Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Nhận thức đúng vai trò ngành công nghiệp hóa chế biến sản phẩm công nghiệp ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.15 KB, 57 trang )

Lời nói đầu

Xuất phát từ tình hình đổi mới của nền kinh tế thế giới, với những kinh nghiệm thực
tiễn và bài học của nhiều nước trên thế giới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã
đề ra ba chương trình mục tiêu lớn: “ Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu”. Khẳng định vị trí hàng đầu của ngành nông nghiệp nước ta trong
vài thập kỷ tới. Tiếp đến Đại hội VIII và IX lại khẳng định lại một lần nữa ba
chương trình kinh tế trên trong đó nông lâm nghiệp phải phát triển sản xuất hàng
hoá theo hướng thị trường gắn với công nghiệp chế biến đáp ứng nhu cầu trong
nước, đẩy mạnh xuất khẩu, phát huy lợi thế so sánh, bảo vệ tài nguyên môi
trường…
Trong số 10 mặt hàng nông sản, sản xuất, xuất khẩu thì chè đang có xu hướng ngày
càng gia tăng. Cây chè được trồng nhiều ở các tỉnh miền núi phía bắc và Lâm Đồng.
Sản xuất chè trong nhiều năm qua đã phần nào đáp ứng được nhu cầu về chè uống
trong nước, đồng thời còn xuất khẩu đạt kim ngạch hàng chục triệu USD mỗi năm.
Tuy có những thời điểm giá chè giảm làm cho đời sống của những người trồng chè
gặp không ít khó khăn nhưng nhìn tổng thể thì cây chè vẫn giữ vị trí quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận
đáng kể nhân dân vùng trung du, miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ
môi trường sinh thái. Vì vậy việc sản xuất và chế biến chè xuất khẩu là một hướng
quan trọng nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp và kinh tế nông thôn
nước ta.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều lợi thế để phát triển cây chè hơn các nước khác,
chúng ta có điều kiện về khí hậu, thổ nhưỡng thích hợp cho cây chè phát triển, có
nguồn lao động dồi dào trong nông nghiệp và thị trường tiêu thụ tiềm tàng trong và
ngoài nước. Tuy nhiên lượng chè xuất khẩu còn rất hạn chế chỉ chiếm 2% tổng sản
lượng xuất khẩu của toàn thế giới. Vì vậy, để ngành chè Việt Nam nói chung và
Công ty TNHH TM Đại lợi nói riêng có được những bước phát triển mới trong việc
xuất khẩu chè ra thị trường Thế giới đó là một vấn đề hết sức cấp thiết.
Thực tế trong những năm vừa qua mặc dù đã có sự cố gắng nỗ lực trong việc giải
quyết vấn đề xuất khẩu chè, nhưng Công ty TNHH TM Đại lợi gặp không ít khó


khăn, vướng mắc cần phải được giải quyết. Chính vì vậy, qua thời gian nghiên cứu
lý luận, tôi mạnh dạn chọn đề tài:
“Hoàn thiện chính sách xuất khẩu mặt hàng chè của Công ty TNHH TM Đại lợi ”.
Mặc dù thời gian qua đã có những nhiều Đề tài khoa học, luận án, chuyên đề…
nghiên cứu vấn đề này, nhưng chuyên đề này sẽ cố gắng phân tích một cách hệ
thống các vấn đề xuất khẩu chè và đưa ra các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè của
Công ty TNHH TM Đại lợi.
Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm ba chương:
Chương I : Những lý chung về xuất khẩu và xuất khẩu mặt hàng chè của Công ty
TNHH TM Đại lợi.
Chương II : Phân tích đánh giá tình hình thực hiện chính sách mặt hàng xuất khẩu
chè của Công ty TNHH TM Đại lợi.
Chương III: đề xuất hoàn thiện chính sách xuất khẩu mặt hàng chè.
Do hạn chế về thời gian cũng như trình độ, nội dung chuyên đề chắc còn nhiều thiếu
sót, nhiều vấn đề tiếp tục phải nghiên cứu và trao đổi, tôi mong muốn nhận được
các ý kiến đóng góp.
Tôi xin chân thành cảm ơn
Hà Nội, tháng 6 năm 2005.
Chương I: những lý luận chung về xuất khẩu và xuất khẩu mặt hàng chè của công ty
tnhh tm đại lợi
I . bản chất của xuất khẩu hàng hoá
1.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu hàng hoá
1.1.1. Khái niệm:
Một số tác giả cho rằng XNK chính là mở rộng của hàng hoá mua bán trao đổi ra
khỏi phạm vi biên giới quốc gia. Ngày nay xuất khẩu hàng hoá chính là một hoạt
động kinh doanh ở phạm vi quốc tế, là lĩnh vực sôi động nhất trong nền kinh tế hiện
nay.
Nên có thể nói kinh doanh XNK là mối quan hệ trao đổi hàng hoá dịch vụ giữa một
quốc gia với một quốc gia khác, là một bộ phận của quan hệ kinh tế quốc tế của một
nước với một nước khác trên thế giới.

