Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Chính sách,cơ chế của nhà nước tạo ra đồng bộ giữa các địa phương pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.49 KB, 108 trang )

Lời nói đầu
Đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế có vai trò rất quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội.Nó là động lực của tăng trưởng kinh tế,phát triển kinh tế
xã hội và tạo ra các tác động có lợi cho chính trị xã hội.Một nền kinh tế sẽ không
thể tồn tại và phát triển nếu thiếu hoạt động đầu tư.Trong quá trình chuyển đổi từ
nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường thì nguồn vốn đầu tư lại có vai trò
quan trọng hơn bao giờ hết.Tuy nhiên trong quá trình đó thì sự cách biệt phát
triển,phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, miền ngày càng lớn.Để làm giảm bớt hố
sâu ngăn cách đó nhà nước đã có những chính sách,cơ chế nhằm tạo ra sự phát
triển kinh tế cân đối hơn giữa các vùng.Nguồn vốn đầu tư công trình hạ tầng ra đời
nằm trong chiến lược đó.
Nguồn vốn đầu tư công trình hạ tầng nói chung và nguồn vốn đầu tư xây dựng
công trình hạ tầng của các xã đặc biệt khó khăn ,các xã vùng sâu vùng xa vùng
dân tộc thiểu số là một trong những nội dung quan trọng trong chiến lược xoá đói
giảm nghèo của nhà nước.Đây là một nguồn vốn rất quan trọng chủ yếu là từ ngân
sách nhà nước nhằm xây dựng các công trình thiết yếu cơ bản nhằm tạo ra tiền đề
phát triển kinh tế của các xã đặc biệt khó khăn.Có thể nói nguồn vốn đầu tư thuộc
chương trình này đã đang và sẽ tạo ra những động lực to lớn cho sự phát triển kinh
tế ,sự tiến bộ trong nhận thức và sự nâng cao trình độ văn hoá ,xã hội.Quá trình
thực tập tại vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư ,nơi
tổng hợp vốn của nhà nước về kế hoạch đầu tư và trực tiếp thực hiện các chương
trình phát triển quan trọng của nhà nước đã tạo điều kiện cho em tiếp cận được nội
dung của chương trình xoá đói giảm nghèo áp dụng cho các xã đặc biệt khó khăn
,vùng sâu vùng xa vùng dân tộc thiểu số.Em thấy đây là một nội dung rất quan
trọng, nghiên cứu việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này làm em rất
tâm đắc.Chính vì thế em đã quyết định chọn đề tài”Giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn đầu tư công trình hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn,miền núi vùng
dân tộc thiểu số”. Kết cấu nội dung của đề tài bao gồm:
Chương I:Khái quát chung về đâù tư,nguồn vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư công
trình hạ tầng
Chương II:Thực trạng thực hiện chương trình trong thời gian qua(1999-2004)


Chương III: Những Giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư công trình hạ
tầng các xã đặc biệt khó khăn.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do trình độ hiểu biết còn có hạn nên chắc chắn đè tài
này còn nhiều thiếu sót. Em mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn
để em có thể hoàn thành tốt đề tài của mình.
Em xin chân thành cảm ơn các cô bác ở vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ thuộc
bộ kế hoạch và đầu tư các thầy cô giáo trong khoa đã nhiệt tình tạo điều kiện cho
em,đặc biệt là cô giáo Nguyễn thị Aí Liên là cô giáo đã trực tiếp tận tình hướng
dẫn em hoàn thành chuyên đề này.
Chương 1: Khái quát chung về đầu tư,nguồn vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư
công trình hạ tầng
1.1. Một số lý luận chung về đầu tư và đầu tư phát triển:
1.1.1. Khái niệm và phân loại đầu tư:
Đầu tư là "sự bỏ ra, sự hy sinh" các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được
những kết quả có lợi hơn cho người đầu tư trong tương lai. Hay nói cách khác, đầu
tư là sự hy sinh những lợi ích hiện tại để nhằm thu về lợi ích lớn hơn trong tương
lai.
Nguồn lực ở hiện tại có thể là tiền,là tàI nguyên thiên nhiên,là sức lao động và trí
tuệ.Những kết quả đạt được có thể là tàI sản tàI
Chính,tàI sản vật chất,tàI sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ đIũu kiệnđể làm việc
với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt được trên đây,những kết quả là tàI sản vật chất,tàI sản trí
tuệ là nguồn nhân lực tăng thêmcó vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơI,không
chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế.
Đầu tư có thể chia đầu tư thành 3 loại chủ yếu sau:
- Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc
mua chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất phụ thuộc vào kết
quả sản xuất kinh doanh của công ty phát hành.
- Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư mà người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hoá và
sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi

