Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Để tiến lên một nước công nghiệp tiên tiến cần đối mặt với môi trường cạnh tranh rất khắc nghiệt pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.1 KB, 77 trang )

Lời mở đầu
Nền kinh tế thị trường tại Việt Nam đang trên đà phát triển một cách mạnh
mẽ, chúng ta đang có rất nhiều điều kiện thuận lợi dể tiến lên một nước công
nghiệp tiến tiến. Đồng thời đó là một môi trường cạnh tranh rất khắc nghiệt. Đòi
hỏi mỗi chủ thể kinh tế tham gia vào thị trường phải có một khả năng tài chính
vững mạnh và trong sạch. Vấn đề vốn đầu tư trong nên kinh tế hiện nay đang là
vấn đề nóng bỏng và nhạy cảm. Yêu cầu đặt ra là chúng ta cần phải có lượng vốn
lớn đầu tư vào nền kinh tế. Do đó vai trò tín dụng ngân hàng trong hoạt động kinh
tế là hết sức quan trọng.
Trong vòng quay của nền kinh tế, ngành ngân hàng luôn có ảnh hưởng to
lớn trong hoạt động kinh doanh. Để dáp ứng nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế về
vấn đề vốn đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng cho phù hợp,
hiệu quả cao, rủi ro thấp nhất có thể. Trước tình hình hội nhập của toàn bộ nên
kinh tế, cũng như của ngành ngân hàng nói riêng, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống
Ngân hàng Công thương và Chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực Đống
Đa là phải hạn chế thấp nhất rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình đặc biệt
là trong hoạt động tín dụng.
Nhận thức được sự quan trọng của vấn đề này, tôi đã lựa chọn đề tài: “Giải
pháp hạn chế rủi ro trong kinh doanh tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Công
Thương khu vực Đống Đa”. Rất mong được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn
đọc để góp phàn làm cho đề tài này đựơc hoàn chỉnh hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng
1.1. Tín dụng.
1.1.1. Khái niệm.
Tín dụng là giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là
ngân hàng và các dịnh chế tài chính khác với bên đi vay là cá nhân, doanh
nghiệp…Trong đó quyền cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả
vô điều kiện cả vốn gốc lẫn lãi cho bên cho vay khi đén hạn thanh toán.
Bên cạnh đó quan hệ tín dụng cũng cần được hiểu là quan hệ hai chiều, và


ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
Nghiệp vụ kinh doanh tín dụng là nghiệp vụ kinh doanh chủ chốt của
NHTM để tạo ra lợi nhuận nhằm bù đắp những chi phí phát sinh trong hoạt động
kinh doanh, trong đó có chi phí bù đăp rủi ro tín dụng, và các chi phí khác.
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng.
- Những hình thức trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm cho vay và
cho thuê . Tài sản giao dịch trong cho vay là bằng tiền và tài sản trong cho thuê là
bất động sản và động sản. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp
trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện.
- Lòng tin: Quan hệ tín dụng được hình thành trên cơ sở niềm tin rằng
người đi vay sẽ hoàn trả đúng hạn.
- Về mặt pháp lý, những văn bản xác dịnh quan hệ tín dụng như hợp đồng
tín dụng, khế ước…đó là những văn bản pháp lý nhằm ràng buộc những trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của hai bên cho vay và đi vay.
- Tính hoàn trả: Người đi vay thông thường phải thanh toán phần lãi ngoài
vốn gỗc, vì vậy người đi vay phải thanh toán nhiều hơn so với lúc đầu vay.
- Tính thời hạn: Là khoảng thời gian mà người đi vay phải hoàn trả đúng
hạn.
1.1.3. Vai trò của tín dụng.
- Thứ nhất, tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình tái sản xuất
đồng thời góp phần đầu tư vào phát triển kinh tế.
Nhu cầu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề quan trọng
đối với mỗi doanh nghiệp, bên cạnh đó quan hệ mua bán chịu luôn tồn tại trên thị
trường, do đó với hoạt động tín dụng đã góp phần vào quá trình luân chuyển vốn
trong nền kinh tế được diễn ra nhanh hơn, giúp cho người cần vốn có thể tìm được
vốn nhanh hơn, hiệu quả hơn để có thể duy trì hoạt động sản xuẩt kinh doanh được
liên tục và giúp cho người thừa vốn có thể bảo quản an toàn, đồng thời kinh doanh
kiếm lời.
Trong nền sản xuất hàng hoá, tín dụng là một trong những nguồn hình
thành vốn cho doanh nghiệp, đã góp phần động viên vật tư hàng hoá đi vào sản