Theo một cách chung nhất thì khi nào có bất cứ một lượng tiền nào đó được dịch
chuyển qua biên giới một quốc gia để chi trả cho một lượng hàng hoá dịch vụ được
đưa ra khỏi quốc gia đó thì khi đó người ta cho rằng một thương vụ xuất khẩu đã
được kinh doanh.
1.1.2. Vai trò của xuất khẩu
Xuất khẩu thể hiện sự gắn bó mật thiết với nhau giữa các nền kinh tế quốc gia với
nền kinh tế thế giới, nó cũng quyết định sự sống còn đối với nền kinh tế thế giới
hiện nay các nước thống nhất dưới mái nhà chung, nền kinh tế quốc gia đã hoà nhập
với nền kinh tế thế giới thì vai trò của xuất khẩu đã trở nên quan trọng và cụ thể là:
* Đối với nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất: xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Theo bước đi phù hợp là con đường tất yếu khắc phục
nghèo đói. Để công nghiệp hoá đất nước trong thời gian ngắn chúng ta phải có
nguồn vốn đủ lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị kỹ thuật và một số loại khác hiện
đại và tiên tiến. Khai thác tốt tiềm năng của từng quốc gia nhất là lĩnh vực có lợi thế
so sánh.
Nguồn vốn nhập khẩu được huy động từ nhiều nguồn là: Đầu tư trong nước và nước
ngoài viện trợ của các tổ chức tín dụng thu từ hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ trong
nước.
Thứ 2: Xuất khẩu thúc đẩy quá trình kinh tế và phát triển sản xuất.
Xuất khẩu lấy thị trường thế giới làm thị trường của mình vì vậy quá trình sản xuất
phải xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới. Những ngành sản xuất tạo ra sản phẩm
phục vụ tốt cho thị trường các nước, sẽ phát triển mạnh mẽ. Những ngành nào
không thích ứng sẽ bị đào thải. Như vậy, xuất khẩu có tác dụng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Sự ảnh hưởng này có thể liệt kê như sau:
- Xuất khẩu tạo cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần làm cho sản xuất phát
triển ổn định.
- Xuất khẩu là điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng

cao năng lực sản xuất trong nước đồng thời xuất khẩu tạo tiền đề kinh tế kỹ thuật
nhằm cải tạo và nâng cao nguồn lực sản xuất trong nước.
- Thông qua xuất khẩu hàng hóa nước ta tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới
cả về giá cả và chất lượng, cuộc cạnh tranh này buộc chúng ta phải tổ chức lại sản
xuất trong nước, hình thành cơ cấu thích nghi với thị trường thế giới.
Thứ 3: Xuất khẩu tác động tích cực tới công ăn việc làm cải thiện đời sống nhân
dân.
Xuất khẩu là công cụ giải quyết nạn thất nghiệp trong nước. Theo số liệu
international Trade 1986 – 1990 ở Mỹ các nước công nghiệp phát triển sản xuất
tăng lên được 1 tỷ USD thì sẽ tăng lên khoảng 35.000 - 40.000 chỗ làm, còn ở Việt
Nam có thể tạo ra hơn 50.000 chỗ làm. Đặc biệt xuất khẩu hàng hoá nông sản xuất
khẩu thu hút hàng triệu lao động tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp
ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân.
Thứ 4: Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với lao động.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động chủ yếu, cơ bản là hình thức ban đầu của kinh tế
đối ngoại. Xuất khẩu và quan hệ đối ngoại có tác động qua lại và phụ thuộc lẫn
nhau. Xuất khẩu là nội dung quan trọng của nền kinh tế đối ngoại, nó tạo điều kiện
cho các quan hệ kinh tế đối ngoại khác phát triển như du lịch quốc tế, bảo hiểm
quốc tế… Ngược lại sự phát triển của ngành này cũng tạo thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu phát triển.
Qua đây ta thấy để đất nước phát triển tất yếu phải đẩy mạnh hoạt động XK.
* Với với doanh nghiệp.
Vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng chung của một quốc gia, các doanh
nghiệp. Việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ đưa lại cho doanh nghiệp các lợi ích sau:
- Hoạt động xuất khẩu giúp cho các doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển. Với
bản chất là hoạt động tiêu thụ đặc biệt do vậy việc đẩy mạnh xuất khẩu cũng là một
vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Mở rộng thị trường đẩy mạnh số lượng tiêu
thụ trên thị trường quốc tế làm tăng tốc độ quay vòng vốn, thu về một lượng giá trị
lớn hơn cho doanh nghiệp. Đây cũng chính là vai trò số một của hoạt động xuất

khẩu.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước tham gia vào cuộc
cạnh tranh trên thị trường về giá cả và chất lượng những yếu tố đó bắt buộc doanh
nghiệp phải hình thành cơ cấu xuất khẩu phù hợp với thị trường.
Xuất khẩu là một nhân tố tích cực nhất đối với doanh nghiệp trong quá trình hoàn
thiện chất lượng sản phẩm và đề ra các giải pháp nhằm củng cố, nâng cao hiệu quả
trong công tác sản xuất cũng như tiêu thụ.
- Doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh
doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở cùng có lợi.
- Sản xuất hàng xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động tạo
thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên lao động trong doanh nghiệp.
- Mặt khác thị trường quốc tế là một thị trường rộng lớn nó chứa đựng nhiều cơ hội
cũng như nhiều rủi ro. Những doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường này nếu
thành công sẽ có thể tăng cao thế lực, uy tín của doanh nghiệp mình cả trong và
ngoài nước, doanh nghiệp lại càng có được cơ hội mở rộng thế lực và uy tín của
doanh nghiệp không ngừng nâng cao và ngược lại đi lại thúc đẩy hoạt động hướng
về xuất khẩu. Và hướng về xuất khẩu cũng là chiến lược phát triển của Đảng và Nhà
nước ta trong giai đoạn tới để nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển kịp với
các nước phát triển trong khu vực và thế giới.
1.2. Các hình thức xuất khẩu.
Xuất khẩu không phải là hành vi mua bán đơn lẻ mà là cả hệ thống quan hệ mua
bán, đầu tư từ trong nước ra đến bên ngoài nhằm mục đích thúc đẩy hàng hoá
chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp và từng bước nâng cao đời sống của nhân
dân. Ngày nay, trên thế giới, tuỳ điều kiện hoàn cảnh mỗi quốc gia cũng như từng
chủ thể giao dịch khác nhau để tiến hành hoạt động một cách hiệu quả nhất. Căn cứ
vào đặc điểm sở hữu hàng hoá trước khi xuất khẩu, nguồn hàng nhập khẩu người ta
có thể chia ra thành một số loại hình thức xuất khẩu. Sau đây là một số loại hình
thức xuất khẩu mà các doanh nghiệp chi nhánh thường sử dụng.
* Xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp: Là một hình thức xuất khẩu mà trong đó các nhà sản xuất, các