bán. Hai loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, mà chỉ làm tăng
tài sản tài chính của người đầu tư. Tuy nhiên, chúng đều có tác dụng thúc đẩy đầu
tư phát triển.
- Đầu tư phát triển: Là hoạt động đầu tư mà trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực
sản xuất kinh doanh và các hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc
làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra
để xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội, mua sắm trang thiết bị, bồi
dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với
sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở
đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Nhìn chung đề tài chủ yếu nghiên cứu về đầu tư phát triển - loại hình đầu tư
gắn trực tiếp với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.1.2.Đầu tư phát triển và vai trò đối với nền kinh tế:
Như chúng ta đã biết, đầu tư phát triển chính là hoạt động đầu tư tài sản vật chất
và sức lao động chính vì thế nó là nhân tố quan trọng để phát triển và tăng trưởng
kinh tế. Vai trò của nó trong nền kinh tế được thể hiện ở các mặt sau :
- Thứ nhất đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tac động đến tổng cầu:
Về tổng cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, thường từ 24%-28%. Khi mà tổng cung chưa thay đổi, sự tăng
lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng kéo sản lượng cân bằng tăng theo và giá cân
bằng tăng.
Về tổng cung: Đầu tư làm tăng năng lực sản xuất làm tổng cung tăng và sản
lượng tăng, giá giảm xuống, cho phép tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng lại tiếp tục
kích thích sản xuất phát triển và nó là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển
kinh tế - xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi
thành viên trong xã hội.
- Thứ hai đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế :
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư tới tổng cung và tổng
cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sư thay đổi của đầu tư dù tăng hay giảm đều

cùng một lúc là yếu tố duy trì sư ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền
kinh tế của mọi quốc gia .
- Thứ ba đầu tư có tác động làm tăng cường khả năng khoa học và công nghệ
của đất nước:
Mọi con đường để có công nghệ dù là sự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều
cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư , Do vậy tất cả các con đường đổi mới
công nghệ đều phải gắn với nguồn vốn đầu tư.
- Thứ tư đầu tư có vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Con đường tát yếu để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng
cường đầu tư. Do đó đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các
quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế và sư
cân đối giữa các vùng, các ngành .
- Thứ sáu đầu tư có tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Vì: Mức tăng GDP = Vốn đầu tư / ICOR
Do đó nếu hệ số ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào
vốn đầu tư cho nên đầu tư có ảnh hưởng rất quan trọng đến tốc độ tăng trưởng và
phát triển kinh tế .
Như vậy từ các nhận xét trên đây ta có thể thấy được vai trò rất quan trọng của
đầu tư tới tăng trưởng và phát triển kinh tế, nó là nhân tố không thể thiếu cho bát
kì quốc gia nào trong quá trình phát triển.
1.2. Phân loại NVĐT
1.2.1 Nguồn vốn trong nước
* Nguồn vốn nhà nước.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn
vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của
doanh nghiệp nhà nước.
Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách
Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lựơc
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng
cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án

của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các
công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng,
lẫnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở
cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể việc bao cấp vốn trực tiếp
của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đợn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm
bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đàu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu
quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước là một hình thức quá độ chuyển từ hình thức cấp phát ngân sách sang
phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là thành phần chủ
đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng
vốn khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng
thì khu vực thì khu vực kinh tế Nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp
Nhà nước vẫn đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.Với
chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu
vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà
nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của
toàn xã hội.
* Nguồn vốn từ khu vực tư nhân.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ
của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực
kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà cuă được
huy động triệt để.
Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư
có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ tryuền thống.
Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới
dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn

huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập
và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của các nguồn tiết kiệm này phụ thuộc
vào:
- Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp
thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
+ Tập quán tiêu dùng của dân cư.
+ Chính sách động viên của Nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các
khoản đóng góp với xã hội.
Thị trường vốn.
Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các
nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn
cho các chủ đầu tư - bao gồm cả Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị
trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi
nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn dỗi của các
doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa
phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế. Đây được coi là một
lợi thế mà không một phương thức huy động nào có thể làm được.
1.2.2 Nguồn vốn nước ngoài.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng
lưu chuyển vốn quốc tế (international capital flows). Về thực chất, các dòng lưu
chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các
quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước
phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thế giới thứ ba
đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra với nhiều hình thức. Mỗi hình thức có
đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau.
Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngòai chính
như sau:
- Tài trợ phát triển vốn chính thức (ODF - official development finance). Nguồn
này bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA -offical development
assistance) và các hình thức viện trợ khác. Trong đó, ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu

trong nguồn ODF;
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại;
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài;
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế.
* Nguồn vốn ODA.
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài
cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài
trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài
các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ trong
ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%.
Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường di kèm các
điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển
giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn này với thiệt
thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nếu không
việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế.
Điều này có hàm ý rằng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, còn
cần có nghệ thuật thoả thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được những
mục tiêu có tính nguyên tắc.
* Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
Điều kiện ưu đẫi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn
ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc
về chính trị, xa hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là
tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở
ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh
doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi
suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử
dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận
của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể
gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng

trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa.
* Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn nước ngoài
khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận.
Thay vì nhận l•i suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận
thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy
phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ
thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to
lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng
trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư .
* Thị trường vốn quốc tế.
Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn
quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng vế các nguồn vốn
cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.
Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán
cũng gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những năm 1990, có sự xuất hiện
của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối năm 1999 khối lượng giao
dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi vẫn đáng kể. Riêng năm 1999, dòng
vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu vào Châu á đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ
USD.
1.3 Bản chất của nguồn vốn đầu tư
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ
mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất x• hội. Điều
này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác - Lênin và kinh tế học
hiện đại chứng minh.
Trong tác phẩm “Của cải của dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại diện điển
hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “Tiết kiệm là nguyên nhân
trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết
kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn

không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các
khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ, C.
Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế hai khu vực, khu vực I sản xuất
tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của
từng khu vực đều bao gồm (c + v + m) trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v +
m) là phần giá trị mới tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng
không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn
tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là:
(v + m)I > cII
Hay nói cách khác:
(c + v + m)I > cII + cI
Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi
hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn phải dư
thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo.
Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo:
(c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)2
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm
sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn, nền kinh tế mới
có thể dành một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ
gia tăng.
Như vậy để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một
mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng
tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác phải tăng cường sản xuất tư
liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực.
Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác, con đường
cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và
thực hành tiết kiệm cả ở trong sản xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực
cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và
tích luỹ của nền kinh tế.

Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh tế học
hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quan về việc làm,
lãi suất và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard Keynes đã chứng minh được rằng:
Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không được chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời
ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng.
Tức là:
Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư
Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng
Như vậy:
Đầu tư = Tiết kiệm
(I) (S)
Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính song phương
của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng. Thu
nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch
vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán cho người
tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng
phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra
của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác vơí
phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư.
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó,
phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và tiết kiệm
của chính phủ. Điểm cần lưu ý là tiết kiệm và đầu tư xem xét trên góc độ toàn bộ
nền kinh tế không nhất thiết được tiến hành bởi cùng một cá nhân hay doanh
nghiệp nào. Có thể có cá nhân, doanh nghiệp tại một thời điểm nào đó có tích luỹ
nhưng không trực tiếp tham gia đầu tư. Trong khi đó, có một số cá nhân, doanh
nghiệp lại thực hiện đầu tư khi chưa hoặc tích luỹ chưa đầy đủ. Khi đó thị trường
vốn sẽ tham gia giải quyết vấn đề bằng việc điều tiết nguồn vốn từ nguồn dư thừa
hoặc tạm thời dư thừa sang cho người có nhu cầu sử dụng. Ví dụ, nhà đầu tư có
thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu (trên cơ sở một số điều kiện nhất định, theo quy
trình nhất định) để huy động vốn thực hiện một dự án nào đó từ các doanh nghiệp