xuất, thúc đẩy ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để đẩy nhanh quá trình tái sản
xuất xã hội.
- Thứ hai, tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Bản chất đặc trưng hoạt động ngân hàng là huy động vốn tiền tệ tạm thời
nhàn rỗi phân tán trong nền kinh tế, trong xã hội để thực hiện cho vay tới các đơn
vị kinh tế co nhu cầu vốn phục vụ cho qua trình sản xuất kinh doanh. Đầu tư tập
trung là yêu cầu tất yếu của nền kinh tế sản xuất hàng hoá, hạn chế sự l•ng phí
vốn, tiết kiệm mọi nguồn lực như thời gian, chi phí huy động vốn cho sản xuất…
- Thứ ba, tín dụng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và luân chuyển
tiền tệ.
Tín dụng đã tham gia trực tiếp vào quá trình luân chuyển hàng hoá và luân
chuyển tiền tệ tạo điều kiện phát triển nền kinh tế, đặc biệt những ngành kinh tế
trọng điểm trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế. Hoạt động tín dụng luôn chịu sự
chi phối trực tiếp của chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ, vì vậy đã góp
phần vào việc đẩy nhanh qua trình lưu chuyển tiền tệ trong nên kinh tế thị trường,
hạn chế thấp nhất sự ứ đọng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh
vòng quay của vốn.
-Thứ tư, tín dụng góp phần thúc đẩy chế độ hạch toán kinh tế
Với sự tài trợ tín dụng của ngân hàng, mỗi doanh nghiệp phải thực hiện một
chế độ hạch toán kinh tế và các định chế tài chính khác một cách minh bạch và
hiệu quả hơn. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng các doanh nghiệp phải tôn trọng các
hợp đồng tín dụng, phải thực hiện thanh toán lãi và nợ vay đúng hạn, cũng như
việc chấp hành các quy định ràng buộc trách nhiệm nghĩa vụ khác ghi trong hợp
đồng như là về vấn đề tài chính…
Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp khi sử dụng vốn vay của ngân hàng phải
quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất kinh
doanh, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Thứ năm, tín dụng tạo điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của đát nước yêu cầu các
doanh nghiệp phải mở rộng mối quan hệ kinh tế không chỉ trong phạm vi một

quốc gia mà còn phả mơ rộng ra phạm vi khu vực và thế giới. Tín dụng đ• trở
thành cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với thế giới và khu vực. Đối với nước
ta, một nước đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, tín dụng đóng vai
trò rất quan trọng nhất là trong công tác xuất nhập khẩu, trong công cuộc quảng bá
thương hiệu NGƯờI Việt trên thế giới.
Tín dụng ngày nay là một công cụ để giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước
có đủ năng lực để tham gia vào thị trường thế giới như tài trợ việc mua bán chịu
hàng hóa, mở rộng sản xuất , nang cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với yêu
cầu về quy mô và chất lượng của thị trường thế giới.
- Thứ sáu, tín dụng là công cụ tài trợ vốn cho các ngành kinh tế kém phát
triển và các ngành kinh tế trọng điểm.
Với công cụ tín dụng, Chính phủ sẽ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát
triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời hạn dài, mức vốn lớn. Ngoài
ra, Chính phủ còn tập tung vốn tín dụng vào việc phát triển các ngành kinh tế mũi
nhọn, để tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển theo. Điều này
được thể hiện rõ trong chính sách, chiến lược phát triển đất nước từng thời kỳ.
- Thứ bảy, tín dụng góp phần điều chính cơ cấu kinh tế, chính sách kinh tế,
hạn chế lạm phát.
Ngân hàng tạo ra các nguồn vốn chủ yếu từ việc huy động các nguồn tiền
nhàn rỗi trong nền kinh tế thông qua chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, sau đó
đầu tư vào nền kinh tế, vào các công trình trọng điểm trong chính sách phát triển
đất nước mà Chính phủ đã đề ra. Bên cạnh đó vẫn đảm bảo đựơc không ảnh hưởng
tiêu cực đến tình hình giá cả và lưu thông tiền tệ quốc gia. Ngược lại, Nhà nước sử
dụng biện pháp khác, ví dụ như phát hành tiền giấy để tạo nguồn vốn đầu tư vào
nền kinh tế, sẽ gây ra sự mất cân đối trong lưu thông, trong quan hệ hàng hoá -
tiền tệ, làm tăng lạm phát… Kết quả là ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
1.2. Rủi ro tín dụng và biện pháp quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng
thương mại
1.2.1. Hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.

Sau khi đất nước tiến hành chuyển đổi nền kinh tế theo hướng thị trường và
có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, hệ thống ngân hàng được phân chia
thành hai cấp. Ngân hàng Nhà nước được đảm nhiệm chức năng quản lý vĩ mô,
còn các NHTM thực hiên nhiệm vụ kinh doanh trên lĩnh vực tài chính tiền tệ trong
đó có hoạt động kinh doanh tín dụng. NHTM được hoạt động độc lập trển cơ sở lỗ
lãi tự chịu trách nhiệm.
Nguồn vốn kinh doanh hiện nay không còn do Nhà nước cấp mà phải tự huy
động từ những nguồn nhàn rỗi trong xã hội, thực hiên các hoạt động kinh doanh
mang lại lợi nhuận bù đắp các chi phí đầu vào, trên nguyên tắc phù hợp với các
chế độ, chính sách kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
1.2.2. Rủi ro tín dụng và các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt
động kinh doanh tín dụng của NHTM
1.2.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng
cho một khách hàng, hay có thể hiểu là khả năng khách hàng không trả được nợ
theo hợp đồng tín dụng. Xét về khía cạnh của ngân hàng, thi rủi ro tín dụng đồng
nghĩa với thu nhập dự tính của ngân hàng từ các tài sản có sinh lời không được
hoàn trả đày đủ cả về mặt số lượng và thời hạn.
Do quan hệ tín dụng được hiểu theo hai chiều là đi vay và cho vay, vì vây,
cũng cần phải hiểu rủi ro tín dụng theo hai chiều đó là rủi ro trong cho vay và rủi
ro trong hoạt động đi vay.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhu càu cấp thiết về nguòn vốn đàu
tư càng lớn thì mức độ rủi ro tín dụng càng cao. Nguồn thu nhập chính của các
NHTM là từ l•i suất mà người vay sẽ thanh toán cho ngân hàng, phần khác là từ
hoạt động trao đổi các món vay hoặc từ việc bảo đảm và cung cấp các dịch vụ
tương tự. Nguồn thu nhập này phụ thuộc chủ yếu vào doanh số và lãi suất cho
vay.
Tuy nhiên không có gi đảm bảo chắc chắn rằng tiền vay và tiền lãi sẽ được
người vay hoàn trả đúng hạn và đầy đủ. Sự mất mát vốn vay và thu nhập này do
nhiều nguyên nhân khác nhau, đó chính là những rủi ro mà ngân hàng thường gặp