Công ty trực tiếp ký kết hợp đồng bán hàng cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp
cá nhân nước ngoài.
Với hình thức này các doanh nghiệp trực tiếp quan hệ với khách hàng và bạn hàng,
thực hiện việc bán hàng hoá ra với nước ngoài không qua bất kỳ một tổ chức trung
gian nào.
Để thực hiện được hoạt động của xuất khẩu này doanh nghiệp phải đảm bảo một số
điều kiện như : Có khối lượng hàng hoá lớn, có thị trường ổn định có năng lực thực
hiện xuất khẩu.
- Xuất khẩu trực tiếp có ưu điểm là:
+ Tận dụng được hết tiềm năng, lợi thế để sản xuất hàng xuất khẩu.
+ Giá cả, phương tiện vận chuyển, thời gian giao hàng, phương thức thanh toán do
hai bên thoả thuận và quyết định.
+ Lợi nhuận thu được không phải chia do giảm được chi phí trung gian.
+ Có điều kiện thâm nhập thị trường, kịp thời tiếp thu ý kiến của khách hàng khắc
phục những thiếu sót.
+ Chủ động trong việc sản xuất, tiêu thụ hàng hoá nhất là trong điều kiện thị trường
nhiều biến động.
- Tuy nhiên khi thực hiện hoạt động xuất khẩu trực tiếp các doanh nghiệp, tổ chức
kinh doanh xuất khẩu cũng gặp một số khó khăn, nhược điểm là:
+ Đối với thị trường mới chưa từng giao dịch thường có nhiều bỡ ngỡ dễ gặp sai
lầm, bị ép giá trong mua bán.
+ Đòi hỏi năng lực ngoại thương và nghiệp vụ của cán bộ phải sâu, phải có nhiều
thời gian tích luỹ kinh nghiệm.
+ Khối lượng mặt hàng phải lớn mới có thể bù đắp được chi phí giao dịch như: Giấy
tờ, điều tra thị trường.
* Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Theo hình thức này bên xuất khẩu chính là bên nhận gia công, còn người thuê gia
công chính là người nhập khẩu. Những người thuê gia công sẽ gửi nguyên liệu bán
thành phẩm cho người nhận gia công, sau đó sẽ nhận gia công và sau đó sẽ nhận sản
phẩm và trả thù lao gia công.

Quan hệ giữa người mua người bán và việc quy định các điều kiện mua bán đều
phải thông qua một người thứ 3 gọi là người trung gian. Người trung gian phổ biến
trên thị trường là đại lý môi giới.
- Việc thực hiện xuất khẩu gia công uỷ thác có ưu điểm:
+ Doanh nghiệp xuất khẩu những mặt hàng mà họ có khả năng sản xuất và đáp ứng
cho sản xuất tiêu dùng những mặt hàng chủ yếu.
+ Những người trung gian nhất là các Đại lý thường có cơ sở vật chất nhất định. Do
đó sử dụng họ người uỷ thác sẽ tiết kiệm được vốn.
+ Người trung gian thường hiểu biết thị trường, pháp luật, tập quán địa phương, do
đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và tránh bớt rủi ro cho người uỷ thác.
+ Trung gian có thể làm dịch vụ và lựa chọn, phân loại, đóng gói, giảm chi phí vận
chuyển.
+ Hình thành mạng lưới tiêu thụ rộng khắp tạo điều kiện cho việc chiếm lĩnh thị
trường đặc biệt là thị trường mới.
- Tuy nhiên hình thức này cũng có những nhược điểm nhất định đó là:
+ Mất liên hệ trực tiếp của doanh nghiệp với thị trường buôn bán.
+ Kinh doanh phụ thuộc vào năng lực phẩm chất của người trung gian.
+ Lợi nhuận bị chia sẻ.
Hình thức xuất khẩu gián tiếp này áp dụng trong trường hợp một doanh nghiệp có
hàng hoá mới xuất khẩu mà doanh nghiệp không được phép xuất khẩu trực tiếp
hoặc không có điều kiện xuất khẩu trực tiếp.
* Phương thức mua bán đối lưu.
Đây là phương thức giao dịch mà trong đó việc mua bán gắn liền với nhau tức
người mua đồng thời là người bán, lượng hàng hoá trao đổi thường có nhiều giá trị
tương đương.
Trong quá trình buôn bán, ký hợp đồng, thanh toán vẫn phải dùng tiền làm vật
ngang giá chung.
Theo hình thức buôn bán này cần quan tâm đến sự cân bằng về mặt hàng hoá, giá cả
về tổng giá trị hàng hoá giao cho nhau vể cả điều kiện giao hàng và điều kiện thanh
toán.