và các hộ gia đình - người có vốn dư thừa.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải
bao giờ cũng được thiết lập. Phần tích luỹ của nền kinh tế có thể lớn hơn nhu cầu
đầu tư tại nước sở tại, khi đó vốn có thể được chuyển sang cho nước khác để thực
hiện đầu tư. Ngược lại, vốn tích luỹ của nền kinh tế có thể nhỏ hơn nhu cầu đầu tư,
khi đó nền kinh tế phải huy động tiết kiệm từ nước ngoài. Trong trường hợp này,
mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài khoản vãng lai.
CA = S – I
Trong đó: CA là tài khoản vãng lai (current account)
Như vậy, trong nền kinh tế mở nếu như nhu cầu đầu tư lớn hơn tích luỹ nội bộ nền
kinh tế và tài khoản vãng lai bị thâm hụt thì có thể huy động vốn đầu tư từ nước
ngoài. Khi đó đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những
nguồn vốn đầu tư quan trọng của nền kinh tế. Nếu tích luỹ của nền kinh tế lớn hơn
nhu cầu đầu tư trong nước trong điều kiện thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia
đó có thể đầu tư vốn ra nước ngoài hoặc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
1.4.Đầu tư công trình hạ tầng
1.4.1.Khái niệm công trình hạ tầng
Công trình hạ tầng là các công trình được thiết kế và xây dựng tại một địa điểm
nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người như đi lại ,học hành chữa
bệnh phcj vụ sản xuất và dân sinh …
Đối với các công trình hạ tầng tthuộc các xã đặc biệt khó khăn ,vùng sâu vùng xa
và đồng bằng thiểu số …gọi chung công trình hạ tầng thuộc chương trình 135.Chủ
yếu là công trình hạ tầng có quy mô nhỏ với mức vốn đầu tư từ 1 tỷ đồng trở
xuống được thực hiện theo cơ chế đặc biệt để phù hợp với khả năng thực tế của
cán bộ và đồng bằng các dân tộc tại địa phương thuộc chương trình 135 .Đó là
những công trình hạ tầng thiết yếu phịc vụ cho sản xuất dân sinh góp phần xoá đói
giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới.
Vai trò của việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng
1.4.2.Đầu tư xây dựng công trình hạ tầng có những vai trò chủ yếu sau

Thứ nhất ,nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào ,nhân dân .Thực tế
động bào ở nông thôn nói chung và các xã đặc biệt khó khăn nói riêng thì điều
kiện về cơ sở hạ tầng là rất khó khăn ,thường là khong có hoặc có nhưng rất đơn
sơ,xuống cấp vì thế khi chương trình được thực hiện thì cơ sở vật chất được cải
thiện phần nào .Mặt khác nhân dân ở các vùng này nói chung thường suốt ngày
làm quần quật thường không có các điều kiện để tham gia các hoạt động văn hoá
vì thế khi chương trình được đưa vào cuộc sống thì sẽ cải thiện được vấn đề
này.Mặt khác nó còn giúp các vùng khó khăn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc
hậuhoà nhập vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
Góp phần tạo điều kiện xoá đói giảm nghèo với mục tiêu cụ thể là đến năm 2000
không còn hộ đói kinh niên mỗi năm giảm 4-5% hộ nghèo .Đến năm 2005 giảm tỷ
lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn xuống còn 25%.Các công trình hạ tầng
phục vụ nhân dân,giúp trẻ em có trường để học tập,nâng cao trình độ văn hoá của
nhân dân,từ quá trình đó đào tạo ra nguồn nhân lực cho đất nước,tạo điều kiện cho
nhân dân được tiếp thu với các phương thức sản xuất mới ,kiến thức khoa học văn
hoá xã hội,chủ động vận dụng các kiến thức trên ghế nhà trường vào cuộc sống.
Các công trình hạ tầng như giao thông giúp cho giao thông trên các vùng khó khăn
được cải thiện đáng kể.Góp phần tạo ra sự giao lưu kinh tế giữa các vùng,các
miền,các địa phương từ đó tạo ra các mối quan hệ kinh tế giữa các vùng góp phần
giúp kinh tế phát triển đi lên.Thường thì ở các xã đặc biệt khó khăn thì phát triển
kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và lâm nghiệp nên khi giao thông thuận lợi sẽ góp
phần làm phong phú thêm các hoạt động khác như thương nghiệp trong đó có sự
buôn bán các sản phẩm nông nghiệp .Điều đó làm tăng thu nhập cho đồng bào
nhân dân các vùng này.
Các công trình hạ tầng như điện nó mang ánh sáng văn minh về các thôn bản .Có
điện sẽ rất lợi ích cho các hoạt động sản xuất cũng như tổ chức các hoạt động về
văn hoá …Điện giúp cho các hoạt động sản xuất được tiến hành dễ dàng hơnchẳng
hạn như khi áp dụng cơ khí hoá trong sản xuất trong nông nghiệp thì rất cần các
nguồn năng lượng như điện.Các công trình như bệnh viện thì giúp bảo vệ sức khoẻ
của nhân dân,điều trị khám chữa bệnh cho nhân dân,giúp tăng lực sản xuất cho

