ mang tính tự phát và với quy mô nhỏ, thường
là trong một nhóm người chung quan hệ huyết thống.
Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn có sự
phân công lao động xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát triển. Cùng với nó
là quan hệ xã hội giữa các cá nhân, giữa các cộng đồng cũng phát triển hơn. Khi
đó tôn giáo bắt đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý nghĩa giáo dục con người hướng
thiện mà còn có các trại bảo dưỡng, hội cứu tế với mục đích từ thiện, trợ giúp nhau
trong cuộc sống. Như vậy xét về bản chất thì hình thức tương trợ trong thời kì này
đã mang tính có tổ chức và quy mô rộng rãi hơn.
Từ thế kỉ thứ XVI ở Châu Âu đã xuất hiện ngành công nghiệp, những người nông
dân không có đất phải di cư ra thành phố làm thuê cho các nhà máy ngày càng
nhiều và dần trở thành công nhân. Đặc biệt đến thời kì cách mạng công nghiệp thì
lực lượng ngày càng đông đảo và trở thành giai cấp công nhân. Nhìn chung họ
sống không ổn định, cuộc sống chỉ dựa vào công việc với đồng lương ít ỏi, mất
việc làm, ốm đau, tai nạn lao động đều có thể đe doạ cuộc sống của họ. Tình
đoàn kết tương thân tương ái giữa họ đã nảy nở, cùng với đó là sự ra đời của các

nghiệp đoàn, các hiệp hội giúp đỡ các thành viên khi bị ốm đau bệnh tật trong quá
trình sản xuất. Bên cạnh Hội tương tế còn có Quỹ tiết kiệm được Nhà nước
khuyến khích thành lập. Tiếp đó những quy định bắt buộc người sử dụng lao động
phải chu cấp cho người lao động thuộc quyền quản lí khi họ gặp phải ốm đau, tai
nạn lao động, mất việc Giai cấp công nhân càng đông đảo thì sức ép đối với
những đòi hỏi đảm bảo cuộc sống cho họ ngày càng ảnh hưởng đến đời sống chính
trị của mỗi nước. Trước tình cảnh đó Chính Phủ mỗi nước không thể không quan
tâm đến tình cảnh của người lao động. Những yêu cầu giảm giờ làm, cải thiện điều
kiện lao động, đảm bảo cuộc sống của người lao động dần được quy định thành
các chính sách bắt buộc đối với mỗi nước.
Điển hình là vào năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bismark của Đức đã giúp các
địa phương thành lập quỹ do người công nhân đóng góp để được trợ cấp lúc rủi ro.
Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc bắt nguồn từ đây, người được bảo hiểm phải tham
gia đóng phí. Sau đó sáng kiến này được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới.
BHXH ngày càng được hoàn thiện, thực hiện rộng khắp các nước và được Tổ chức
Lao động Quốc tế ( ILO) thông qua trong Công ước số 102 vào tháng 4 năm 1952.
BHXH ở nước ta đa manh nha hình thành từ thời thực dân Pháp thống trị. Sau
cách mạng tháng Tám, Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã ban hành
sắc lệnh 29/ SL ngày 12/3/1947 về việc thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao
động, hưu trí. Đây là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên hệ thống BHXH Việt
Nam như hiện nay.
2. Khái niệm BHXH.
Qua quá trình hình thành chúng ta có thể nhận thấy, lúc khởi đầu, BHXH chỉ
mang tính chất tự phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, trước nhu cầu của thực tiễn thì
chính sách BHXH đã nhanh chóng ra đời và từng bước phát triển rộng khắp.
BHXH đã được từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau:
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao
động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động
hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một
quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà

nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia
đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.”
Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số điểm cơ bản sau:
- Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến
động, giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố như
đã nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của bản thân người lao động và gia
đình họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là một chính sách lớn của mỗi
quốc gia và được Nhà nước quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện
kinh tế của mỗi nước mà các quy định về đối tượng này là có sự khác nhau nhưng
cùng bảo đảm ổn đình đời sống của người lao động.
- Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng lao
động. Sở dĩ người lao động phải đóng phí vì chính họ là đối tượng được hưởng
BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động đóng phí là thể hiện sự quan tâm,
trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự đóng góp trên là bắt buộc, ngoài
ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động, để
gắn bó lợi ích giữa họ, Nhà nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng đóng góp và
đây cũng là chính sách xã hội được thực hiện góp phần ổn định cuộc sống một
cách hiệu quả nhất.
Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO)
cũng đã đưa ra một định nghĩa khác như sau:
“ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một
loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của Chính phủ) để
chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm mất thu
nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa,
BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia
đình khi cần thiết.”
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy mục tiêu của BHXH là hướng tới sự phát triển
của mỗi cá nhân và toàn xã hội. BHXH thể hiện sự đảm bảo lợi ích của xã hội đối
với mỗi thành viên từ đó gắn kết mỗi cá nhân với xã hội đó.

3. Bản chất và chức năng của BHXH.
3.1. Bản chất của BHXH.
Có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất của người lao động khi
gặp phải những biến cố như ốm đau, tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc tuổi
già làm mất, giảm khả năng lao động, từ đó giúp ổn định cuộc sống của bản thân
người lao động và gia đình họ. BHXH hiện nay được coi là một chính sách xã hội
lớn của mỗi quốc gia, được nhà nước quan tâm và quản lí chặt chẽ. BHXH xét về
bản chất bao gồm những nội dung sau đây:
BHXH là sự cần thiết tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế.
Đặc biệt đối với nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan
hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động ngày càng phát triển. Do vậy
trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định đến sự đa dạng và tính hoàn thiện
của BHXH. Vì vậy có thể nói kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định tới hệ thống
BHXH của mỗi nước.
BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH là ba chủ thể trong mối quan hệ
của BHXH. Bên tham gia BHXH gồm người lao động và người sử dụng lao động
(bên đóng góp), bên BHXH là bên nhận nhiệm vụ BHXH, thông thường thì do cơ
quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ, bên được BHXH chính là người
lao động và gia đình họ khi có đủ điều kiện cần thiết. Từ đó họ được đảm bảo
những nhu cầu thiết yếu, giúp họ ổn định cuộc sống, góp phần ổn đình xã hội.
Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động của người lao động có thể là
những rủi ro ngẫu nhiên( tai nạn, ốm đau, bệnh nghề nghiệp ), cũng có thể là các
rủi ro không hoàn toàn ngẫu nhiên( tuổi già, thai sản, ). Đồng thời các biến cố
này có thể xảy ra trong quá trình lao động hoặc ngoài lao động. Phần thu nhập của
người lao động bị giảm hay mất đi từ các rủi ro trên sẽ được thay thế hoặc bù đắp
từ nguồn quỹ tập trung được tồn tích lại do bên tham gia BHXH đóng góp và có
thêm sự hỗ trợ của NSNN.
3.2. Chức năng của BHXH.
Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập của người lao
động khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả năng lao động hay mất

việc làm. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao động tam thời hay dài hạn thì
mức trợ cấp sẽ được quy định cho từng trường hợp. Chức năng này quyết định
nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH có cả người lao động và người sử dụng lao động và
cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho người lao động
khi gặp phải rủi ro, số người này thường chiếm số ít. BHXH thực hiện cả phân
phối lại thu nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa người lao động khoẻ mạnh
với người lao động ốm đau, già yếu , giữa những người có thu nhập cao phải
đóng nhiều với người có thu nhập thấp phải đóng ít. Như vậy thực hiện chức năng
này BHXH còn có ý nghĩa góp phần thực hiện công bằng xã hội, một mục tiêu
quan trọng trong chính sách kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia.
Nhờ có BHXH mà người lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với công việc,
nâng cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất lao động x• hội,
tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời sống toàn xã hội. Nếu
trước đây, sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện nay khi xã hội đã phát triển,
việc trợ giúp đã được cụ thể hoá bằng các chính sách, quy định của Nhà nước. Sự
bảo đảm này giúp gắn bó mối quan hệ giữa người lao động và xã hội và càng thúc
đẩy hơn nghĩa vụ của họ đối với xã hội.
Trong thực tế giữa người lao động và người sử dụng lao động có những mâu thuẫn
nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động BHXH đã gắn bó
lợi ích giữa họ, đã điều hoà được những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ hiểu nhau
hơn. Đây cũng là mối quan hệ biện chứng hai bên đều có lợi, người lao động thì
được đảm bảo cuộc sống, người sử dụng thì sẽ có một đội ngũ công nhân hăng hái,
tích cực trong sản xuất. Đối với Nhà nước thì BHXH là cách chi ít nhất song hiệu
quả nhất vì đã giải quyết những khó khăn về đời sống của người lao động và góp
phần ổn định sản suất, ổn định kinh tế - xã hội.
4. Nguyên tắc hoạt động của BHXH.
Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:
Thứ nhất là nguyên tắc đóng hưởng chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của
người đang làm việc bù đắp cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH. Đây là nguyên