khi cho vay. Những rủi ro này là một nhân tố quan trọng có thể quyết định sự tồn
tại của cả một ngân hàng. Vì vậy, mục tiêu chính của các nhà quản trị rủi ro tín
dụng là đảm bảo lợi nhuận tối đa ở các mức rủi ro có thể chấp nhận được. Trong
điều kiện cạnh tranh việc cung cấp dịch vụ tài chính – ngân hàng gia tăng và bị áp
lực từ nhiều phía, do đó có thể nói rằng tình trạng rủi ro và đặc biệ là rủi ro tín
dụng của ngân hàng đang được hết sức chú trọng.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của
các NHTM.
Để có thể đánh giá được đúng mức độ rủi ro tín dụng của các NHTM cần
phải dựa trên một số chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu: Tổng dư nợ tín dụng trên tổng tài sản có
Dư nợ tín dụng
Tổng tài sản có
Đây là chỉ số tổng quan về quy mô hoạt động của ngân hàng. Chỉ tiêu này
phản ánh hiệu quả tín dụng của một đồn tài sản có.
Có thể đánh giá kèm với chỉ tiêu:
Dư nợ tín dụng
Tổng nguồn vốn huy động
Từ đó có thể đánh giá được, rằng hiệu quả sử dụng vốn nói chung của ngân
hàng và hiệu quả sử dụng vốn huy động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng chỉ có thể
xảy ra khi bản thân ngân hàng cho vay quá nhiều so với tiêu chuẩn an toàn của
Ngân hàng Nhà nước, so với quy mô vốn huy động.
Hiện nay, các ngân hàng thường cho vay với tỷ lệ chiếm khoảng trên 70%
trong toàn bộ danh mục tài sản có. Nếu cho vay qua mức sẽ ảnh hưởng đến khả
năng thanh khoản, khả năng quản lý của ngân hàng, khi đó khả năng xảy ra rủi ro
tín dụng sẽ rất lớn.
- Chỉ tiêu: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Đây là chỉ tiêu cơ bản để đánh giá chất lượng tín dụng. Chỉ tiêu này càng

thấp càng tốt, nhưng ngược lại không thể đánh giá rằng khi chỉ số này vượt quá
tiêu chuẩn chung của ngành thì là xấu. Để có thể đánh giá được một cách chính
xác hơn về tình hình nợ quá hạn của ngân hàng ta cần phải đánh giá kèm theo chỉ
tiêu vòng quay của các khoản nợ quá hạn này, khả năng giải quyết các khoản nợ
quá hạn. Bởi vì, tỷ lệ nợ quá hạn cao mà khả năng giải quyết nợ quá hạn hay vòng
quay của các khoản nợ quá hạn cao thì khả năng ngân hàng gặp rủi ro tín dụng sẽ
sất thấp. Và ngược lại, ngân hàng sẽ gặp rủi ro tín dụng.
- Chỉ tiêu: Nợ khó đòi trên tổng nợ quá hạn
Nợ quá hạn khó đòi
Tổng nợ qua hạn
Tỷ lệ này đánh giá các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, được xác định là
không có khả năng thu hồi. Tỷ lệ này cao chứng tỏ khả năng thu hồi vốn thấp,
nguy cơ mất vồn cao, chất lượng tín dụng của ngân hàng thấp.
- Chỉ tiêu: Mức độ chênh lệch thời lượng của tài sản có vời tài sản nợ
Chỉ tiêu này phản ánh nếu kế hoạch huy động vốn và sư dụng vốn không có
sự nhất quán thì sẽ dẫn đến nguy cơ xả ra rủi ro tín dụng rất cao và kho đó mức độ
ảnh hưởng là toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Đánh giá mức độ ảnh hưởng của
sự chênh lệch của thời lượng có thể dựa vào công thức sau:
Trong trường hợp E < 0, chứng tỏ rằng ngân hàng gặp rủi ro trong hoạt
động kinh doanh, trong đó có cả rủi ro tín dụng.
1.2.2.3 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng.
a. Nhóm nguyên nhân chung
a.1. Môi trường kinh tế có những biến động đối nghịch với mục tiêu phát
triển của mỗi ngân hàng .
- Nền kinh tế suy thoái và được thể hiện qua các chỉ số kinh tế vĩ mố sau:
lạm phát tăng trong nhiều kỳ liên tiếp, sự biến động của đồng nội tệ, lãi suất thị
trường tăng…
Lạm phát tăng cao trong nhiều kỳ liên tiếp. Khi đó chỉ số giá cúa các loại
hàng hoá trên thị trường tăng theo. Điều này đồng nghĩa rằng chi phí sản xuất đầu