nhân dân….
1.5.Giới thiệu tổng quát chương trình 135
1.5.1.Sự cân thiết ra đời chương trình 135
Thực hiện công tác đổi mới dô Đảng cộng sản Việt Nam đè xướng và lãnh đạo
,với mục tiêu “Dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng dân chủ văn minh “,hơn 10
năm (1986_1998)chính phủ đã ban hành nhiều chính sách quan trọng nhằm đổi
mới công tác quản lý nền kinh tế ,giải phóng lực lượng sản xuất ,khơi dậy và phát
huy tiềm tàng của các thành phần kinh tế ,của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội
nên đã đạt được nhiều thành tựu to lớn .Kinh tế tăng trưởng khá ,đời sống nhân
dân được nâng cao ,công tác quốc phòng an ninh ,chính trị và trật tự an toàn xã hội
được đảm bảo .Tuy nhiên quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang vận hành theo cơ
chế thị trường đ• tạo ra sự phân hoá giàu nghèo càng gay gắt giữa các vùng các
miền ,khu vực giữa các tầng lớp dân cư trong x• hội .Để khắc phục tình trạng này
,Đảng và nhà nước ta chủ trương thực hiên chiến lược phát triển ,tăng trưởng đi
đôi với xóa đói giảm nghèo ,thực hiện công bằng x• hội ;ưu tiên phát triển các
vùng động lực ,các ngành kinh tế chủ chốt ,tạo nguồn thu cho ngân sách ,có tích
luỷ để có điều kiện vật chất hỗ trợ chô vùng khó khăn .Yêu cầu của quá trình đổi
mới là phải có những chính sách hợp lý ,đáp ứng được mục tiêu phát triển của cả
nước ,đồng thời thực hiện công bằng xã hội phải có những chính sách đặc thù
,phải có nguồn lực hỗ trợ cho các địa phương nghèo cùng phát triển .Để thực hiện
chương trình nàythủ tướng chính phủ đã có quyết định phê duyệt chương trình
mục tiêu chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo.Đây là một chương
triình quan trọng của đất nước.

Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ đã được xác đình trong nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ bảy và lần thứ tám,mục tiêu đề ra là đến hết năm 2000 tỷ lệ hộ
đói nghèo bình quân trong cả nước xuống còn 10% nhưng đến năm 1998 vẫn còn
17% .Nguyên nhân chủ yếu là do công tác xoá đói giảm nghèo thực hiện còn nhiều
hạn chế,nguồn vốn xoá đói giảm nghèo còn hạn hẹp,còn quá nhiều các xã đặc biệt
khó khăn vẫn còn khá nhiều,nhiều xã quá rộng có địa hình khá phức tạp ,dân cư