Phương thức mua bán đối lưu góp phần vào thúc đẩy mua bán cho các trường hợp
mà những phương thức mua bán không vượt qua được, ví dụ như khi bị cấm vận
hoặc trong trường hợp Nhà nước tiến hành quản chế ngoại hối.
* Mua bán quốc tế.
Hội trợ là thị trường hoạt động định kỳ được tổ chức vào một thời gian và ở một
thời điểm cố định trong một thời hạn nhất định, tại đó người bán đến trưng bày hàng
hoá của mình, và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng buôn bán. Triển lãm là
nơi trưng bày giới thiệu những thành tựu của một nền kinh tế học hoặc của một
ngành kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật. Liên quan chặt chẽ đến ngoại thương là
các cuộc triển lãm công nghiệp, tại đó người ta trưng bày các loại hàng hoá nhằm
mục đích quảng cáo để mở rộng khả năng tiêu thụ.
Ngày nay, có rất nhiều các hợp đồng được ký kết tại hội trợ và triển lãm.
* Xuất khẩu gián tiếp:
Xuất khẩu gián tiếp: Là hình thức xuất khẩu trong đó bên mua hoặc bên bán thông
qua người thứ 3 ra tiến hành công việc mua hoặc bán thay cho mình.
Những công việc này có thể là nghiên cứu thị trường, đàm phán kí kết hợp đồng,
thực hiện hợp đồng. Đây là hình thức xuất khẩu phổ biến chiếm khoảng 50% tổng
kim ngạch của thế giới. Thông qua người thứ 3 ở đây là môi giới hoặc đại lý.
Xuất khẩu gián tiếp: Có ưu điểm là tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh hơn,
đặc biệt trong trường hợp bên xuất khẩu có yếu kém về nghiệp vụ và có thể lợi dụng
được cơ sở vật chất của người trung gian vì vậy tiết kiệm được chi phí kinh doanh.
Tuy nhiên nó cũng có nhược điểm là lợi nhuận bị chia sẽ do phải trả tiền thù lao cho
người trung gian, thêm vào đó doanh nghiệp khó kiểm soát được hoạt động của
người trung gian, do đó cũng khó kiểm soát được hoạt động thị trường.
*Tái xuất khẩu
Đây là phương thức giao dịch trong đó hàng hoá mua về với mục đích phục vụ tiêu
dùng trong nước. Trong phương thức này tối thiểu phải có ba bên tham gia là nước
tái xuất, nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Hình thức này có tác dụng có thể xuất khẩu được những mặt hàng mà doanh nghiệp
trong nước chưa đủ khả năng sản xuất để xuất khẩu và có thu ngoại tệ. Phương thức

này góp phần thúc đẩy buôn bán đặc biệt các nước bị cấm vận vẫn có thể tiến hành
buôn bán được với nhau.
Nhược điểm của hình thức này là các doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào nước
xuất khẩu về giá cả, thời gian giao hàng, sự thay đổi về giá ảnh hưởng đến công tác
nhập khẩu. Đồng thời số ngoại tệ thu về rất ít trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Ngoài ra còn có một số hình thức xuất khẩu khác như giao dịch tại cơ sở giao dịch ở
đây người ta mua bán với khối lượng lớn có tính chất đồng loạt và phẩm chất có thể
thay thế được cho nhau. Giao dịch ở sở giao dịch chủ yếu là giao dịch khống. Còn
có cả xuất khẩu theo nghị định như thường là trả nợ thực hiện theo nghị định thư
giữa chính phủ hai nước. Qúa cảnh hàng hoá cũng là một nước gửi đi qua l•nh thổ
của một nước và được sự cho phép của chính phủ nước đó.
1.3. Nội dung của xuất khẩu hàng hóa.
Xuất khẩu là việc bán hàng ra nước ngoài nhằm tạo lên một nguồn thu lớn. Nhưng
việc bán hàng ở đây tương đối phức tạp như: Giao dịch với những người có quốc
tịch khác, thị trường mua bán rộng lớn, khó kiểm soát, mua bán qua trung gian
chiếm tỉ trọng lớn đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh, hàng hoá vận chuyển qua
biên giới quốc gia. Do vậy cần phải tuân thủ các tập quán cũng như thông lệ quốc
tế.
Hoạt động xuất khẩu được tổ chức thực hiện với những nhiệm vụ, nhiều khâu khác
nhau, bắt đầu từ khâu nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước lựa chọn đối tác,
tiến hành giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng, cho đến
khi hàng hoá đến cảng, chuyển giao quyền sở hữu cho người mua và hoàn thành các
thủ tục thanh toán. Mỗi khâu, mỗi nghiệp vụ này phải được thực hiện nghiên cứu
đầy đủ kỹ lưỡng và đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt được những
lợi thế đảm bảo cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao.
1.3.1. Nghiên cứu thị trường và lựa chọn bạn hàng.
Nghiên cứu thị trường là một việc làm hết sức quan trọng đối với bất kỳ một công
ty nào. Nó sẽ giúp các doanh nghiệp tìm kiếm quy luật vận động trong lĩnh vực lưu
thông để từ đó xử lý các thông tin rút ra những kết luận và hình thành những quyết
định đúng đắn cho việc xây dựng các chiến lược kinh doanh.

- Các phương pháp nghiên cứu thị trường:
Nghiên cứu thị trường là thu thập các thông tin về thị trường thông qua hai phương
pháp:
+ Phương pháp tại bàn: Đây là phương pháp phổ thông nhất, nó gồm thu thập thông
tin từ tài liệu xuất bản hoặc không xuất bản.
Nó có hạn chế: Thu thập thông tin chậm, thông tin có hạn, do vậy cần triệt để khai
thác nguồn thông tin đó.
+ Phương pháp tại hiện trường: Thu thập thông tin bằng trực quan thông qua hệ
giao tiếp với người tiêu dùng.
- Nội dung của việc nghiên cứu thị trường.
+ Nghiên cứu giá cả mặt hàng xuất khẩu: Trong buôn bán quốc tế giá cả rất phức
tạp nên để đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh đòi hỏi các nhà kinh doanh phải
nắm bắt được giá cả và xu hướng vận động của giá cả trên thị trường.
+ Nghiên cứu mặt hàng xuất khẩu: Giúp doanh nghiệp biết được nhu cầu của thị
trường về mặt hàng đó.
+ Nghiên cứu dung lượng thị trường.
Cần xác định nhu cầu thật của khách hàng kể cả lượng dự trữ xu hướng biến động
của nhu cầu trong từng thời điểm để từ đó có kế hoạch xuất khẩu thích hợp.
1.3.2. Lựa chọn bạn hàng, lựa chọn đối tác.
- Lựa chọn bạn hàng: Mục đích của việc này là tìm bạn hàng khả dĩ, công tác được
an toàn và có lãi.
Các bạn hàng được lựa chọn phải có đầy đủ về khả năng thanh toán, tiêu thụ, khả
năng về hợp tác dài hạn.
- Lựa chọn đối tác: Hình thức cũng giống như lựa chọn bạn hàng, nhưng đối tác để
các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá phải là những đối tác có uy tín, hoạt động
kinh doanh của họ từng bước phát triển.
1.3.3. Lựa chọn sản phẩm xuất khẩu:
Việc lựa chọn sản phẩm đem ra xuất khẩu là việc làm hết sức quan trọng vì trước
khi xuất khẩu một mặt hàng nào đó các doanh nghiệp hoặc nhà nước đòi hỏi phải
xem xét kĩ thị trường tiêu thụ, sản phẩm đó đang cần ở thị trường nào và khả năng