vào tăng, và sẽ ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động tiêu thụ trên thị trường của người
đi vay. Doanh số giảm sẽ kéo theo lợi nhuận giảm theo. Kết quả là ảnh hưởng đến
kế hoạch trả nợ của người di vay đối vói ngân hàng
Khi có sự biến động của tỷ giá thì cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng, ví dụ
như trong trường hợp cho vay các doanh nghiệp nhập khẩu, nếu tỷ giá tăng sẽ dẫn
tới trường hợp thua lỗ do chi phí đầu vào tăng, qua đó ảnh hưởng tới khả năng trả
nợ ngân hàng.
a.2. Xuất phát từ ảnh hưởng của văn hoá xã hội.
Đó là ảnh hưởng của việc thay đổi tập quán tiêu dùng trong xã hội, nhất là
trong giai đoạn chuyển giao của nền kinh tế nước ta. Đó là sự thay đổi cách suy
nghĩ của cả một xã hội về thói quen tiêu dùng, nếu doanh nghiệp nào không có sự
nắm bắt kịp thời mức độ thay đổi đó sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh
của mình, thậm chí có thể dẫn tới phá sản, điều đó sẽ trực tiếp, hoặc gián tiếp gây
khó khăn cho ngân hàng trong hoạt động cho vay.
Đây thực sự là vấn đề đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có hoạt động marketing
một cách có hiệu quả.trong giai đoạn canh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế.
a.3. ảnh hưởng của nhân tố công nghệ.
Yếu tố công nghệ hiện nay đang là yếu tố rất quan trọng quyết định đến
sức cạnh tranh trên thị trường cuả mỗi ngân hàng. Trên thực tế, sự thay đổi của
công nghệ thông tin đã tác động mạnh mẽ tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng
và tới cả quá trình cấp tín dụng. Qua đó nhằm khai thác triệt để “vốn thời gian”,
kéo dài cánh tay hoạt động của ngân hàng và luôn giữ vị trí của mình trong nền
kinh tế quốc dân. Góp phần làm hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
a.4. ảnh hưởng của môi trường chính trị pháp luật
Kinh doanh ngân hàng là một trong những ngành kinh doanh chịu sự giám
sát chặt chẽ của luật pháp. Môi trường pháp lý sẽ mang đén cho ngân hàng một
loạt các cơ hội mới cũng như thách thức mới. Điều này được thể hiện rõ trong hoạt
động tín dụng, như việc rỡ bỏ các hạn chế trong cho vay các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh, còn sự nới lỏng trong quản lý của luật pháp cũng có thể đặt ngân hàng

trước những nguy cơ cạnh tranh mới, như việc cho phép thành lập các ngân hàng
nước ngoài sẽ đặt các ngân hàng của nước đó vào tình thế cạnh tranh gay gắt hơn
và chính sách đầu tư, tiết kiệm của Chính phủ trong từng thời kỳ
Sự thiếu chính xác trong dự đoán môi trường luật pháp trong hoạt động tín
dụng cũng đẩy ngân hàng vào tình trạng rủi ro, như dự đoán sai khu vực kinh tế
được ưu tiêu đầu tư, hay bị hạn chế,… dẫn đến tình trạng sai lầm trong chính sách
huy động vốn và trong chính sách cho vay.
Môi trường chính trị pháp luật này không chỉ bó gọn trong phạm vi Luật
các tổ chức tín dụng, mà còn liên quan tới Luật dân sự, Luật Doanh nghiệp… và
cũng không chỉ bó gọn trong phạm vi một quốc gia mà còn mở rộng ra phạm vi
quốc tế nhất là trong điệu kiện kinh tế hội nhập như hiện nay. Đồng nghĩa với đó
là rủi ro sẽ không còn là ở mỗi ngành ngân hàng mà lan tới tầm quốc gia, khu vực.
a.5. Môi trường địa lí
Các vùng địa lí khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau như tài
nguyên, giao thông, địa hình, tập quán, cách thức giao tiếp, nhu cầu về hàng hoá
dịch vụ nói chung và sản phẩm dịch vụ tài chính ngân hàng nói riêng. Chính
những điều kiện đó hình thành các tụ điểm dân cư, trung tâm thương mại, du lịch
hoặc trung tâm sản xuất…
Rủi ro trong hoạt động tín dụng do môi trường địa lí mang đến rất khó có
thể nắm bắt, dự đoán và nếu có thể dự đoán dược thì cũng sẽ bị tổn thất rất cao
như sự khắc nghiệt của thiên nhiên, sự khan hiếm nguồn tài nguyên… Những
doanh nghiệp hoạt động trong những khu vực này luôn chịu sự cạnh tranh gay gắt,
những nguy cơ rủi ro rất cao.
b. Nguyên nhân từ phía người vay
b.1. Đối với nhóm khách hàng cá nhân (trong cho vay tiêu dùng)
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu
của người tiêu dùng bao gồm cá nhân và hộ gia đình. Đây là nguồn tài chính vô
cùng quan trọng trang trải nhu cầu nhà ở, đồ dùng gia đình và xe cộ…
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay tiêu dùng đó là:
+ Do tình trạng sức khoẻ, bệnh tật, hoặc mâu thuẫn trong gia đình