thưa thớt ,nhiều tập tục lạc hậu trong sản xuất và đời sống đã làm hạn chế khả
năng phát triển kinh tế của các vùng này.Nhưng một nguyên nhân sâu sắc nhất đó
là chưa có chương trình quốc gia và những chính sách đặc biệt hướng tới các vùng
này.Để giải quyết và đáp ứng đòi hỏi đó chính phủ đã ban hành quyết định
135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 phê duyệt chương trình phát triển kinh tế –xã
hội các xã đặc biệt khó khăn(sau này gọi là chương trình 135).Chương trình 135 là
chương trình quốc gia được chính phủ ban hành với mụctiêu sử dụng các nguồn
vốn trong đó vốn ngân sách nhà nước là chủ yếu,bên cạnh đó còn tận dụng cũng
như huy động các nguồn vốn khác nhằm sử dụng tối đa các nguồn vốn cho công
tác xóa đói giảm nghèo .Chương trình bên cạnh hỗ trợ phát triển kinh tế còn có vai
trò xoá bỏ các tập tục lạc hậu trong đời sống hoạt động sản xuất kinh doanh cũng
như nâng cao trình độ văn hoá cho đồng bào ,giúp đồng bào các vùng này tiếp cận
với các phương thức sản xuất tiến bộ hơn,giúp đồng bào có điều kiện đẻ phát triển
tốt hơn.Từ khi có chương trình 135 đến nay nhiều khu vực đặc biệt khó khăn đã
được hỗ trợ phát triển sản xuất ,tạo chuyển biến khá căn bản trong tăng trưởng
kinh tế ,giảm nghèo và phát triển xã hội .Hoạt động chương trình phải được
hưởng ứng tích cực từ phía nhân dân cũng như phối hợp tích cực từ chính quyền
địa phương các cấp.Hoạt động của chương trình nhằm ra sự phát triển cân đối kinh
tế giữa các vùng ,các ngành,các địa phương.Thực tế đó đa bổ sung tương đối căn
bản lý luận về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Các công trình hạ tầng 135 được tiến
hành công khai dân chủ được hội đồng nhân dân xã quyết định danh mục,quy mô
thứ tự ưu tiênđầu tư và khả năng huy động nguồn lực tại xã để xây dựng công
trình nên đa nâng cao được vai trò của người dân trong việc thực hiện dự án.Các
dự án sẽ được thiết kế theo phương pháp mới là trao quyền cho cấp xã và cộng
đồng tự quyết định.Theo phương châm “dân biết dân bàn dân làm dân kiểm tra”.
1.5.2.Cơ sở lý luận và phương pháp luận
* Quan điểm chỉ đạo
- Xuất phát từ mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển đất nước đã được
khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng là đảm bảo phát triển hài hoà giữa

tăng trưởng với công bằng xã hội, từ đó hệ thống chính sách phát triển đã được
hoạch định trên những quan điểm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công
bằng xã hội phải thể hiện ở cẩ khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu
phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát
triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Tạo điều kiện cho tất cả các vùng đều phát
triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng cảu mỗi vùng để hình thành một
cơ cấu kinh tế hợp lý và liên kết giữa các vùng, tạo nên sự phát triển kinh tế, xã
hội mạnh mẽ của cả nước. Kết hợp phát triển có trọng điểm với phát triển toàn
diện các vùng lãnh thổ, giảm bớt sự chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng
giữa các vùng, điều tiết một phần tích luỹ từ nền kinh tế để hỗ trợ cho vùng khó
khăn. Vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, khu căn cứ cách mạng
được xác định là địa bàn còn nhiều khó khăn nhất cần được hỗ trợ, nhằm tạo điều
kiện ban đầu để các vùng đó từng bước vươn lên, hoà nhập với cả nước cùng phát
triển.
- Thực hiện công bằng xã hội được thể hiện trên mọi phương diện, trong đó việc
tạo cơ hội cho mọi tầng lớp dân cư thuộc mọi dân tộc có điều kiện tham gia vào
quá trình phát triển là hết sức cần thiết, thể hiện trên các mặt: được bình đẳng
trong việc đầu tư phát triển hạ tầng, hỗ trợ sản xuất,phát triển kinh tế, văn hoá,
giải quyết vấn đề x• hội, cải thiện cuộc sống của đồng bào các dân tộc…, được
trực tiếp đóng góp công sức, vật lực của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng
thôn xóm cho xây dựng quên hương mình; được đào tạo nâng cao kiến thức sản
xuất, tổ chức cuộc sống, nâng cao năng lực mọi mặt cho cán bộ và người dân trong
vùng; giúp họ tham gia sản xuất hàng hoá để trao đổi với bên ngoài; được cung
cấp thông tin về thị trường, giá cả, định hướng cho hoạt động sản xuất kinh doanh;
được tiếp cận với các dịch vụ xã hội khác.
Vùng ĐBKK miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số có vai trò quan trọng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân
tộc. Từ xa xưa, các cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm đều lấy vùng sâu, vùng
xa làm căn cứ; trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vùng này