cung ứng ra sao, liệu có thể đem lợi nhuận cho doanh nghiệp không khi sản phẩm
đó đem ra xuất khẩu.
Bên cạnh đó sản phẩm đem xuất khẩu phải đảm bảo về mặt chất lượng, hình dáng,
phẩm chất và mẫu mã cần phải lựa chọn thật kĩ để khi xuất khẩu sẽ tạo ra uy tín cho
bạn hàng cũng như thuận lợi hơn khi mang ra thị trường khác tiêu thụ. Phải lựa
chọn những sản phẩm đang cần trên thị trường tiêu thụ nhằm kinh doanh phù hợp
với các thị trường đó.
1.3.4. Các hình thức giao dịch:
Gồm các hình thức giao sau: Giao dịch trực tiếp, giao qua thư tín, giao qua điện
thoại, giao thông qua bên thứ ba.
Để đi đến kí kết hợp đồng hai bên phải tiến hành giao dịch đàm phán với nhau
những điều kiện giao dịch. Đây là một nội dung quan trọng của hợp đồng xuất khẩu.
Đàm phán có thể được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau.
Hiện nay trong hợp đồng xuất khẩu, quá trình đàm phán thường diễn ra theo các
bước như chào hàng phải hoàn giá, chấp nhận xác nhận, kí kết hợp đồng.
Kết thúc giai đoạn đàm phán nếu thành công sẽ tiến hành kí kết hợp đồng. Kí kết
hợp đồng là khâu cơ bản quan trọng nhất của đàm phán.
II. Cung cầu thị trường chè.
2.1. Cung về sản phẩm chè.
Cung về sản phẩm chè là số lượng sản phẩm chè mà ngành chè có khả năng và sẵn
sàng cung cấp ra thị trường ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định.
Cung về sản phẩm chè có thể do hai nguồn chủ yếu: Hoặc do sản xuất chè trong
nước hoặc nhập từ nước ngoài. Tuỳ theo điều kiện của từng nước mà tỷ trọng của
những sản phẩm chè lưu thông trên thị trường do nguồn nào chiếm bao nhiêu là
không giống nhau. Việc xác định số lượng cung dựa vào diễn biến tình hình của thị
trường và số liệu thống kê hàng năm về diện tích, năng suất, và sản lượng hàng hoá
hàng năm của ngành chè. Theo tính toán của hiệp hội chè thì hiện nay Việt Nam đã
có khoảng 100 nghìn ha trồng chè, hàng năm cho khoảng hơn 70 nghìn tấn/năm.
Nếu như đến 2010 mở rộng đến 130 nghìn ha thì lượng cung sẽ thừa cho nhu cầu
tiêu dùng trong nước. Đương nhiên khối lượng sản phẩm chè hàng hoá lại phụ

thuộc vào bộ phận sản phẩm chè được dùng để tiêu thụ nội bộ trong tổng sản phẩm
chè được sản xuất ra, cho nên tiết kiệm và tiêu dùng hợp lý bộ phận sản phẩm chè
tiêu dùng nội bộ là biện pháp quan trọng bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất chè để
tăng khối lượng sản phẩm chè cung ứng ra thị trường.
Khả năng cung thực tế của sản lượng chè hàng hoá phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản
sau:
- Giá cả sản phẩm chè hàng hoá trên thị trường:
Trong đại đa số trường hợp, giá cả đóng vai trò là tham số điều chỉnh quan hệ cung
cầu và theo đó điều chỉnh dung lượng và nhịp độ tiêu thụ của thị trường.
- Giá cả của sản phẩm cạnh tranh : Sự xuất hiện các sản phẩm mới, sản phẩm thay
thế, và giá cả của chúng sẽ ảnh tới lượng cung của sản phẩm chè hàng hoá trên thị
trường.
- Giá cả các yếu tố đầu vào.
- Trình độ chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra vốn, công nghệ cũng ảnh hưởng tới cung sản phẩm chè hàng hoá trên thị
trường. Sự phát triển của công nghệ chế biến và mức độ tiếp cận với công nghệ và
kỹ thuật chế biến tiên tiến trên thế giới đã tạo ra những giá trị sử dụng mới, chất
lượng cao hơn, tạo ra những quan hệ mới trong cung - cầu, kích thích mở rộng và
phát triển thị trường .
- Các nhân tố về cơ chế, chính sách lưu thông sản phẩm chè của chính phủ trong
từng thời kỳ và hiệu lực của chúng.
- Môi trường tự nhiên mà trước hết là đất đai và khí hậu.
2.2. Cầu về sản phẩm chè.
Nhu cầu về sản phẩm chè của xã hội có rất nhiều loại khác nhau. Đó là nhu cầu chè
cho tiêu dùng trong nước và nhu cầu chè xuất khẩu.
Về phương diện kinh tế mà xét chúng ta thấy có hai loại nhu cầu sau:
Một là: Nhu cầu tự nhiên mà thực chất là nhu cầu về sản phẩm chè của dân cư tính
theo số lượng dân số. Đây là phương diện mà các nhà chính sách cần tính tới nhằm
thiết lập giải pháp để cân bằng cung cầu trong phát triển.
Hai là: Nhu cầu kinh tế, được hiểu là nhu cầu có khả năng thanh toán, hay là cầu về