+Người vay bị thât nghiệp tạm thời, hoặc lâu dài ảnh hưởng đến thu nhập
+ Do người đi vay hoạch định ngân sách không chính xác, hoặc có thể do
người đi vẳy dụng tiền vay sai mục đích, hoặc chưa có kinh nghiệm trong việc tổ
chức sản xuất, quản lý kinh doanh… dẫn đến trả nợ không đúng hạn cho ngân
hàng.
Trong tương lai nhu cầu vay tiêu dùng trong dân cư có khả năng tăng mạnh,
do mức sống của các tầng lớp dân cư ngày càng tăng cao cả về vật chất lẫn tinh
thần. Vì vậy, bản thân các ngân hàng cần phải có chính sách tín dụng thích hợp để
hạn chế rủi ro trong cho vay, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả tín dụng.
b.2. Đối với khách hàng là doanh nghiệp.
Những nguyên nhân có thể gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng là:
+ Doanh nghiệp sử dụng vốn vay sai mục đích, hoặc sử dụng vốn vay vào
việc sản xuất kinh doanh các loại mặt hàng bị pháp luật cấm.
+ Không đảm bảo tính hiệu quả trong sử dụng vốn, lãng phí, tham ô, tham
nhũng.
+ Doanh nghiệp gặp phải các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình,
đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới rủi ro cho ngân hàng.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh xảy ra do tính khả thi của dự án còn
thấp, không khoa học, không tiếp cận được thị trường. Do chưa đánh giá được
chính xác nhu cầu thị trường, hay đánh giá sai lầm về khả năng tiêu thụ của thị
trường. Dẫn đến tình trạng sản phẩm tồn kho quá nhiều so với nhu cầu. Cần quan
tâm đến công tác nghiên cứu thị trường nhất là công tác Marketing doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp bị thiệt hại trên thị trường đầu vào. Đây là thị trường cung
cấp các nguồn lực cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, dịch vụ, thiết bị
công nghệ…Do không có kế hoạch trước những biến động của thị trường như
tình trạng tăng giá nguyên vật liệu không thể kiểm soát, trực tiếp sẽ làm tăng giá
thành sản phẩm. Nếu doanh nghiệp tăng giá sản phẩm lên thì sẽ làm cho việc
tiêu thụ sản phẩm chậm lại, tình hình luân chuyển vốn chậm, ảnh hưởng tơi khả
năng thanh toán nợ ngân hàng của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp giữ
nguyên giá hoặc không tăng giá thì sẽ làm giảm lợi nhuận và khả năng tái sản xuất

của doanh nghiệp trong tương lai, thậm chí có thể bị thua lỗ.
Ngoài ra, còn do chất lượng của nguyên vật liệu không đảm bảo ảnh hưởng
tới chất lượng sản phẩm, có thể làm giảm uy tín thương hiệu sản phẩm trên thị
trường, làm giảm khả năng cạnh tranh. Do đó bản thân mỗi doanh nghiệp cần phải
có chính sách dự trữ nguyên vật liệu để đề phòng trường hợp tăng giá gây thiệt hại
cho quá trình sản xuất, nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời
vụ cao.
- Do doanh nghiệp gặp khó khăn trong quá trình sản xuất như tình hình
năng suất lao động giảm sút, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ tay nghề của
công nhân còn thấp kém. Do cơ cấu chi phí cố định chiếm tỷ trọng lớn, gây ra hiện
tượng l•ng phí ứ đọng vốn. Cũng có thể là do trình độ quản lý doanh nghiệp của
ban giám đốc còn yếu, không hiệu quả, không động viên được đội ngũ nhân viên
hoạt động hăng say, không có chế độ lương bổng khuyến khích, chính sách quản
lý thiếu chiều sâu.
- Rủi ro tín dụng cũng có thể xảy ra khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong
tình hình tài chính. Do doanh nghiệp có hệ số nợ cao đó là kết quả của quá trình
tăng trưởng quá nóng hoặc quá chậm, do doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn trong
thời gian dài, không có biện pháp thu hồi nợ, làm hạn chế khả năng quay vòng của
các khoản phải thu. Với khả năng tài chính vững mạnh, trong sạch sẽ như là cái
móng vững chắc cho toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh và tạo dựng lòng tin
đối với Ngân hàng.
- Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng có thể gặp rủi ro trên thị trường đầu ra.
Do khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường còn thấp, chất lượng kém,
mẫu m• không bắt mắt. Và áp lực của cạnh tranh bắt buộc doanh nghiệp phải hạ
thấp giá thành một cách đồng loạt, điều nảy ảnh hưởng đến thu nhâp của doanh
nghiệp. Hơn nữa, chính sự thiếu quan tâm, đầu tư vào công tác phân tích, phán
đoán, dự báo thị trường làm giảm khả năng tham gia thị trường, hoặc sản xuất quá
lớn so với nhu cầu, dẫn tới tình trạng ứ đọng hàng hoá, hạn chế khả năng quay
vòng của hàng tồn kho. Hệ thống mạng lưới đại lý, cửa hàng tiêu thụ không được
đặt đúng vùng thị trường, sản phẩm không tới được tay người tiêu dùng. Nhất là