tắc hoạt động chung của ngành bảo hiểm là quỹ góp chung của số đông bù cho số
ít là những người thiếu may mắn gặp phải những rủi ro trong cuộc sống, trong lao
động sản xuất. Phần thể hiện tính chính sách của Nhà nước là việc rủi ro trong
BHXH không chỉ là những rủi ro thuần tuý như trong bảo hiểm thương mại mà
còn có cả những rủi ro không mang tính ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,
Thứ hai là mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, nhưng
phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người hưởng khoản trợ cấp đó. Việc
quy định trên là hoàn toàn hợp lí và cũng là quy định chung cho tất cả các nước,
song thấp bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi
nước trong mỗi thời kì khác nhau.
Thứ ba là phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính sách
BHXH của các nước. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nước
(NSNN) giống như giai đoạn trước cải cách năm 1995 của nước ta thì đây thực sự
là một gánh nặng lớn của đất nước. Việc thành lập quỹ BHXH do các bên tham
gia BHXH đóng góp và có sự hỗ trợ của Nhà nước là hoàn toàn phù hợp. Quỹ này
có thể quản lí theo các cách thức khác nhau song độc lập với NSNN , NSNN chỉ
bù thiếu hoặc tài trợ một phần tuỳ thuộc vào quy định của mỗi nước khác nhau.
5. Các chế độ của BHXH.
Đối với mỗi nước có những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau nên
BHXH được tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác nhau. BHXH được
xây dựng dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống nhất trên toàn thế giới và
phải tuân thủ các quy định sau của tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về hệ thống
chính sách BHXH. Trong Công ước 102 được ILO thông qua ngày 4/6/1952 có
quy định những quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội đã đưa ra 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế.
- Trợ cấp ốm đau.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thai sản.

- Trợ cấp tàn tật.
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9 chế độ nói
trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây:
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tàn tật.
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ sở điều kiện
kinh tế, thu nhập, tiền lương, Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà còn phải tính đến
các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh dưỡng, để quy định các
mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng và đối tượng hưởng cho hợp lí. Các chế
độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên
tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kì.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có
hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kì để phản ánh hết sự thay
đổi của điều kiện kinh tế -xã hội.
6. Quỹ BHXH và phân loại quỹ BHXH.
6.1. Quỹ BHXH.
Như chúng ta đã tìm hiểu trong phần 1 ở trên thì sự ra đời của quỹ BHXH là một
bước ngoặt lớn đối với ngành BHXH trên toàn thế giới. Quỹ BHXH là một quỹ tài
chính độc lập, tập chung nằm ngoài NSNN và được hình thành từ các nguồn sau

đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp,
- Người lao động đóng góp,
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm,
- Các nguồn khác (như cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi từ các hoạt
động đầu tư quỹ nhàn rỗi).
Trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả
người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này
không phải sự chia sẻ rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Sự đóng góp một phần quỹ
của người sử dụng lao động cho người lao động sẽ tránh được những thiệt hại kinh
tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà
mình thuê mướn. Đồng thời, nó còn góp phần giảm bớt mâu thuẫn, kiến tạo mối
quan hệ tốt đẹp giữa chủ- thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp của họ vừa thể
hiện sự tự gánh chịu chính những rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc
nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu
trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH có khác nhau tuỳ thuộc quy định của mỗi nước. Hiện nay mức đóng góp
BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan
điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ
lương cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại cho rằng, phải căn cứ vào
mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, mỗi nước
lại có những quy định khác nhau. Một số nước quy định người sử dụng lao động
phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và
trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động
cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Trong đó, một số nước khác lại quy
định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi quản lí BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả chủ yếu cho hai mục đích sau: thứ nhất là chi
trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH như đã nêu ở mục 5, còn lại là chi trả cho chi

