Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Vấn đề tôn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện nam đàn, tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.87 KB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
--- 000 ---

TRẦN THỊ NHƯ Ý

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
TƠN GIÁO Ở HUYỆN NAM ĐÀN, TỈNH NGHỆ AN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH THẾ ĐỊNH

Vinh, 2011


Lời cảm ơn

Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, tơi đã nhận được sự giúp đỡ
nhiệt tình, chu đáo của các thầy, cô giáo trong Hội đồng khoa học Khoa Giáo
dục chính trị, các thầy cơ giáo trong tổ bộ môn Chủ nghĩa xã hội khoa học,
đặc biệt là Tiến sỹ Đinh Thế Định - Trưởng Khoa Giáo dục chính trị đã trực
tiếp hướng dẫn tơi thực hiện khóa luận này. Bên cạnh đó, tơi cịn nhận được sự
giúp đỡ nhiệt thành của các đồng chí lãnh đạo huyện Nam Đàn và cán bộ lãnh
đạo các cơ sở và các chức sắc, chức việc tôn giáo trên địa bàn huyện đã giúp
đỡ tôi trong việc sưu tầm tài liệu và xâm nhập thực tế các cơ sở và đời sống
tơn giáo trên địa bàn để hồn thành khóa luận.
Tơi xin chân thành cảm ơn!



Vinh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Trần Thị Như Ý

2


MỤC LỤC
Trang
Chương 2.........................................................................................................38
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ...............38
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO Ở HUYỆN NAM ĐÀN TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY................................................................................38

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tơn giáo là một hiện tượng xã hội phong phú, phức tạp ra đời và tồn tại
khách quan trong lịch sử nhân loại. Do tình hình tơn giáo trên thế giới diễn
biến phức tạp qua các thời kỳ nên vấn đề tôn giáo đã và đang đặt ra nhiều vấn
đề nghiên cứu cho các nhà khoa học. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo
cùng tồn tại. Vấn đề tôn giáo đang bị các thế lực thù địch, phản động trong và
ngoài nước lợi dụng để chống phá cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chúng dùng
chiêu bài tôn giáo để chia rẽ các dân tộc, các tôn giáo trong nước nhằm phá
vỡ khối đại đoàn kết của nhân dân ta, gây mất ổn định chính trị, an ninh tơn
giáo, ảnh hưởng đến cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước ta.
Nắm vững lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh về vấn đề tơn giáo, trong từng thời kỳ Đảng và Nhà nước ta đã có
những chính sách phù hợp về tơn giáo, từ đó đảm bảo đời sống sinh hoạt tôn
giáo của nhân dân một cách lành mạnh, góp phần thúc đẩy sự phát triển của
xã hội.
Huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An là huyện thuần nông, có dân số đơng và
nhiều tơn giáo cùng tồn tại, đồng bào các tôn giáo chiếm hơn 13 % dân số của
huyện. Trong những năm qua, công cuộc đổi mới trên địa bàn huyện đã đạt
được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Đời sống nhân dân, trong đó có đời sống
của đồng bào theo đạo được nâng lên đáng kể, sinh hoạt tơn giáo nhìn chung
ổn định.
Tuy nhiên, những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân mà hoạt động
của các tôn giáo trên địa bàn huyện diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ đe
dọa đến an ninh tôn giáo, ảnh hưởng khơng nhỏ đến việc xây dựng khối đại
đồn kết tồn dân, đến cơng cuộc đổi mới, xây dựng quê hương huyện Nam
Đàn.

4


Trước tình hình đó, cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương đã và
đang có nhiều chính sách, biện pháp quan tâm đến vấn đề sinh hoạt tôn giáo
trên địa bàn huyện nên cơ bản giữ được đoàn kết đồng bào các tơn giáo và
đồn kết lương giáo, ổn định tình hình chính trị tại địa phương.
Là một người con sinh ra và lớn lên trên quê hương Bác Hồ kính u,
với mong muốn đóng góp một phần cơng sức nhỏ bé vào xây dựng quê
hương, chúng tôi chọn đề tài "Vấn đề tơn giáo và thực hiện chính sách tôn
giáo ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp Đại học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình Đảng lãnh đạo cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước,

nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề tôn giáo nên nhiều nhà khoa học đã
tập trung nghiên cứu và xuất bản nhiều tác phẩm có giá trị.
Đáng chú ý có các cơng trình: Giáo sư Đặng Nghiêm Vạn với cơng
trình nghiên cứu "Lý luận về tơn giáo và tình hình tơn giáo ở Việt Nam", Nxb
Chính trị Quốc gia 2007; Phó Tiến sĩ Hồ Trọng Hồi với tác phẩm "Vai trị xã
hội của tơn giáo ở Việt Nam", Ban tơn giáo Chính phủ - Thơng tấn xã Việt
Nam năm 2005; Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Quang Hưng "Nghiên cứu tôn giáo Nhân
vật và sự kiện", Nxb Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009.
Bài viết: "Suy nghĩ về sự vận động của các tôn giáo ở Việt Nam", Tạp
chí Nghiên cứu tơn giáo, số 1, tháng 2 năm 2000 của tác giả Nguyễn Kim
Hiền.
Tác giả Hà Lê với bài viết "tình hình và diễn biến xu thế của đời sống
tơn giáo hiện nay", Tạp chí Tơn giáo số 8, năm 2006.
Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Quang Hưng "Vấn đề tôn giáo trong văn kiện Đại
hội lần thứ X của Đảng: cái đã có và cái cần có", Tạp chí Tơn giáo số 5 năm
2006.