sắp tới sẽ có sự tham gia mạnh mẽ của các ngân hàng nước ngoài do xu thế hội
nhập hoá nền kinh tế, đòi hỏi mỗi ngân hàng cần phải có chính sách nghiên cứu thị
trường hợp lý hơn, hiệu quả hơn.
- Rủi ro tín dụng còn liên quan tới đạo đức của người sử dụng vốn vay ngân
hàng. Họ sử dụng với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt vốn tín dụng của ngân hàng
thông qua việc tạo ra những dự án ảo. Những trường hợp như thế này hiện nay
đang tồn tại rất nhiều, đòi hỏi phải nâng cao công tác thẩm định khách hàng nhằm
hạn chế rủi ro.
c. Về phía ngân hàng
Ngoài những nguyên nhân xuất phát từ phía người vay, từ môi trường
khách quan có thể gây ra tình trạng rủi ro tín dụng, còn có những nguyên nhân chủ
quan từ phía các ngân hàng:
+ Do chính sách tín dụng của ngân hàng không phù hợp với đặc điểm, thực
trạng của nền kinh tế và chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ. Chính sách
tín dụng được hiểu đầy đủ bao gồm định hướng chung trong cho vay, chế độ tín
dụng ngắn, trung và dài hạn, các quy định về bảo đảm tiền vay, về loại khách hàng
và ngành nghề được ưu tiên, quy trình xét duyệt cho vay…quá chú trọng vào mục
tiêu lợi nhuận, tăng trưởng, bỏ qua sư an toàn trong hoạt động kinh doanh. Một
chính sách không đầy đủ đúng đắn và thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho
hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo kẽ hở
cho người sử dụng vốn để gian lận chiếm đoạt vốn bất hợp pháp… cuối cùng là
không đem lại hiệu quả kinh tế, nguy cơ rủi ro cao.
+ Khâu phân tích thẩm định còn yếu đây là một trong những nguyên nhân
trực tiếp gây ra rủi ro tín dụng. Do cán bộ tín dụng năng lực thấp, chưa được đào
tạo đầy đủ, ít kinh nghiệm trong ngành nghề mà mình tài trợ, ngoài ra cũng có thể
do vấn đề đạo đức không tốt của cán bộ thẩm định như không trung thực, thiếu
trách nhiệm, cấu kết với người đi vay để chiếm đoạt vốn của ngân hàng.
+ Nguyên nhân thứ ba là do ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiên
không đầy đủ khâu bảo đảm tín dụng. Như cán bộ thẩm định đánh giá sai giá trị tài
sản đảm bảo bao gồm cả giá trị hiện tại và trong tương lai, hoặc lại quá tin tưởng

vào tài sản đảm bảo coi đó là “bùa hộ mệnh” cho công tác thu hồi vốn sau này, mà
coi nhẹ công tác kiểm tra, đôn đốc, giám sát thực hiện dự án, phòng ngừa rủi ro,
không có những biện pháp kịp thời nhằm hạn chế khoản vay có thể dẫn tới nợ quá
hạn.
+ Các ngân hàng thường đứng trước một mâu thuẫn đòi hỏi sự linh hoạt
trong quá trình giải quyết, đó là mở rộng tín dụng để tăng lợi nhuận, đồng thời hạn
chế rủi ro tín dụng. Nhiều ngân hàng ra sức tăng mức dư nợ tín dụng mà bỏ qua
hoặc hạ thấp những tiêu chuẩn cho vay. Hay nói một cách khác là ngân hàng chỉ
chạy theo số lượng tín dụng mà không coi trọng chất lượng tín dụng, do đó rất
nguy hiểm đối với công tác tín dụng của ngân hàng. Để tăng lợi nhuận, ngân hàng
cần phải có những biện pháp hạn chế những chi phí không hợp lý nhưng các ngân
hàng đã không xác định rõ những chi phí nào đối với mình là không hợp lý và đã
loại bỏ những chi phí hợp lý khác làm giảm thấp chất lượng nghiệp vụ, gây ra rủi
ro cho hoạt động kinh doanh.
+ Một yếu tố luôn ảnh hưởng tới khâu thẩm định của cán bộ tín dụng đó là
chất lượng và số lượng thông tin. Bởi vì bản thân hoạt động ngân hàng luôn trong
tình trạng thông tin không cân xứng, cho nên đòi hỏi công tác thẩm định phải sàng
lọc thông tin một cách kỹ càng, chính xác, tránh bỏ sót những dự án hiệu quả cao
và tránh nhận những dự án không có hiệu quả hay hiệu quả thấp. Các ngân hàng
chưa được cung cấp đầy đủ và chính xác, mặc dù Trung tâm thông tin tín dụng
CIC đã được thành lập và đi vào hoạt động nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao,
chưa cập nhật. Trong nhiều trường hợp ngân hàng không nắm được đầy đủ thông
tin về quan hệ tín dụng của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác nên có thể
phán quyết sai lầm khi cho vay.
+ Do ngân hàng không thực hiên tốt công tác giám sát tín dụng. Bởi vì,
trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng hạn chế, thiếu thực tế, chỉ dựa trên giấy tờ,
số liệu báo cáo của khách hàng. Thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác nghiệp
vụ, kiểm tra, kiểm soát lấy lệ, hời hợt, chỉ mang tính hình thức, không phản ánh
đúng sự thật do chịu áp lực từ cấp trên, từ chính quyền địa phương. Một hệ thống
kiểm soát lỏng lẻo dễ dẫn đến tình trạng thất thoát vốn, giảm thấp hiệu quả hoạt