sản phẩm chè mà người tiêu dùng có khả năng và sẵn sàng mua ở các mức giá khác
nhau trong một thời gian nhất định. Xét về phương diện kinh tế của các nhà kinh
doanh thì đây mới là điều đáng chú ý.
Cầu về sản phẩm chè cũng có những nhân tố tác động sau :
- Trước hết là giá cả sản phẩm chè trên thị trường, chủng loại và chất lượng sản
phẩm chè. Trong trường hợp giả định các yếu tố khác không đổi thì khi giá cả tăng
sẽ làm lượng cầu giảm và ngược lại.
- Mức thu nhập của người tiêu dùng :
Sức mua hay nhu cầu có khả năng thanh toán của người tiêu dùng là yếu tố quyết
định quy mô và dung lượng thị trường và ở mức độ nhất định đóng vai trò điều tiết
sản xuất.
- Giá cả của những hàng hoá có liên quan, đặc biệt là những sản phẩm có khả năng
thay thế như: Cà phê, nước giải khát, nước khoáng…
- Các yếu tố thuộc về khẩu vị và sở thích của người tiêu dùng đối với từng sản
phẩm chè hàng hoá.
- Các kỳ vọng của người tiêu dùng:
Cầu sẽ thay đổi phụ thuộc vào kỳ vọng (sự mong đợi ) của người tiêu dùng. Nếu
người tiêu dùng hy vọng giá cả của sản phẩm hàng hoá sẽ giảm xuống trong tương
lai thì cầu hiện tại về sản phẩm của họ sẽ giảm xuống và ngược lại.
2.3. Sản lượng chè trên thế giới.
Sản lượng chè thế giới trong những năm gần đây tăng giảm không ổn định, năm
1997 đạt 2.373,2 nghìn tấn, năm 1998 chỉ đạt 2.257,5 nghìn tấn giảm 15,7 nghìn
tấn so với năm 1997, năm 1999 đạt 2.347,9 nghìn tấn, tăng 90,4 nghìn tấn so với
năm 1998, năm 2000 tăng lên 2.726,9 nghìn tấn. Đến năm 2002 sản lượng đạt tới
2.893,84 nghìn tấn.
Nhìn vào bảng 1 dưới đây ta thấy cây chè có vùng sản xuất tương đối rộng trên thế
giới với khoảng 30 nước trồng chè. Các nước trồng chè chính có sản lượng bình
quân qua các năm là: ấn Độ (trên 800.000 tấn), Trung Quốc (trên 600.000 tấn),
Srilanca (trên 270.000 tấn), Kênya (250.000 tấn), Indônêsia (140.000 tấn).
Nguồn: Báo cáo của Hiệp Hội Chè Việt Nam.

Nếu tính tỷ lệ % sản lượng bình quân từ năm 1999 - 2004 (Bảng 1) thì Đông Âu
chiếm 6,5%, Châu Phi chiếm 13,9%, khu vực Nam Mỹ chiếm 2,1%, đứng đầu là
Châu á chiếm 77 %. Trong đó có bốn nước sản xuất chè lớn đó là ấn Độ, Trung
quốc, Srilanca và Indonesia đã chiếm tới 86,18% của Châu á và chiếm 66,37% tổng
sản lượng của toàn thế giới. Việt Nam chỉ chiếm 2,72 % của Châu á. Từ năm 1963 -
1995 diện tích chè thế giới tăng 95% còn sản lượng tăng 156,5% ( hơn 2,5 lần ).
Như vậy cứ sau mỗi chu kỳ 20 năm thì sản lượng chè thế giới tăng gấp 2 lần. Năm
1950 sản lượng chè là 613,6 ngàn tấn, năm 1970 là 1196,1 ngàn tấn, năm 1990 là
2522 ngàn tấn.
III. Nội dung cơ bản của chính sách mặt hàng xuất khẩu.
3.1. Quy định về danh mục mặt hàng:
Những quy định này được phép hoạt động hoặc không được phép lưu thông những
mặt hàng hạn chế hay kinh doanh có điều kiện.
- Danh mục hàng hoá cấm lưu thông, các dịch vụ và dịch vụ thương mại không
được thực hiện sẽ được chính phủ công bố. Đó là những sản phẩm gây ảnh hưởng
đến an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá đạo
đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam, môi trường sinh thái, sản xuất và sức khoẻ của
nhân dân.
- Chính phủ công bố danh mục các mặt hàng này trong từng thời kì cùng với các
mặt hàng hạn chế kinh doanh hoặc được phép kinh doanh với những điều kiện nhất
định.
- Chính phủ cũng công bố các mặt hàng cung ứng cho đối tượng tiêu dùng thuộc
diện chính sách xã hội.
- Ngoài các danh mục mặt hàng quy định trên, các mặt hàng còn lại pháp luật không
cấm nên được lưu thông tự do trên thị trường nội địa.
- Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, chính sách về cạnh tranh thấp
để xác định thời gian hội nhập, mở cửa phù hợp cũng như bảo hộ sản xuất trong
nước hợp lý.
3.2. Đánh giá hiện trạng và chính sách mặt hàng xuất khẩu.
Để đánh giá hiện trạng và chính sách mặt hàng xuất khẩu quốc gia cần xác định rõ