5


Tiến sĩ Vũ Văn Hậu "Quan hệ dân tộc và tơn giáo ở nước ta trong bối
cảnh tồn cầu hóa", Tạp chí Tơn giáo số 6 năm 2006.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Lữ, tập bài giảng: "Sự biến động của tôn giáo trên
thế giới và đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam", Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
Đề tài "Những vấn đề tôn giáo hiện nay" của Viện nghiên cứu tôn giáo
Việt Nam.
Nghiên cứu về vấn đề tơn giáo và thực hiện chính sách tơn giáo ở tỉnh
Nghệ An cũng đã có các cơng trình nghiên cứu: Ban Tôn giáo - Sở Nội vụ
Nghệ An, đề án "Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về hoạt động tơn giáo

trong tình hình mới", tháng 7 năm 2009; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Nghệ An
với đề án "Củng cố nâng cao đội ngũ cốt cán Mặt trận Tổ quốc trong vùng
theo đạo công giáo ở Nghệ An", Số 03/ĐA/MTTQNA-2008.
Những cơng trình nghiên cứu trên là kết quả nghiên cứu khoa học rất
công phu và sâu sắc dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề tơn giáo, và tình
hình tơn giáo Việt Nam trong tình hình mới. Tuy nhiên, nghiên cứu về đời
sống tôn giáo và việc thực hiện chính sách tơn giáo cụ thể trên địa bàn huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An thì cho đến nay hầu như chưa có cơng trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống. Do đó, đề tài tuy có kế thừa nhất định các
cơng trình nghiên cứu khoa học đi trước nhưng khơng trùng lặp với bất kỳ
cơng trình khoa học nào đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề tơn giáo và thực hiện chính sách tơn giáo ở huyện
Nam Đàn hiện nay, đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt chính sách tơn
giáo, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội, đẩy mạnh q trình phát
triển kinh tế - xã hội ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

6


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu lý luận chung về tôn giáo và các quan điểm của Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam đối với vấn đề tôn giáo.
- Làm rõ thực trạng đời sống tôn giáo tại địa phương huyện Nam Đàn,
từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả thực hiện chính
sách tơn giáo trên địa bàn huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề tơn giáo và thực hiện chính sách tơn giáo ở huyện

Nam Đàn, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề tôn giáo trên địa bàn huyện Nam
Đàn trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã quán triệt phương pháp luận
của triết học, đồng thời sử dụng các phương pháp liên ngành như phân tích,
tổng hợp, điều tra, thống kê bảng biểu, khảo sát xã hội ...
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài
- Khóa luận góp phần cung cấp cơ sở khoa học để nhằm nâng cao chất
lượng việc thực hiện chính sách tôn giáo trên địa bàn huyện Nam Đàn.
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo giúp người đọc hiểu
thêm về lĩnh vực tôn giáo và vấn đề thực hiện chính sách tơn giáo tại địa
phương huyện Nam Đàn.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận được kết cấu thành 2 chương:

7


Chương I: Vấn đề tơn giáo và thực hiện chính sách tôn giáo ở huyện
Nam Đàn hiện nay.
Chương II: Quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách tơn giáo ở huyện Nam Đàn trong giai đoạn hiện nay.

8


NỘI DUNG

Chương 1
VẤN ĐỀ TƠN GIÁO VÀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
Ở HUYỆN NAM ĐÀN HIỆN NAY
1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo và giải
quyết vấn đề tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội
1.1.1. Nguồn gốc, bản chất, tính chất của tơn giáo
1.1.1.1. Nguồn gốc của tôn giáo
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ những nguồn gốc ra
đời của các tơn giáo. Đó là những quan điểm duy vật lịch sử về tơn giáo, phản
ánh tính khoa học, khách quan khi nghiên cứu, đánh giá hiện tượng sự vật.
Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", C.Mác và Ph.Ăngghen đã viết: "Ngay cả
những ảo tưởng hình thành trong đầu óc con người cũng là những vật thăng
hoa tất yếu của quá trình đời sống vật chất của họ, một quá trình có thể xác
định được bằng kinh nghiệm và gắn liền với những tiền đề vật chất. Như vậy
thì đạo đức, tơn giáo, siêu hình học và những dạng khác của hệ tư tưởng cùng
với những hình thái ý thức tương ứng với chúng, liền mất ngay những vẻ độc
lập bên ngoài" [5, 38].
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: mối liên hệ gắn với "quá trình đời
sống vật chất" của con người, của tôn giáo đã cho thấy những nguồn gốc ra
đời của tôn giáo.
V.I.Lênin cũng đã nêu nhiều quan điểm phản ánh nguồn gốc xã hội,
nguồn gốc nhận thức, tâm lý, tình cảm của tơn giáo.
Luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin: "Sự sợ hãi tạo ra thần linh" đã phản
ánh nguồn gốc đặc thù từ tâm lý, tình cảm góp phần làm phát sinh tôn giáo.
Từ nhiều quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho thấy
nguồn gốc ra đời tôn giáo là:

9



- Nguồn gốc kinh tế - xã hội:
Bất kỳ một tôn giáo nào (tôn giáo nguyên thủy hay tôn giáo hiện đại)
đều phản ánh tồn tại xã hội với những quan hệ kinh tế nhất định. Nguồn gốc
của tôn giáo xuất phát từ những mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và
giữa con người với con người. Đó chính là tồn bộ những ngun nhân và
điều kiện khách quan của đời sống xã hội làm nảy sinh và tái hiện những
niềm tin tôn giáo.
Trong xã hội công xã nguyên thủy do trình độ của lực lượng sản xuất
và điều kiện sinh hoạt vật chất còn thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối và
bất lực trước thiên nhiên bao la, hùng vĩ, đầy bí ẩn. Vì vậy, người nguyên
thủy đã gán cho tự nhiên những sức mạnh siêu nhiên. Trong xã hội nguyên
thủy, ma thuật luôn đi kèm với những hoạt động lao động ở những nơi nào mà
người ngun thủy khơng có hi vọng vào kết quả lao động của mình, cũng
như ở những nơi các hoạt động ngẫu nhiên đóng vai trị lớn. Đó là hình thức
tồn tại đầu tiên của tôn giáo. Như vậy, không phải bản thân tự nhiên sinh ra
tôn giáo, mà là mối quan hệ đặc thù giữa con người với tự nhiên. Đó chính là
nguồn gốc xã hội của tơn giáo.
Khi xã hội xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giai cấp hình
thành, đối kháng giai cấp nảy sinh, hiện tượng tiêu cực xã hội ngày càng một
phát triển, một lần nữa con người lại bất lực trước lực lượng tự phát nảy sinh
trong xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, của các quan hệ kinh tế xã hội cũng đã làm biến đổi các hình thức, tổ chức tơn giáo.
Tơn giáo ra đời từ sự bất lực của con người trước sức mạnh tự phát của
xã hội; không phải tôn giáo sinh ra con người, mà chính con người sinh ra tơn
giáo.
- Nguồn gốc nhận thức:
Lịch sử nhận thức của con người là một quá trình từ thấp đến cao. Ở
giai đoạn thấp, tức là giai đoạn nhận thức tự nhiên cảm tính, con người chưa

10



thể sáng tạo ra tơn giáo, bởi vì tơn giáo với tư cách là ý thức, là niềm tin bao
giờ cũng gắn với cái siêu nhiên, thần thánh, mà nhận thức trực quan cảm tính
thì chưa thể tạo ra cái siêu nhiên thần thánh được. Thần thánh, cái siêu nhiên,
thế giới bên kia… là sản phẩm của những biểu tượng, sự trừu tượng hoá, sự
khái quát dưới dạng hư ảo. Nói như vậy có nghĩa là tơn giáo chỉ có thể ra đời
ở một trình độ nhận thức nhất định, đồng thời nó phải gắn với sự tự ý thức
của con người về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài.
Nhận thức thế giới xung quanh theo thế giới quan duy tâm, tin vào
những sức mạnh siêu nhiên thể hiện sự bất lực với sức mạnh của tự nhiên, là
một trong những nguồn gốc làm nảy sinh tôn giáo.
Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo gắn liền với đặc điểm của của q
trình nhận thức. Đó là một q trình phức tạp và mâu thuẫn, nó là sự thống
nhất một cách biện chứng giữa nội dung khách quan và hình thức chủ quan.
Khi nhấn mạnh đến nguồn gốc nhận thức của tôn giáo nằm ngay trong đặc
điểm của quá trình nhận thức, V.I.Lênin đã viết: "Sự phân đơi của nhận thức
con người và tính khả năng của chủ nghĩa duy tâm bằng của tôn giáo đã có
trong cái trừu tượng đầu tiên tối sơ..." [14, 516]
Nhận thức, thế giới quan của con người không chỉ phản ánh khả năng,
trình độ tư duy, lập trường, quan điểm... mà cịn phản ánh quyền con người.
Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là những quyền con người được luật pháp
bảo hộ.
Thay đổi nhận thức thế giới quan của con người khơng thể bằng mệnh
lệnh, hành chính, cưỡng bức mà phải bằng quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Ngày nay, dù khoa học, kỹ thuật phát triển nhưng trong đời sống tự nhiên, xã
hội vẫn còn nhiều hiện tượng mà con người chưa thể lý giải hoặc chưa thể
chinh phục được. Thế giới quan duy tâm vẫn có vai trị trong sự tồn tại của tín
ngưỡng, tơn giáo.