động kinh doanh.
+ Ngoài các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trên, Ngân hàng cũng có
thể gặp rủi ro tín dụng do cho vay quá tập trung vào một đối tượng, một khu vực,
một ngành cho nên đã hạn chế sự linh hoạt của ngân hàng trước những biến động
của thị trường cạnh tranh, gây ra tổn thất cho ngân hàng. Có thể do công tác thiết
kế sản phẩm tín dụng không phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của người vay,
hoặc do vẫn còn nặng tính chất quan liêu, quan cách trong hoạt động giao dịch với
khách hàng, hoặc có thể do cán bộ ngân hàng vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông
đồng với khách hàng, nhận hối lộ, cố tình làm sai nguyên tắc.
d. Nguyên nhân rủi ro tín dụng từ phía các TSBĐ tín dụng.
+ Sự sụt giảm giá trị của TSBĐ, có thể là do biến động của tình hình giá cả
thị trường. Đây là tác động mang tầm vĩ mô, mà bản thân các cán bộ thẩm định
cần phải đánh giá chính xác giá trị của TSĐB qua các thời kỳ biến động khác
nhau, nếu không sẽ dẫn tới tình trạng cấp tín dụng vượt mức so với quy định an
toàn trong việc cấp tín dụng.
Sự sụt giảm giá trị của TSĐB là do sự hao mòn trong quá trình người vay sử
dụng TSĐB. Các tài sản nói chung luôn chịu tác động của thời gian, của môi
trường sản xuất, đòi hỏi công tác kiểm tra giám sát chặt chẽ để hạn chế người vay
sử dụng tài sản sai mục đích hoặc sử dụng vượt quá hạn mức cho phép. Đó cũng là
một hình thức mà các ngân hàng chiếm đoạt “vốn”, vốn ở đây là giá trị của máy và
thời gian kinh tế của máy sau này.
+ Ngân hàng gặp rủi ro trong quá trình nắm giữ và xử lý TSĐB. Do người
vay cầm cố tài sản cho người khác, hoặc có thể do người vay cố tình gây khó khăn
trong công tác phát mại TSĐB, khiến cho ngân hàng không thể thu hồi vốn vay,
ảnh hưởng đến tình hình hoạt động chung của toàn bộ ngân hàng. Khi đó rủi ro
không còn trong phạm vi một khoản vay mà lan rộng ra phạm vi của cả bộ máy
hoạt động kinh doanh.
+ Đối với các trường hợp đối nhân (bảo lãnh): Ngân hàng có thể gặp rủi ro
khi người đựoc bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ thanh toán do gặp khó khăn về
vấn đề tài chính. Gây ra sự ứ đọng vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng,

rộng hơn đó là nguy cơ rủi ro cao.
+ Ngoài ra còn có nguyên nhân là do sự không đồng bộ vế các văn bản
pháp lý có liên quan đến TSĐB, gây khó khăn cho ngân hàng trong trường hợp
phát mại TSĐB và xử lý sự cố, qua đó hạn chế vị thế pháp lý của ngân hàng rong
xử lý tài sản.
1.2.2.4. Các dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh luôn tiềm ẩn rủi ro, và thường có một
vài dấu hiệu để nhận biết rủi ro tín dụng. Có dấu hiệu thì biểu hiện mờ nhạt, có
dấu hiệu biểu hiện rất rõ ràng. Ngân hàng cần có biện pháp để nhận ra những dấu
hiệu ban đầu của khoản vay có vấn đề và có hành động cần thiết để ngăn ngừa,
hạn chế, xử lý chúng. Nhưng cần phải chú, vì các dấu hiệu này đôi khi chỉ được
nhận ra trong cả một quá trình chứ không hẳn là một thời điểm. Do vậy cán bộ tín
dụng cần phải nhân biết chúng một cách có hệ thống.
Vậy dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng có thể bao gồm các nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên đến mối quan hệ khách hàng và ngân
hàng
* Trong quá trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản
khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu hiệu quan
trọng gồm:
- Khó khăn trong thanh toán lương, sự biến động của số dư các tài khoản,
đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản tiền gửi
- Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản
- Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu đông từ nhiều nguồn khác
nhau
* Các hoạt động cho vay
- Mức độ vay thường xuyên gia tăng, thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho
đáo hạn
- Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi
- Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến
* Phương thức tài chính

- Sử dụng nhiều nguồn tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển dài
hạn.
- Chấp nhận sử dụng các nguồn tài trợ đắt nhất, ví dụ: thường xuyên sử
dụng nghiệp vụ chiết khấu các khoản phải trả
- Giảm các khoản phải trả, tăng các khoản phải thu
- Có biểu hiện giảm vốn điều lệ
Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của khách
hàng
- Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị và ban điều hành. Hệ
thống quản trị và ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, về công tác quản trị,
điều hành độc đoán hoặc quá phân tán.
- Được hoạch định bởi ban giám đốc điều hành ít kinh nghiệm, hay ban
quản trị tham gia quá sâu vào vấn đề thường nhật, thiếu quan tâm tới lợi ích của
các cổ đông, các chủ nợ
- Thuyên chuyển nhân viên diễn ra thường xuyên, việc lập kế hoạch những
người kế cận không đầy đủ
- Lập kế hoạch, xác định mục tiêu kém, xuất hiện các hành động nhất thời,
không có khả năng giải quyết đối với những thay đổi
Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới chính sách ưu tiên trong kinh
doanh.
- Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn, khách hàng bị ấn tượng bởi một khách
hàng có tên tuổi mà có thể sau này trở nên lệ thuộc, ban giám đốc cắt giảm lợi
nhuận nhằm đạt hợp đồng lớn.
- Sự cấp bách không thích hợp như do áp lực nội bộ dẫn tới việc tung sản
phẩm dịch vụ ra quá sớm, các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không thực tế,
tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc.
Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu thuộc vấn đề kỹ thuật và thương mại
- Khó khăn trong phát triển sản phẩm, cường độ đổi mới sản phẩm giảm
dần. Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa, thay thế
- Thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất, thị hiếu của người tiêu dùng, cập