phí sự nghiệp quản lí BHXH. Trong hai khoản chi đó thì khoản chi thứ nhất là
quan trọng và chiếm phần lớn trong quỹ BHXH. Các khoản trợ cấp này cũng được
quy định về mức trợ cấp và thời gian hưởng một cách cụ thể và có sự khác biệt đối
với từng chế độ. Tại những nước khác nhau thì các khoản trợ cấp này cũng được
quy định khác nhau.
6.2. Phân loại quỹ BHXH:
Tuỳ theo mục đích và cách tổ chức của những hệ thống BHXH trên thế giới mà
quỹ BHXH được phân loại khác nhau:
- Phân loại theo các chế độ bao gồm: Quỹ hưu trí, tử tuất; Quỹ tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp; Quỹ thất nghiệp; Quỹ ốm đau thai sản.
- Phân loại theo tính chất sử dụng bao gồm: Quỹ ngắn hạn để chi trả cho các
chế độ ngắn hạn như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm mất khả năng lao động
tạm thời; Quỹ dài hạn để chi trả trợ cấp cho các chế độ như hưu trí, tử tuất.
- Phân loại theo đối tượng tham gia bao gồm: Quỹ cho công chức Nhà nước,
quỹ cho lực lượng vũ trang, quỹ cho lao động trong các doanh nghiệp, quỹ cho các
đối tượng còn lại.
Việc phân loại quỹ như trên cần được thực hiện và cân nhắc tránh những tình trạng
phân nhỏ quỹ dễ gây ra tình trạng mất tập trung, không có sự bổ xung và hỗ trợ lẫn
nhau. Việc phân chia quỹ không hợp lí sẽ dẫn tới những ảnh hưởng xấu đến việc
chi trả cho các đối tượng, đặc biệt là vấn đề quản lí quỹ một cách hợp lí. Dựa trên
các cách tổ chức thực hiện các chế độ mà mỗi nước lại có những quy định khác
nhau về các quỹ thành phần. Các quỹ thành phần phải thực sự phù hợp với hệ
thống BHXH đó.
II. Quản lí tài chính BHXH.
1. Khái niệm chung về quản lí tài chính BHXH.
Trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lí. Quản lí là những hoạt động
nhằm tác động một cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí vào một
đối tượng quản lí nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con
người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối tượng. Đối tượng của quản lí
ở đây là tài chính BHXH, tài chính BHXH là một thuật ngữ thuộc phạm trù tài

chính chỉ một mắt khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia.
Tài chính BHXH tham gia vào quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính
nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro từ đó
đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lí
tài chính BHXH là việc sử dụng tài chính BHXH như một công cụ quản lí xã hội
của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động tài chính BHXH để thực hiện mục
tiêu quản lí xã hội đó là đảm bảo ổn định cuộc sống cho nhân dân trước những rủi
ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hay khi về già, giúp người lao động yên
tâm lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH thể hiện tính
ưu việt của mỗi quốc gia, mỗi thể chế xã hội . Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lí
tài chính BHXH là quản lí thu chi BHXH. Như vậy quản lí tài chính BHXH chủ
yếu liên quan tới việc làm thế nào để hoạt động thu chi quỹ BHXH được thực hiện
một cách bình thường trước những biến động của môi trường. Biến động ở đây là
những biến động về đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, biến động của môi
trường sống, môi trường kinh tế , những biến động tác động trực tiếp đến đời
sống của người lao động, đến việc thu chi quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự đầu tư
tăng trưởng quỹ BHXH. Nội dung của quản lí tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa
chọn và xác định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách
hợp lí và lấy đó làm căn cứ để ra quyết định cụ thể của thu chi BHXH thực hiện
mục tiêu của Nhà nước đặt ra.
Khi thực hiện quản lí tài chính BHXH cần chú ý hai nguyên tắc chủ yếu sau:
- Quá trình quản lí tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so sánh và cân
đối trong trạng thái động: Bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến động theo từng chế
độ trợ cấp BHXH khác nhau, lượng lao động biến động một cách thường xuyên
nên trong quản lí, đặc biệt là khâu lập kế hoạch phải chú trọng tới vấn đề này. Đây
cũng là một đặc thù trong ngành Bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng vì tính
đảo ngược chu kì kinh doanh tức là thu phí trước chi trả cho các chế độ sau. Tuy
có sự hỗ trợ của NSNN, song quản lí tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh
nặng cho NSNN và vẫn thực hiện chính sách xã hội này một cách tốt nhất.
- Quỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: Như trên đã đề cập thì ngành