11



- Nguồn gốc tâm lý:
Những trạng thái tâm lý, tình cảm của con người: hoang mang, sợ hãi,
khủng hoảng niềm tin của cá nhân, cộng đồng người trước sức mạnh tự phát
của tự nhiên, xã hội làm nảy sinh tôn giáo. V.I.Lênin đã viết: "Sợ hãi trước
thế lực mù quáng của tư bản - mù quáng vì quần chúng nhân dân khơng thể
đốn trước được nó - là thế lực bất cứ lúc nào trong đời sống của người vô sản
và tiểu chủ, cũng đe dọa đem lại cho họ sự phá sản "đột ngột", "bất ngờ",
"ngẫu nhiên", làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn xin, một
kẻ bần cùng, một gái điếm. Và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn
gốc sâu xa của tôn giáo hiện đại" [14, 516]. Nhưng không chỉ có sự sợ hãi
trước sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội mới dẫn con người đến nhờ cậy
ở thần linh, mà ngay cả những tình cảm tích cực như lịng biết ơn, sự kính
trọng, tình u... trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người
với con người cũng được thể hiện qua tín ngưỡng, tơn giáo.
Là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, tơn giáo có chức năng "bù đắp
hư ảo", đáp ứng những nhu cầu tâm lý, tình cảm trong những bối cảnh nhất
định. Các mối quan hệ tâm lý, tình cảm của gia đình, cộng đồng tơn giáo hình
thành trong sinh hoạt tôn giáo tạo nên cơ sở tâm lý để tôn giáo tồn tại.
Tâm lý tôn giáo là loại hình tâm lý rất nhạy cảm, gắn bó với tâm lý cá
nhân, với tâm lý cộng đồng trong các tôn giáo.
1.1.1.2. Bản chất của tôn giáo
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu nhiều quan điểm
về tôn giáo trong điều kiện lịch sử đương thời.
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội nảy sinh, tồn tại từ lâu đời, phản ánh
nhu cầu tinh thần của bộ phận lớn quần chúng nhân dân. Những quan điểm
của Chủ nghĩa Mác - Lênin có giá trị trước hết và chủ yếu là giá trị về thế giới
quan, phương pháp luận.


12


Trong nhiều quan niệm của C.Mác về tơn giáo, có những quan niệm rất
giá trị, khi ông cho rằng: "Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự cảm giác của con
người chưa tìm được bản thân hoặc đã lại để mất bản thân mình một lần nữa"
[5, 659]. Ơng cịn viết: "Sự nghèo nàn của tơn giáo vừa là biểu hiện của sự
nghèo nàn hiện thực và mặt khác là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn
hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim
của thế giới không có trái tim cũng giống như nó là tinh thần của những điều
kiện khơng có tinh thần. Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân" [5, 570].
Ph.Ăngghen trong tác phẩm Chống Đuy Rinh cũng đã nêu lên quan
niệm về tôn giáo: "Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư
ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở
trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trấn thế " [6, 473].
Từ điều kiện lịch sử nước Nga đương thời, V.I.Lênin đã bổ sung, cụ thể
hóa quan niệm về tơn giáo, khi mà các thế lực giáo hội cố kết chặt chẽ với
Nhà nước thống trị dưới thời Sa hoàng. Trong tác phẩm " Chủ nghĩa xã hội và
tôn giáo", V.I.Lênin viết: "Tơn giáo là một trong những hình thức áp bức tinh
thần, luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn
khổ vì phải lao động suốt đời cho người khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần
cùng và cô độc. Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống
bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lịng tin vào một cuộc đời đẹp hơn ở thế giới bên
kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu tranh
chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu
vv..." [13, 169 - 170].
Tổng hợp các quan điểm của các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin, có thể thấy được những nội dung tập trung, thống nhất trong quan
niệm về tôn giáo của các ông. Trên cơ sở của quan niệm duy vật về lịch sử,
trên quan điểm duy vật biện chứng, Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tôn giáo