mục tiêu chính sách xuất khẩu của mình, xét về nguồn lực, nhân sự, tổ chức công
tác quản lý, khả năng hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Đưa ra những
điểm mạnh điểm yếu một cách trung thực chính xác vì đó là cơ sở để hoạch định
chính sách mặt hàng kinh doanh sao cho phù hợp với tiềm năng của đất nước. Việc
đánh giá hiện trạng và mục tiêu của chiến lược mặt hàng sẽ cung cấp thông tin cho
việc hoàn thiện chính sách mặt hàng của quốc gia.
3.3. Những yêu cầu của hoạt động hữu hiệu.
- Hoạt động phải xác định rõ mục tiêu, chiến lược được phản ánh và hoạt động cụ
thể vừa thực hiện kế hoạch, vừa phải tiến hành thực hiện chính sách trên cơ sở đã có
những hình thức điều chỉnh và bổ xung ở các khâu.
- Mục tiêu của chính sách phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong từng
giai đoạn và đảm bảo khả năng thích ứng với các giai đoạn khác nhau của nền kinh
tế. Nó thể hiện về khách hàng, giá cả cũng như loại hình công dụng sản phẩm thích
ứng ở thị trường mục tiêu đó.
- Các giải pháp các chính sách phải thích ứng với từng thời cơ và xu thế biến động
của thị trường đồng thời phải đảm bảo tính thống nhất và cụ thể hoá chính sách.
- Các thành viên tham gia hoạch định phải được lựa chọn xây dựng một cách cụ thể,
đòi hỏi phải có năng lực nghề nghiệp, phải thông tin chính xác mục tiêu đã đề ra,
các chỉ tiêu vẫn dựa trên nguyên tắc phân tích kĩ khả năng và tiềm lực của từng
thành viên để đưa ra những yêu cầu phù hợp với khả năng của từng mặt hàng cho
phù hợp.
3.4. Mục tiêu của chính sách mặt hàng xuất khẩu.
- Mục tiêu lợi nhuận: Chất lượng và số lượng sự mở rộng và thu hẹp cơ cấu chủng
loại sản phẩm, mức giá có thể bán được của mỗi mặt hàng đó là yếu tố có mối quan
hệ hữu cơ với nhau quyết định mức độ lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể thu được.
- Mục tiêu xã hội: Khi tổ chức và thực hiện chính sách mặt hàng phải đảm bảo:
+ Thực thi chính sách không làm vỡ môi trường sinh thái.
+ Thực thi chính sách không vi phạm các tiêu chuẩn dân tộc, xã hội.
+ Thực thi chính sách đảm bảo tính tích cực trong giáo dục giáo dưỡng nhu cầu thị
trường.

+ Thực thi chính sách đảm bảo tính văn minh thương mại, kết hợp với tính hiện đại,
tính dân tộc, phát triển bản sắc văn hoá dân tộc cho người tiêu dùng.
- Mục tiêu an toàn: Khi đưa ra các chính sách mặt hàng xuất khẩu cần phải nhìn rõ
sự chắc chắn khi xuất khẩu có thu được lợi nhuận về không hoặc có thể thu được từ
khách hàng không, tránh những rủi ro không đáng có.
3.5. Các chính sách mặt hàng xuất khẩu.
* Chính sách đối với hàng hoá xuất khẩu:
- Mục tiêu:
+ Không ngừng gia tăng tỉ trọng mặt hàng xuất khẩu chế biến năm 2001 (60% -
40%) đến năm 2003 (75% - 25%) qua đó đòi hỏi phải đủ, kế hoạch vào quá trình
sản xuất chế biến.
+ Mặt hàng gia công xuất khẩu tỉ lệ nội địa hoá cho sản phẩm gia công ( vẫn tăng
xuất khẩu), đạt hiệu quả quá trình sản xuất.
+ Nhóm mặt hàng nông - lâm - thuỷ - hải sản: Phải chú ý đến cây giống, con giống,
công nghệ sản xuất chế biến để có được cạnh tranh cao hơn (có tiêu chuẩn ISO) đáp
ứng tốt xâm nhập thị trường có tiềm năng, quy mô lớn.
+ Môi trường quan trọng chủ yếu là chính sách tạo mặt hàng xuất khẩu. Cần hình
thành hệ thống ngân hàng dữ liệu quốc gia để cung cấp thông tin cho người sản
xuất, người tiêu dùng, người kinh doanh, công nghệ chế biến, cung cấp thông tin thị
trường đầu ra, thị trường xuất khẩu, thông tin liên quan đến môi trường…
- Xác lập cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo nhóm hàng:
+ Nhóm nguyên liệu, nhiên liệu: Tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu 2005 (9%) tổng kim
ngạch là 2,5 tỉ USD, 2010 chính sách chỉ còn (1%) kim ngạch là 5.000 triệu USD,
hay 2010 khoảng 3,5%. Có ba phân nhóm cơ bản: Dầu thô 2005 xuất khẩu 12 triệu
tấn và đến 2010 có hai phương án: Khai thác 14 đến 16 triệu tấn, xuất khẩu từ 2 đến
4 triệu tấn (xuất khẩu 1%) nếu khai thác 20 triệu tấn xuất khẩu là 8 triệu tấn.
Dầu thô thị trường xuất khẩu chính là úc, Singabo, Nhật bản, các nước Tây Âu, EU
cần mở rộng thị trường sang Thái Lan, Trung Quốc.
Than đá: 2010 xuất khẩu 4 triệu tấn/ năm, nhập khẩu đạt 120 đến 159 triệu USD.
Thị trường chính là Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Tây Âu, EU cần mở rộng thị