Bảo hiểm có đặc thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời gian hưởng
có thể kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt thời gian. Do vậy cần đầu tư để bảo tồn
và tăng trưởng quỹ một cách hợp lí. Để đảm bảo nguyên tắc này cơ quan BHXH
phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu chi và quản lí quỹ thực hiện đầu
tư phần quỹ nhàn rỗi một cách có hiệu quả và tuân thủ các nguyên tắc sau:
+An toàn: Mục đích của quỹ là bảo đảm chi trả lương hưu và các trợ cấp BHXH
cho người lao động. Vì vậy, quỹ dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo
an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an toàn là không chỉ bảo toàn vốn đầu tư về
danh nghĩa, mà còn là bảo toàn về cả giá trị thực tế, điều này càng có ý nghĩa quan
trọng trong thời kì lạm phát. Nói cách khác thì đầu tư quỹ phải lựa chọn lĩnh vực
để giảm thiểu rủi ro.
+ Hiệu quả: Đây là mục tiêu của việc đầu tư tăng trưởng quỹ do vậy nguyên tắc
này rất quan trọng và phải được đi liền với nguyên tắc thứ nhất. Lãi đầu tư không
chỉ góp phần đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản chi mà còn góp phần
cho phép hạ tỉ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.
+ Khả năng thanh toán (tính lưu chuyển của vốn): Đây cũng là yêu cầu đặc thù của
nghành do các khoản chi trả là phát sinh sau và kéo dài nên các khoản đầu tư phải
đảm bảo tính thanh khoản để dễ dàng chi trả cho các đối tượng kịp thời. Đặc biệt
tránh những khoản đầu tư dễ vướng vào những vấn đề tồn khoản. Các hình thức
đầu tư dễ thanh khoản và an toàn thường được ưu tiên thực hiện trước.
+ Có lợi ích kinh tế, xã hội: Là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã hội,
do đó trong quá trình đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho người dân,
phải ra sức cải thiện chất lượng chung cho đời sống dân cư của đất nước. Các hình
thức, hạng mục đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh tế xã hội lên hàng đầu. Hoạt
động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH khác với các hoạt động đầu tư khác với mục
tiêu lợi nhuận làm đầu vì BHXH chính là một chính sách quan trọng trong hệ
thống An sinh xã hội của mỗi nước.
2. Nội dung quản lí tài chính BHXH.
Nhìn chung, quản lí tài chính BHXH bao gồm bốn nội dung cơ bản sau:
- Quản lí thu BHXH.