13


là sản phẩm của con người gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử
xã hội nhất định. Do đó, xét về mặt bản chất tơn giáo là một hiện tượng xã hội
phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
1.1.1.3. Tính chất của tơn giáo
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo đã phản ánh bản
chất của tơn giáo, đồng thời cũng chỉ ra những tính chất cơ bản của tơn giáo.
Một là: Tính lịch sử của tôn giáo
Tôn giáo là một phạm trù lịch sử, không phải là phạm trù vĩnh viễn như
các quan điểm duy tâm, thần học thường khẳng định.
Con người sáng tạo ra tôn giáo, nhưng không phải tôn giáo xuất hiện
cùng lúc với con người. Lịch sử loài người đã từng trải qua thời kỳ lâu dài
khơng có tơn giáo. Ở thời kỳ sơ khai nhất của loài người, con người chưa biết
đến, chưa cần đến chức năng của tôn giáo. Tương ứng với xã hội chưa có giai
cấp, nhà nước là thời kỳ tôn giáo nguyên thủy - tôn giáo đa thần. Khi xã hội
đã phân chia thành giai cấp, có nhà nước thì tơn giáo độc thần xuất hiện (các
tơn giáo có một vị thần tối cao). Trong q trình phát triển của các tơn giáo đã
có q trình biến đổi theo thời gian và theo nhu cầu của xã hội và của các thể
chế chính trị.
Tính lịch sử của tơn giáo thể hiện: khi có điều kiện lịch sử, có nhu cầu
thì tơn giáo ra đời, tồn tại và phát triển; khi khơng có, hay điều kiện lịch sử và
nhu cầu xã hội thay đổi thì tơn giáo cũng thay đổi. Tôn giáo là sản phẩm của
lịch sử, trong từng thời kỳ của lịch sử, tơn giáo có sự biến đổi cho phù hợp
với kết cấu chính trị và xã hội của thời đại đó. Tơn giáo ra đời trong một điều
kiện lịch sử nhất định và luôn biến động phản ánh sự biến đổi của lịch sử
nhân loại.
Hai là: Tính quần chúng của tơn giáo

Các tơn giáo ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với nhu cầu tinh thần
của các bộ phận nhân dân. Tuy mức độ, phạm vi ảnh hưởng rộng, hẹp khác

14


nhau nhưng các tôn giáo đều đã tập hợp quần chúng theo những đức tin, giáo
lý, giáo luật và cách thức tổ chức nhất định.
Tính quần chúng của tơn giáo khơng chỉ biểu hiện ở số lượng tín đồ các
tơn giáo chiếm tỉ lệ cao trong dân số thế giới, mà cịn ở chỗ tơn giáo đáp ứng
nhu cầu tinh thần của đa số quần chúng nhân dân lao động. Mặt khác, tính
quần chúng của tơn giáo cịn thể hiện ở chỗ các tơn giáo là nơi sinh hoạt văn
hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân lao động. Phản ánh khát
vọng về một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái của một số bộ phận quần chúng
nhân dân lao động. Vì vậy, nhiều người ở trong các tầng lớp khác nhau của xã
hội tin theo.
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn nhắc nhở
chúng ta rằng: thái độ đối xử với tôn giáo trước hết là thái độ đối xử với quần
chúng nhân dân có đạo. Cơng tác tơn giáo chủ yếu và trước hết là công tác
vận động quần chúng nhân dân có đạo.
Ba là: Tính chính trị trong các tơn giáo
Tính chính trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai
cấp và lợi ích giai cấp ngày càng được thể hiện rõ trong tôn giáo.
Khi xã hội chưa có giai cấp và nhà nước thì tơn giáo chỉ là đơn thuần
phản ánh nhận thức, tư tưởng, tình cảm của con người đối với thế giới xung
quanh. Khi xã hội đã có giai cấp, nhà nước, tôn giáo không chỉ phản ánh nhu
cầu tinh thần thuần túy mà còn phản ánh các quan hệ giai cấp, quan hệ lợi ích
giai cấp. Các lực lượng chính trị, nhất là giai cấp thống trị đã lợi dụng tơn
giáo phục vụ cho lợi ích ngồi tơn giáo, mục đích chính trị. Trong thực tế đã
có rất nhiều tơn giáo vừa hoạt động tơn giáo vừa hoạt động chính trị. Trong

các xã hội có áp bức giai cấp thì tôn giáo thường bị lợi dụng biến thành công
cụ thống trị của các giai cấp cầm quyền.
Ngày nay, tôn giáo đang có chiều hướng phát triển, đa dạng phức tạp,
khơng chỉ thể hiện ở tính tự phát trong nhân dân, mỗi địa phương, mỗi quốc

15


gia mà cịn có sự tổ chức chặt chẽ, rộng lớn ngồi tổ chức quốc tế của các tơn
giáo với vai trị, thế lực khơng nhỏ trên tồn cầu; với những trang bị hiện đại,
tác động không chỉ trong lĩnh vực tư tưởng, tâm lý mà cịn cả trong chính trị,
văn hóa, kinh tế, xã hội.
1.1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về giải quyết vấn đề
tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội
1.1.2.1. Sự tồn tại khách quan của tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội và là một thực thể tổ chức,
tôn giáo sẽ còn tồn tại khi còn những nguồn gốc, những nguyên nhân để tồn
tại.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, đặc biệt trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, tơn giáo vẫn cịn tồn tại do các ngun nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất: trong xã hội xã hội chủ nghĩa nói chung, trong thời kỳ quá độ
nói riêng, lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật mặc dù đã có những bước
phát triển nhảy vọt, những tiến bộ mới nhưng con người chưa thể hoàn toàn
chinh phục được những sức mạnh tự phát của tự nhiên, chưa thể nắm bắt đầy
đủ các quy luật của xã hội. Giới hạn trong phát triển của lực lượng sản xuất,
của khoa học, kỹ thuật chính là nguyên nhân tồn tại của tôn giáo.
Thứ hai: đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ là có sự tồn tại xen kẽ của
cái mới và cái cũ. Cái mới ra đời nhưng cần thời gian để khẳng định tính tiến
bộ, ưu việt. Cái cũ dù đã đánh đổ nhưng vẫn chưa bị xóa bỏ hồn tồn, hoặc