tiếp tục được dùng làm căn cứ, làm an toàn khu, đồng bào các dân tộc trong vùng
đã hết lòng ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến, góp phần vào thắng lợi chung
của dân tộc. Sau khi chiến tranh kết thúc, đất nước rơi vào khó khăn mới nên chưa
có điều kiện hỗ trợ cho các vùng này, nay cần được đền đáp lại một cách xứng
đáng. Vì vậy, đây là đối tượng và phạm vi đầu tư của Chương trình 135.
*. Mục tiêu phát triển của các vùng lãnh thổ
Dựa trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước trong
các kỳ Đại hội Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định về quy hoạch, kế
hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm đối với các vùng đô thị, vùng kinh tế trọng điểm,
vùng công nghiệp và vùng nông nghiệp hàng hoá; nhìn chung các vùng trên có
nhiều điều kiện thuận lợi và có định hướng rõ ràng, vấn đề đặt ra là tạo điều kiện
thu hút nguồn lực để đảm bảo chất lượng và tốc độ phát triển. Riêng vùng miền
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là địa bàn có nhiều khó khăn, là vùng ít có cơ
hội thuận lợi, khó huy động nguồn lực nên cần được Nhà nước ưu tiên đầu tư, tạo
điều kiện hỗ trợ ban đầu, để:
- Trước mắt thực hiện chương trình XĐGN, việc làm, tạo thu nhập nâng cao đời
sống cho đồng bào các dân tộc trong vùng.
- Từng bước tăng khả năng khai thác các lợi thế và nguồn lực tại chỗ giải quyết
việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách.
- Tạo bước đi ban đầu để tăng tính hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư.
Việc lựa chọn những đại bàn xung yếu, những lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ phát triển
là nhiệm vụ bức thiết có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển kinh tế - xã hội
khu vực này.
1. Sự hình thành các khu vực phát triển ở các xã miền núi, vùng dân tộc thiểu số
nước ta trước khi có chương trình 135
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1997), tình hình kinh tế - xã
hội miền núi và vùng dân tộc thiểu số ở nước ta đã đạt được những tiến bộ đáng
kể, đến cuối năm 1996 đã hình thành 3 khu vực phát triển với trình độ khác nhau:
- Khu vực I: gồm các khu trung tâm đô thị, các thị trấn, các khu công nghiệp: có
806 xã, phường; 1.068.845 hộ với 5.275.369 người, chiếm tỷ lệ 39,02% dân số của