- Quản lí chi BHXH.
- Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
- Quản lí cân đối quỹ BHXH.
2.1. Quản lí thu BHXH.
Quản lí thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công của quá trình
thu BHXH, từ đó quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm bảo cho việc chi
trả cho các chế độ trợ cấp. Trước tiên chúng ta phải nắm được nội dung thu gồm
hai khoản thu từ người lao động và người sử dụng lao động. Đây là khoản thu lớn
nhất và đóng vai trò quan trọng, quyết định. Các khoản thu khác như: thu từ các
quỹ của các tổ chức, cá nhân từ thiện hay sự hỗ trợ của NSNN là nhỏ, NSNN chỉ
bù đắp cho những trường hợp cần thiết. Hơn nữa đây là khoản thu mà tổ chức
BHXH cũng không thể tự điều chỉnh được vì nó mang tính thụ động. Do vậy mà
công tác quản lí thu chỉ tập chung vào nguồn thu từ hai đối tượng chính người lao
động và người sử dụng lao động. Nội dung của quản lí thu lại tập chung vào ba đối
tượng chính sau đây:
Quản lí đối tượng tham gia BHXH: Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ chức BHXH
khi thực hiện quan tâm đến, thường các đối tượng này được quy định rõ trong các
văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hơn thế nữa BHXH cũng hoạt động
trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy luật số đông bù số ít nên việc tham
gia đầy đủ của các đối tượng tham gia BHXH là việc rất quan trọng. Quản lí đối
tượng tham gia cần thực hiện các công việc sau:
+ Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH.
+ Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định.
+ Quản lí công tác cấp sổ BHXH: Vì đây là căn cứ xác định quá trình đóng góp,
ngành nghề lao động, thời gian lao động, tên người lao động và một số thông tin
khác.
Quản lí quỹ lương của các doanh nghiệp: Theo những quy định hiện hành như
ngày nay thì phí thu BHXH thường được tính theo phần trăm tổng quỹ lương của
doanh nghiệp và tiền lương tháng của người lao động nên quỹ lương còn là cơ sở
để quản lí thu một cách thuận lợi. Dựa trên quỹ lương của doanh nghiệp BHXH có

thể đảm bảo thu đúng, thu đủ và hạn chế được tình trạng gian lận trốn đóng
BHXH. Bên cạnh đó chính các doanh nghiệp trở thành những “đại lí” thực hiện
thu và chi trả trực tiếp cho một vài chế độ là thực sự thuận lợi cho công tác thu phí
nói riêng và công tác thực hiện các chế độ BHXH nói chung.
Quản lí tiền thu BHXH: Các đơn vị, doanh nghiệp sẽ thực hiện nộp phí thông qua
tài khoản của BHXH. Do vậy, BHXH khó nắm bắt được tình hình thu. Để đảm
bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời cần có những quy định rõ ràng về thời gian nộp, hệ
thống tài khoản thu nộp phải thuận lợi và an toàn cho việc nộp. Việc nắm bắt tình
hình thu BHXH giúp quản lí quỹ dễ dàng, kịp thời điều chỉnh và đảm bảo cho
công tác chi trả được thực hiện một cách tốt nhất. Trong nội dung quản lí thu
BHXH, tất cả các đóng góp BHXH sẽ được quản lí chung một cách thống nhất,
dân chủ, công khai trong toàn hệ thống.
2.2. Quản lí chi BHXH.
Các khoản chi BHXH bao gồm các khoản chi cho các chế độ, chi quản lí và chi
khác. Trong đó có thể nói hai khoản chi đầu là rất lớn đặc biệt là chi cho các chế
độ, hơn nữa khoản chi này chính là thể hiện sự bảo đảm cuộc sống của chính sách
BHXH. Vì vậy nhắc đến quản lí chi là nhắc đến hai nội dung chính sau:
Quản lí hoạt động chi trả cho các chế độ: Mục tiêu của hoạt động quản lí chi
không với mục đích giảm khoản chi này một cách lớn nhất có thể mà quản lí để
tránh tình trạng chi sai chế độ hoặc chi không đúng đối tượng vừa tránh lãng phí
lại đảm bảo công bằng cho các đối tượng tham gia BHXH. Do vậy, để đảm bảo
chi trả trợ cấp đúng chế độ, đúng đối tượng, kịp thời cần có phương thức chi hợp
lí, tổ chức thực hiện chi trả cho các chế độ thuận lợi, dễ dàng. Cũng như quản lí
hoạt động thu trước tiên chúng ta phải quản lí những đối tượng được hưởng các
chế độ BHXH. Đối tượng có thể hưởng các chế độ chính là bản thân người lao
động hoặc người thân trong gia đình họ. Đối tượng được hưởng các chế độ trợ cấp
là những người lao động tham gia đóng phí BHXH và gặp phải những rủi ro làm
mất hoặc giảm khả năng lao động dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập của họ. Các
điều kiện hưởng được quy định cụ thể trong các văn bản, thường thì mức trợ cấp,
loại trợ cấp và thời gian trợ cấp thì phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng

góp, mức độ hay tỉ lệ thương tật, và chính biến cố mà người lao động gặp phải.
BHXH Việt Nam muốn quản lí tốt cần có những văn bản quy định rõ ràng và hợp
lí về các điều kiện hưởng của các loại chế độ, dựa trên cơ sở đó để xử lí các trường
hợp cho công bằng. Đối tượng hưởng cần được xem xét và kiểm tra nhằm tránh
tình trạng chi sai hoặc chi không hợp lí. Quản lí chi cho các chế độ cũng cần được
phân loại và phân cấp quản lí để dễ quản lí và thực hiện chi trả cho thuận tiện.
Quản lí chi hoạt động bộ máy: Sau chi cho các chế độ thì đây là khoản chi lớn thứ
hai cần được quản lí. Chi quản lí có thể hiểu đơn giản là khoản chi cho bộ máy tức
là trả lương cho cán bộ, chi cho đầu tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm thiết bị và
những tài sản cố định nhằm duy trì hoạt động của tổ chức BHXH. Mức chi này có
thể được quy định trong điều lệ BHXH hoặc cũng có thể được lập trong NSNN.
Khoản chi này cần được quản lí tránh những lang phí không cần thiết. Một số
nước khoản chi này được NSNN chi trả, một số nước lại do quỹ BHXH đảm bảo.
Song nhìn chung thì chi phí quản lí là phải phù hợp tránh những lãng phí không
cần thiết, song chi phí quản lí cũng phải đủ lớn để đảm bảo cơ sở cho hoạt động
quản lí của BHXH được thực hiện dễ dạng. Hơn nữa lương cho cán bộ nhân viên
của ngành BHXH phải cân bằng với các ngành khác.
2.3. Quản lí hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
Quỹ BHXH tại một thời điểm thường có số tiền kết dư rất lớn, đây là cơ sở của
những yêu cầu cần bảo toàn và phát triển quỹ. Như chúng ta đã biết thì quỹ thu
trước, chi sau, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế thị trường với những cơ hội
cũng như những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên việc bảo toàn và phát triển
quỹ lại trở thành nhu cầu bức thiết. Nếu quỹ không chú trọng đến vấn đề đầu tư có
thể sẽ đứng trước tình trạng bội chi hay nói cách khác là chi vượt quá thu. Nếu đầu
tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả thì đây là một nguồn thu bổ sung rất lớn cho quỹ
để đảm bảo cân đối thu chi từ đó giảm gánh nặng cho NSNN. Để hoạt động đầu tư
thực hiện đúng vai trò của nó thì phải đảm bảo những nguyên tắc như an toàn,
tránh rủi ro, có lãi và trên hết là thực hiện được lợi ích xã hội.
2.4. Quản lí hoạt động cân đối quỹ.
BHXH là chính sách xã hội nên khác với các loại hình bảo hiểm thương mại,

BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục đích lớn nhất là ổn định
cuộc sống của người lao động. Do vậy cân bằng thu chi là trạng thái mong muốn
của mỗi nước khi triển khai thực hiện BHXH. Để cân đối thu chi trên thực tế
thường phải có sự hỗ trợ của NSNN, đồng thời thì quỹ phải tìm cho mình những
nguồn thu khác để đảm bảo cân bằng quỹ. Trong đó các khoản chi và nguồn thu đã
được trình bày ở trên. Quản lí cân đối quỹ là việc làm hết sức quan trọng nhằm
phát hiện ra những thay đổi dẫn đến mất cân đối để có những biện pháp khắc phục
kịp thời.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động quản lí tài chính BHXH.
Đối với ngành quản trị nói chung và công tác quản lí tài chính BHXH nói riêng thì
việc xem xét các yếu tố tác động của môi trường tới hoạt động của đối tượng quản
lí là rất cần thiết. Các tác động của môi trường có thể mang đến những thách thức
cũng như những cơ hội cho chính bản thân các hoạt động tài chính của BHXH.
Muốn quản lí tốt, nhà quản trị cần nắm rõ những yếu tố này để đưa ra những quyết
định hợp lí và có lợi nhất cho đối tượng quản lí. Các tác động của môi trường
thường được chia làm hai loại là tác động của môi trường ngoài hệ thống và tác
động từ môi trường trong hệ thống.
Tác động từ môi trường ngoài hệ thống bao gồm các ảnh hưởng từ môi trường
kinh tế- chính trị- xã hội của mỗi quốc gia. Nhìn rộng ra thì có thể là cả những ảnh
hưởng của môi trường thế giới. Khi chúng ta xem xét các yếu tố của BHXH dưới
giác độ của các công ước quốc tế mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) đã quy
định. Nhưng các nhân tố môi trường trong nước là quan trọng hơn. BHXH không
chỉ là thể hiện tính ưu việt của mỗi Nhà nước mà chính Nhà nước cũng là chủ sử
dụng lao động lớn nhất trong xã hội. Các chính sách, quyết định của Nhà nước tác
động trực tiếp tới hoạt động quản lí. Môi trường kinh tế như GDP, thu nhập bình
quân đầu người, giá cả, tình trạng nền kinh tế tăng trưởng hay khủng hoảng, mức
sống tối thiểu, các dịch vụ công cộng . Đây là các yếu tố tác động tới thu chi, cân
đối quỹ BHXH sao cho phù hợp đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động.
Bên cạch đó còn có các yếu tố như văn hoá, lối sống, truyền thống, trình độ nhận
thức, nó tác động đến mức độ chấp nhận, sự đồng tình thực hiện của mỗi cá nhân

trong xã hôi. Chẳng hạn như ở nước ta có truyền thống “lá lành đùm là rách, lá
rách ít đùm lá rách nhiều” rất phù hợp với mục đích triển khai BHXH nên được
mọi người đồng tình thực hiện. Tất cả những yếu tố kể trên tác động tới nội dung
của những quy định trong các quy chế quản lí tài chính BHXH Việt Nam.
Những tác động của bản thân các yếu tố bên trong hệ thống như ý thức tự giác của
các đối tượng tham gia là người lao động và đặc biệt là chủ sử dụng lao động. Yếu
tố trình độ của các cán bộ trong ngành BHXH, điều kiện làm việc, trang thiết bị
phục vụ công tác, cũng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lí tài chính
BHXH. Trình độ cán bộ càng cao, cơ sở vật chất kĩ thuật cang đầy đủ và hiện đại
thì công tác quản lí tài chính BHXH càng thuận lợi, thực hiện càng có hiệu quả.
III. Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính BHXH.
Tính đến năm 1993, trên thế giới đã có 163 nước thực hiện chính sách BHXH,
trong đó số các nước thực hiện chế độ hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản là
nhiều nhất lên tới 155 nước, chiếm khoảng 95%, ít nhất là chế độ thất nghiệp là có
khoảng 63 nước, chiếm 38,6%. Việc thực hiện các chế độ là tuỳ thuộc vào điều
kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước. Tuy nhiên xu hướng chung
hiện nay là đang dần thực hiện ngày càng đầy đủ hơn các chế độ. Đối với lịch sử
phát triển của ngành BHXH trên thế giới thì BHXH Việt Nam còn rất mới, như
vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước.
1. Quản lí tài chính BHXH ciủa Cộng hoà Liên bang Đức.
So với các nước trên thế giới, Cộng hoà Liên bang Đức là nước có lịch sử phát
triển được coi như sớm nhất. Điều luật BHXH đầu tiên đã ra đời và thực hiện từ
những năm 1850. Cho đến nay, chính sách BHXH ở Đức bao gồm 6 chế độ sau:
+ Bảo hiểm thất nghiệp.
+ Bảo hiểm y tế.
+ Bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ cho người già và người tàn tật.
+ Bảo hiểm ốm đau.
+ Bảo hiểm tai nạn lao động.
+ Bảo hiểm hưu trí.
Hoạt động BHXH của Cộng hoà Liên bang Đức thực hiện theo ba trụ cột chính là:

- Hệ thống BHXH bắt buộc.
- Hệ thống BHXH tư nhân.
- Hệ thống BHXH ở các xí nghiệp.

×