khơng thể xóa bỏ ngay. Trong chừng mực nhất định, những yếu tố cũ vẫn còn
tác động. Về phương diện kinh tế, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan. Tương ứng
với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một cơ cấu xã hội giai cấp, trong đó
vẫn cịn những sự khác biệt và diễn biến phức tạp. Trong văn hóa, tư tưởng,
thế giới quan vẫn cịn những yếu tố của văn hóa, tư tưởng và thế giới quan cũ,

16


phải cải biến cách mạng dần dần ... Mặt khác, tín ngưỡng tơn giáo vẫn là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tơn giáo có nhiều điều phù
hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới nên tôn giáo vẫn tồn tại trong xã hội
xã hội chủ nghĩa và nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba: từ sau khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu thất bại, phong trào cộng sản và phong trào cơng nhân quốc tế rơi
vào tình trạng thối trào; đời sống chính trị - xã hội thế giới diễn biến phức
tạp gây hoang mang, khủng hoảng niềm tin vào một mơ hình xã hội tương lai.
Đây cũng là một nguyên nhân làm tồn tại tôn giáo trong thời đại hiện nay.
Thứ tư: các thế lực thù địch, chống đối chủ nghĩa xã hội luôn lợi dụng
vấn đề tôn giáo, nhân quyền để kích động, chia rẽ các tơn giáo hoặc gây nên
các cuộc xung đột dân tộc, tôn giáo phá hoại hịa bình, tiến bộ và phát triển.
Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc vẫn đang ráo riết lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo, nhân quyền, thực hiện âm mưu "diễn biến hịa bình" nhằm thay đổi
chế độ chính trị - xã hội ở các nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Các tổ chức tôn giáo hiện đại đang bị lơi cuốn vào các hoạt động chính
trị ở những mức độ khác nhau. Một số tôn giáo đã và đang bị lợi dụng phục
vụ cho những mục đích ngồi tơn giáo.
1.1.2.2. Những quan điểm cơ bản giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Giải quyết vấn đề tôn giáo vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật. Đây là
vấn đề liên quan trực tiếp đến nhu cầu của nhân dân, liên quan đến quyền con
người, quyền công dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin ln ln địi hỏi "phải biết cách giải quyết vấn
đề tôn giáo" trên cơ sở một số quan điểm sau đây:
* Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo gắn liền với
cuộc vận động đồn kết các tín đồ tơn giáo trong q trình cải tạo xã hội cũ
xây dựng xã hội mới.

17


Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định tôn giáo là một hình thái ý thức xã
hội nên muốn làm thay đổi nó trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã
hội. Muốn xóa bỏ những ảo tưởng trong đầu óc con người thì phải xóa bỏ
nguồn gốc gây ra ảo tưởng ấy. Muốn đẩy lùi được những ước mơ về thiên
đường hư ảo ở thế giới bên kia thì con người cần phải xây dựng cho được một
"thiên đường" có thực ngay tại trần gian này; bằng việc xây dựng một thiên
đường nơi trần thế thì mới đẩy lùi được niềm tin vào những đám mây mù tôn
giáo. Giải quyết vấn đề tôn giáo không chỉ là tuyên truyền phê phán thế giới
quan tôn giáo mà phải thông qua thực tiễn cách mạng, không ngừng cải thiện
và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đó là một q trình
lâu dài để cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Đáp ứng ngày càng đầy đủ
những nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, từng bước nâng cao đời
sống của nhân dân, mà trước hết là những người có tín ngưỡng, tơn giáo,
thơng qua q trình này mới tạo ra được khả năng gạt bỏ dần những ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội.
Giải quyết vấn đề tơn giáo là từng bước xóa bỏ nguồn gốc sản sinh tôn
giáo. Khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của tơn giáo phải được thực hiện bằng
cách khắc phục, xóa bỏ nguyên nhân dẫn đến sự ra đời, tồn tại của tơn giáo

chứ khơng phải xóa bỏ, cấm đốn tơn giáo; khơng thể dùng mệnh lệnh, hành
chính để giải quyết bằng cấm đoán. Để khắc phục những tiêu cực của tơn giáo
cịn cần quan tâm đến cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, coi trọng tuyên
truyền, giáo dục thế giới quan duy vật và biện chứng với nhiều hình thức.
* Tơn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của
nhân dân.
Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Trong chủ nghĩa xã hội, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng là một
ngun tắc. Quyền ấy khơng chỉ thể hiện về mặt pháp lý mà còn thể hiện
trong thực tiễn của đời sống xã hội.