nhật kỹ thuật mới, mất nhà cung ứng hoặc khách hàng lớn, thêm đối thủ cạnh
tranh
- Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước, đặc biệt là chính sách thuế,
điều kiện thành lập và hoạt động
- Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao
Nhóm 5: Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán
- Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính, hoặc chậm trễ, trì ho•n
+ Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên, số khách hàng nợ tăng
nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ kéo dài
+ Khả năng tiền mặt giảm
+ Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp
+ Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng
+ Tăng giá trị quảng cáo thông qua việc tính lại tài sản…
Trên đây là những dấu hiệu nhận biết rằng khả năng xảy ra rủi ro tín dụng,
do đó cần phải đặc biệt chú ý trong việc quản lý hoạt động tín dụng.
1.2.3. Các biện pháp quản trị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của các NHTM
1.2.3.1. Xây dựng chiến lược quản trị rủi ro
Đây là điều kiện tiên quyết trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng. Trong
điều kiện nền kinh tế thị trường bién động phức tạp, đòi hỏi mỗi ngân hàng cần
phải có chiến lược rõ ràng trong việc quản trị rủi ro tín dụng, bời vì đó là “kim chỉ
nang” cho hoạt động tín dụng. Một chiến lược rõ ràng, chính xác trong dự báo
đảm bảo cho bản thân các ngân hàng có thể linh hoạt trong phòng ngừa và xử lý
những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Nó góp phần định hướng cho các hoạt động
tín dụng trong tương lai nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn và lợi nhuận cao. Nhất là
trong điệu kiện hội nhập của nền kinh tế với khu vực và thế giới. Chiến lược này
có thời hạn trong thời gian dài, nó quyết định đến sự tồn tại của cả ngân hàng, bởi
vì hoạt động tín dụng chiếm tỷ lệ lớn trong hoạt động ngân hàng.
1.2.3.2. Xây dựng chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của ngân hàng phải thực hiện ba mục tiêu cơ bản: Lợi
nhuận, an toàn và lành mạnh. Một chính sách tín dụng hợp lý phải được xây dựng

dưa trên những căn cứ sau:
- Nguồn vón của ngân hàng, bao gồm cả vốn huy động, và vốn chủ sở hữu.
Dựa vào quy mô nguồn vốn, ngân hàng có thể lựa chọn kỳ hạn đầu tư , loại hình
cho vay phù hợp
- Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, điều này ảnh hưởng đến nhu
cầu tín dụng của thị trường. Do đó ngân hàng cần phải có sự phù hợp thống nhẩt
đối với các điểu chỉnh vĩ mô của Chính phủ.
- Thị trường mục tiêu của ngân hàng, nguồn lực vật chất và trình độ của đội
ngũ cán bộ công nhân viên là nhân tố tác động đến khả năng hoạt động của ngân
hàng trên những khu vực thị trường nhất định. Chính những nhân tố này sẽ phát
huy lợi thế cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường
- Căn cứ vào những phân tích, dự báo rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói
chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Đây là những phân tích mang tính chất kỹ
thuật, kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ngoài nước, điển hình lã những phân
tích dự báo về tình hình tài chính tiền tề như lãi suất, lạm phát, ngoại tệ…
1.2.3.3. Thực hiện tốt công tác phân tích tín dụng và xác định mức độ rủi ro
tín dụng.
Thực hiên phân tích tín dụng một cách đầy đủ và toàn diện nhằm đánh giá
khách hàng và tính hiệu quả của dự án trước khi cho khách hàng vay.
Việc phân tích, thẩm định tín dụng được thực hiện trong và sau khi cho vay.
Đó là yêu cầu bắt buộc đối với mỗi khoản vay nhằm đảm bảo tính chính xác, tính
kinh tế của đồng vốn tín dụng đến được đúng đối tượng sử dụng vốn hiệu quả.
Quá trình này chỉ chấm dứt khi khoản vay được hoàn trả đúng thời han và đầy đủ.
Công tác này có vai trò quyết định trong việc khoản vay có sinh lòi hay không,
qua dố đảm bảo chu kỳ đồng vốn của ngân hàng từ huy động đến cho vay đến thu
nợ, hoặc có đảm bảo được mục đích kinh doanh của ngân hàng hay không. Không
chỉ có tác dụng trong công tác cấp vốn của ngân hàng mà còn góp phần vào công
tác quảng bá thương hiệu của bản thân ngân hàng, được thể hiện qua thủ tục cho
vay không rườm rà, thái độ phục vụ tận tình, trách nhiệm cho dù có vay được vốn
hay không.

1.2.3.4. Thực hiện đầy đủ khâu đảm bảo tín dụng
Các yêu cầu TSĐB của ngân hàng với mục đich nhằm hạn chế rủi ro trong
trường hợp khách hàng không thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng vay

×