trường sang Thái Lan.
+ Nhóm nông - lâm - thuỷ sản: Có nhiều lợi thế gạo, cà phê, tiêu, điều…tốc độ tăng
của nhóm này bình quân 4,5%/ năm tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu giảm từ 22%
(2005) xuống 17% (2010) kim ngạch 8 đến 16 tỉ USD.
Hướng chủ đạo là chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng suất chất lượng, giá trị gia
tăng (sản lượng gạo, cà phê, chè…)
+ Nhóm sản phẩm chế biến và chế tạo: Là một trong những nhóm cần phải tăng
trưởng cả kim ngạch và tỉ trọng, cụ thể là mục tiêu đặt ra kim ngạch xuất khẩu lớn
hơn 4 tỉ USD so với năm 2010, tỉ trọng lớn hơn 30% tăng lên 20 đến 21 tỉ và tỉ
trọng tăng 40%. Như vậy so với năm nay thì năm 2010 kim ngạch xuất khẩu tăng
gấp 5 lần, lưu ý hai mặt hàng chủ yếu là dệt may và da dày, cần phải tăng trưởng
hàng thủ công mỹ nghệ ….kim ngạch đạt 5 tỉ USD (2010).
+ Các sản phẩm công nghệ chất xám cao: Chính sách chỉ là hạt nhân là điện tử và
tin học, vẫn thực hiện phương thức gia công, tăng tỉ lệ nội địa hoá rồi có chính sách
phát triển nguồn lực với mục tiêu kim ngạch xuất khẩu 2,5 tỉ USD.
* Chính sách đối với các dịch vụ xuất khẩu:
Đầu tư phát triển hệ thống để xuất khẩu dịch vụ như dịch vụ vận chuyển hành
khách, hàng không, dịch vụ cảng biển và các dịch vụ vận tải nhằm có một hoạt động
xuất khẩu thuận tiện hơn. Chuyên nghiệp hoá, nâng cao chất lượng và sức cạch
tranh xuất khẩu hàng hoá để làm được chúng ta cần tham gia các hiệp hội quốc tế
sản xuất kinh doanh, nâng cao sức sản xuất kinh doanh sản phẩm dịch vụ. Mở rộng
loại hình dịch vụ xuất khẩu, phát triển hình thức xuất khẩu dịch vụ.
Chương II Phân tích đánh giá tình hình hoàn thiện chính sách xk mặt hàng chè của
công ty TNHH TM Đại Lợi
I. Khái quát tình hình tổ chức và kinh doanh của công ty TNHH TM Đại Lợi.
1. Lịch sử hình thành và phát triển:
1.1. Giới thiệu về công ty TNHH TM Đại Lợi.
Công ty được thành lập vào tháng 11/ 2001, trên cơ sở máy móc và công nghệ của
Liên Xô như là: Công nghệ ORTHODOX để chế biến chè đen.
Năm 2004, Công ty được cải tạo hoàn chỉnh và với ưu thế về thiết bị công nghệ cao,

đ• sản xuất được nhiều sản phẩm khác nhau cung cấp cho cả thị trường trong và
ngoài nước.
Tháng 3/ 2004, Công ty đã thành lập văn phòng đại diện tại phố Hào Nam, Thành
phố Hà Nội.
Hiện nay, Công ty có dây chuyền tự động của ấn độ, Nhật bản, Trung quốc…, theo
công nghệ CTD để sản xuất các loại chè khác nhau.
Với sự lãnh đạo của ban quản trị và lòng hăng say của cán bộ công nhân viên cộng
với sự nắm bắt kịp thời Công ty đã nhanh chóng tạo ra mặt hàng chè chất lượng cao
có thể tồn tại trong môi trường sản xuất và kinh doanh mới.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện nay, nhu cầu về đồ uống ngày
càng tăng. Nhận biết được vấn đề đó Công ty đã có những thay đổi để hòa nhập từ
đó tạo ra vị thế trên thị trường.
Tên tiếng việt : Công ty TNNH TM Đại Lợi.
Tên giao dịch : DAI LOI TRADING Co…,LTD
Địa chỉ : Thổ Tang - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc.
Điện thoại : 0211.838319
Fax : 0211.820666
Email :
1.2. Chức năng, cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty.
* Nhiệm vụ, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh.
Công ty TNHH TM Đại Lợi chuyên sản xuất, bán buôn và chế biến chè cung cấp
rộng rãi cho thị trường trong nước và xuất khẩu.
Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, chức năng và quyền hạn thường gắn liền với
nhau, còn nhiệm vụ và trách nhiệm thì liên quan chặt chẽ với nhau, còn đặc điểm
của công ty sẵn sàng cung cấp sản phẩm chè chất lượng cao tới tay người tiêu dùng.
Sơ đồ tổ chức
* Giám đốc:
Có quyền lực cao nhất, trực tiếp điều hành hoạt động của Công ty, là người đại diện
cho Công ty trong việc kí kết các hợp đồng trao đổi, mua bán với đối tác, phê duyệt
các kế hoạch và chiến lược phát triển của Công ty.

* Phó giám đốc:
Giúp đỡ giám đốc điều hành quản lý Công ty, kiểm tra giám sát hoạt động các
phòng ban, phân xưởng, ghi chép các thông tin thị trường.
* Phòng kinh doanh xuất khẩu:
Xuất khẩu, chào hàng và xác nhận chào hàng với đối tác nước ngoài, tổ chức thu
gom hàng nội địa theo đúng chất lượng, số lượng đã kí hợp đồng với khách hàng
nước ngoài, làm các thủ tục hải quan xuất khẩu và theo dõi tiến độ thanh toán của
khách hàng nước ngoài, bên cạnh đó, phòng kinh doanh xuất nhập khẩu còn làm
nhiệm vụ khai thác xuất khẩu, các dịch vụ hải quan, giao nhận khi khách hàng trong
nước có yêu cầu.
* Phòng kế toán:
- Hạch toán thống kê các hoạt động, các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình
kinh doanh định kì lập các báo cáo kế toán theo quy định của nhà nước và của Công
ty quản lý các tài sản, đảm bảo huy động các nguồn vốn phục vụ đáp ứng nhu cầu
kinh doanh.
- Kiểm tra thể thức, thủ tục, nội dung, số liệu của bộ chứng từ thanh toán, đảm bảo
chứng từ hợp pháp.
* Điểm mạnh của cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu tổ chức đơn giản, không cồng kềnh, có báo cáo rõ ràng, do vậy thông tin
được truyền đi một cách nhanh chóng đến các phòng ban, tiết kiệm được thời gian
cùng với đội ngũ lãnh đạo có kinh nghiệm và tương đối trẻ.
1.3. Mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của Công ty:
STT Tên danh mục mặt hàng
1. Chè đen OTD (ORTHODOX) gồm 7 loại: OP, FBOP, P, PS, F, D, BPS.

×