18


Một mặt, phải tôn trọng quyền được sinh hoạt tôn giáo của nhân dân,
các tổ chức tôn giáo được pháp luật thừa nhận, bảo hộ và đều bình đẳng trước
pháp luật. Mặt khác, phải tôn trọng quyền theo đạo hay không theo đạo của
người dân, kể cả quyền bỏ sinh hoạt tơn giáo khi người dân khơng có nhu cầu.
Khơng ai có quyền cưỡng bức, bắt buộc người dân theo đạo. Trong ứng xử
với các tơn giáo và các tín đồ, không được phân biệt đối xử với công dân theo
tơn giáo khác nhau, hay giữa người có đạo với người khơng có đạo. Giáo hội
các tơn giáo có trách nhiệm động viên các tín đồ phấn đấu sống một cuộc
sống "tốt đời, đẹp đạo".
Nhà nước xã hội chủ nghĩa chủ trương tơn trọng quyền tự do tín
ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân, bảo đảm mọi sinh hoạt tơn giáo
bình thường trong khn khổ luật pháp; đồng thời nghiêm cấm những kẻ lợi
dụng tơn giáo, tín ngưỡng để hành nghề mê tín dị đoan và những âm mưu lợi
dụng tơn giáo để hoạt động chính trị hoặc gây rối trật tự trị an. Phát huy
những nhân tố tích cực của tôn giáo, đặc biệt những giá trị đạo đức, chủ nghĩa
nhân đạo và tinh thần yêu nước.

* Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trị và tác động của mỗi tơn
giáo đối với xã hội là không giống nhau và quan điểm, thái độ của giáo sĩ và
giáo dân đối với các lĩnh vực xã hội cũng khơng hồn tồn thống nhất. Vì
vậy, khi thực hiện nhất quán nguyên tắc bình đẳng, khơng phân biệt đối xử
cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với
các vấn đề có liên quan với tơn giáo.
Có nhiều tơn giáo khi mới ra đời được coi như là một phong trào bảo
vệ, bênh vực quyền lợi của những người nghèo, người bị áp bức. Sau một thời
gian tồn tại, tôn giáo ấy lại biến thành công cụ của giai cấp thống trị, bóc lột.
Có những giáo sĩ suốt đời hành đạo và luôn luôn đồng hành cùng với dân tộc
nhưng cũng có người đã hợp tác với các thế lực thù địch bên ngoài mà đi

19


ngược lại với lợi ích quốc gia… Vì vậy địi hỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa
phải có thái độ, cách ứng xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
* Cần phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn
đề tôn giáo.
Trong xã hội công xã nguyên thủy, tôn giáo chỉ thể hiện thuần túy về
mặt tư tưởng, phản ánh nhận thức ngây thơ của con người về thế giới tự
nhiên. Khi xã hội xuất hiện giai cấp, tôn giáo không chỉ thể hiện ở mặt tư
tưởng mà cịn cả mặt chính trị.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng thực chất là phân biệt tính chất
khác nhau của hai loại mâu thuẫn ln tồn tại trong bản thân tơn giáo. Mặt
chính trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa
những thế lực lợi dụng tơn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của
nhân dân lao động; còn mặt tư tưởng phản ánh mâu thuẫn khơng mang tính
đối kháng giữa những người có tín ngưỡng với những người khơng tín

ngưỡng, tơn giáo cũng như những người có tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau.
Trong thực tế, hai mặt chính trị và tư tưởng trong tơn giáo thường đan
xen vào nhau. Có những lúc mâu thuẫn về mặt chính trị lại được các thế lực
phản động ngụy trang bằng sự khác nhau về tư tưởng và ngược lại. Loại bỏ
mặt chính trị phản động trong tơn giáo, nhất là khi các thế lực phản động quốc
tế đang lợi dụng tôn giáo nhằm thực hiện chiến lược diễn biến hịa bình là
việc làm cần thiết. Khi thực hiện cần dựa vào sức mạnh của quần chúng tín
đồ. Phương pháp phải kịp thời, cương quyết nhưng phải tránh nơn nóng vội
vàng. Đảm bảo được u cầu: đồn kết rộng rãi đồng bào có tín ngưỡng và
khơng có tín ngưỡng, phát huy tinh thần yêu nước của các tu sĩ chân tu đồng
thời kiên quyết trừng trị những kẻ lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để phá hoại sự
đồn kết dân tộc, phá hoại sự nghiệp cách mạng .