các tỉnh miền núi và vùng dân tộc.
Nét nổi bật của khu vực này là kinh tế hàng hoá phát triển khá, là vùng động lực
phát triển chính của các tỉnh, huyện miền núi; GDP bình quân đầu người có địa
phương đạt cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội đã được xây dựng tương đối đồng bộ, bước đầu phục vụ tốt sản xuất, đời
sống đồng bào. Trình độ dân trí, đời sống văn hoá - xã hội cộng đồng khá tiến bộ.
- Khu vực II: là khu vực đệm giữa khu vực I (đô thị…) với khu vực III (vùng sâu,
vùng xa…); có 1.737 x•, phường; 1.516.005 hộ với 7.764.202 người, chiếm tỷ lệ
44,18% dân số của các tỉnh miền núi và vùng dân tộc.
Nhìn chung kinh tế khu vực này phát triển chậm, sản phẩm hàng hoá ít; GDP bình
quân đầu người chỉ bằng 70% mức bình quân chung cả nước; sản xuất nông lâm
nghiệp còn nhiều hạn chế, một bộ phận dân cư còn phát rừng làm rẫy, khả năng tái
du canh du cư và tái trồng cây thuốc phiện còn nhiều; đời sống kinh tế tuy đã được
cải thiện nhưng thiếu bền vững. Số hộ đói nghèo chiếm tỷ lệ cao (20-50%). Cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội đã được xây dựng nhưng chưa đồng bộ hoặc còn tạm bợ,
chưa phục vụ tốt sản xuất, đời sống đồng bào. Mặt bằng dân trí còn thấp, đời sống
văn hoá -xã hội cộng đồng còn nhiều mặt hạn chế so với khu vực I.
- Khu vực III: gồm 1.557 xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng giáp biên. Vùng
căn cứ kháng chiến; có 799.034 hộ với 4.533.598 người, chiếm tỷ lệ 25,8% dân số
của các tỉnh miền núi và vùng dân tộc.
Đây là khu vực còn nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội rất yếu kém
(còn 672 xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xa) - nhiều nơi thiếu đất canh tác
nông nghiệp, thiếu nước sinh hoạt nghiêm trọng. Sản xuất còn mang nặng tính tự
nhiên, tự cấp, tự túc, phát, đốt rừng làm rẫy, sống du canh du cư hoặc định cư
nhưng còn du canh… Số hộ đói nghèo chiếm trên 60%. GDP bình quân đầu người
chỉ bằng 31% mức bình quân chung cả nước. Trình độ dân trí rất thấp, số người
mù chữ, thất học chiếm trên 60%. Đời sống văn hoá - xã hội cộng đồng chậm cải
thiện, thiếu thông tin liên lạc, truyền thanh, truyền hình nhiều nơi chưa đến dân…
Tuy nhiên, khu vực này lại có vị trí rất quan trọng đối với quốc phòng, an ninh và
là vùng đầu nguồn của các con sông lớn nên có vai trò to lớn bảo vệ môi trường

sinh tái của cả nước.
Để tạo điều kiện cho các khu vực khai thác lợi thế của mình, đẩy nhanh nhịp độ
phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tới, góp phần tích cực vào sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xác định đúng cơ chế đầu tư và có
chính sách hỗ trợ phát triển phù hợp với điều kiện và trình độ của từng khu vực.
*. Cơ chế đầu tư đối với từng khu vực
- Đối với khu vực I: Cần tạo điều kiện cho khu vực này tiếp tục phát triển với nhịp
độ cao hơn hoặc bằng mức bình quân chung cả nước, phát huy vai trò vùng động
lực, thúc đẩy ở các vùng phụ cận phát triển, làm đầu mối giao lưu với các vùng
khác trong nước và với nước ngoài. Cơ chế đầu tư thích hợp với khu vực là tích
cực huy động nguồn lực từ cộng đồng, sử dụng vốn vay trong nước và nước ngoài
để phát triển là chính. Nhà nước hỗ trợ chủ yếu cho việc hoàn thiện và nâng cấp
cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã có, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao cho sản xuất
và đời sống của dân cư trong vùng.
- Đối với khu vực II: Tuy có nhiều tiềm năng phát triển nhưng trước mắt còn
nhiều khó khăn, hạn chế. Vì vậy, đòi hỏi phải có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước,
kết hợp với các nguồn lực từ cộng đồng để xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng
kinh tế - xã hội. Huy động các nguồn vốn trong dân và vốn tín dụng Nhà nước cho
vay với lãi suất ưu đãi, giúp đồng bào khai thác lợi thế của địa phương, mở rộng
diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây được dược liệu, phát triển chăn
nuôi hình thành vùng nguyên liệu có khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng lớn
và đa dạng, tạo nguồn thu nhập để xoá đói giảm nghèo, thực hiện định canh định
cư và bỏ trồng cây thuốc phiện một cách bền vững.
- Đối với khu vực III: đây là khu vực có nhiều khó khăn nhất, trình độ phát triển
thấp kém nhất, đòi hỏi Nhà nước phải tập trung đầu tư một cách đồng bộ theo
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn huyện-xã. Các
ngành, các cấp phải tăng cường đi sâu chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện các chương
trình lồng ghép trên địa bàn đảm bảo đưa lại lợi ích thiết thực cho đồng bào.
Những nơi cơ sở quá yếu phải có cán bộ tăng cường đến công tác trực tiếp hướng
dẫn đồng bào thực hiện xoá đói giảm nghèo và xây dựng cơ sở chính trị vững

mạnh.
* Những nhiệm vụ cơ bản về phát triển vùng ĐBKK
- Bố trí lại sản xuất

×