20


1.2. Sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng
và Nhà nước ta về giải quyết vấn đề tơn giáo trong q trình đi lên chủ
nghĩa xã hội
1.2.1. Khái quát đặc điểm chung về tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tơn giáo. Hiện nay, ở Việt
Nam có hơn 20 triệu tín đồ của 6 tơn giáo lớn, với một số đặc điểm sau:
Thứ nhất: ở Việt Nam các tôn giáo có lịch sử hình thành, phát triển,
phạm vi ảnh hưởng, số lượng tín đồ khác nhau
Phật giáo: là một tôn giáo lớn, được truyền vào Việt Nam theo hai con
đường: từ Ấn Độ và từ Trung Quốc, với các hệ phái khác nhau.
Phật giáo có mặt tại Việt Nam từ những năm đầu công nguyên, phát
triển qua các giai đoạn, gắn bó với dân tộc Việt Nam. Đạo đức Phật giáo tác
động khá lớn đến đạo đức, phong tục, tập quán, văn hóa của nhân dân ta. Có
thời kỳ trong lịch sử Việt Nam, Phật giáo giữ vai trò là quốc đạo. Hiện nay, ở

nước ta có khoảng 10 triệu tín đồ theo đạo Phật.
Cơng giáo: cũng là một tôn giáo thế giới được du nhập vào Việt Nam
từ thế kỷ 16, tồn tại và phát triển ở Việt Nam với những bước thăng trầm.
Hiện tại ở Việt Nam có khoảng 6 triệu tín đồ Cơng giáo.
Đạo Tin lành: được du nhập vào Việt Nam từ năm 1911, từ tổ chức Tin
lành Mỹ (CMA) truyền vào. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 500 nghìn tín đồ
đạo Tin lành. Đây là một tơn giáo đang có xu hướng phát triển ở các vùng dân
tộc thiểu số ở Việt Nam.
Hồi giáo: cũng là một tôn giáo thế giới được truyền vào Việt Nam theo
nhiều con đường khác nhau. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 100 nghìn tín đồ
đạo Hồi gồm hai khối: Hồi giáo chính thống (Islam) tập trung ở các tỉnh An
Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh và Hồi giáo Bà ni tập
trung ở Ninh Thuận, Bình Thuận và một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở
các tỉnh khác.

21


Đạo Cao đài: là tôn giáo bản địa, ra đời ở Nam Bộ Việt Nam năm 1926.
Đây là một tôn giáo dung hợp nhiều yếu tố, nội dung của các tơn giáo khác
nhau. Hiện nay có hơn 2 triệu tín đồ đạo Cao đài với nhiều hệ phái, trong đó
phần lớn tín đồ theo phái Cao đài Tây Ninh.
Đạo Hịa hảo: (hay còn gọi là Phật giáo Hòa hảo) cũng là một tôn giáo
bản địa ra đời ở An Giang vào năm 1939. Đạo Hòa hảo tiếp thu, ảnh hưởng
rất lớn từ Phật giáo. Hiện nay có trên 1 triệu tín đồ đạo Hịa hảo, tập trung chủ
yếu ở tỉnh An Giang và một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long.
Thứ hai: hầu hết các tín đồ tơn giáo ở Việt Nam đều là nhân dân lao
động. Họ bị áp bức, bóc lột bởi chế độ thực dân, phong kiến nên có tinh thần
u nước, tinh thần đồn kết dân tộc.
Tuyệt đại đa số tín đồ tơn giáo ở Việt Nam đều là nhân dân lao động có

quan hệ gắn bó trong cộng đồng gia đình - làng - nước (những thiết chế bền
vững trong tổ chức văn hóa xã hội cổ truyền ở Việt Nam). Từ khi có Đảng
Cộng sản Việt Nam - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện,
lãnh đạo, đồng bào các tôn giáo đều tin tưởng ở Đảng, đi theo Đảng, đoàn kết
chặt chẽ trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đóng góp tích cực vào cuộc
cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn chung các tổ chức tơn giáo có tư cách pháp nhân đều có đường
hướng hành đạo theo pháp luật, gắn bó với dân tộc, tập hợp đơng đảo tín đồ
xây dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo", góp phần tích cực vào cơng cuộc đổi
mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hiện nay.
Thứ ba: các tôn giáo ở Việt Nam cùng tồn tại với các loại hình tín
ngưỡng dân gian truyền thống, chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng truyền thống.
Ở Việt Nam bên cạnh các tơn giáo có đầy đủ các yếu tố cấu thành như
hệ thống tín điều, giáo lý, lễ nghi, tổ chức ... cịn tồn tại nhiều loại hình tín
ngưỡng dân gian truyền thống (tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ anh
hùng dân tộc, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành hồng...). Nhiều tơn

22


giáo đã tiếp thu, tiếp biến các loại hình tín ngưỡng dân gian, tạo nên sự phong
phú, đa dạng trong sinh hoạt tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam.
Thứ tư: những năm gần dây do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ
quan, tình hình hoạt động tơn giáo có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
những nhân tố có thể gây mất ổn định.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong hoạt động của các tôn giáo
ở Việt Nam, những năm gần đây do tác động từ tình hình chính trị - xã hội thế
giới, từ các vấn đề dân tộc, tơn giáo thế giới nói chung, ở Việt Nam cịn có
những hoạt động của một số người chưa tuân thủ pháp luật, tổ chức truyền
đạo trái phép; lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Ở

một số nơi, nhất là vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín
ngưỡng, tơn giáo để hoạt động chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị.
Tình hình đặc điểm trên của các tơn giáo Việt Nam hiện nay đang chịu
nhiều tác động của các nhân tố mới từ xu thế của thời đại và những diễn biến
của đời sống chính trị - xã hội thế giới cần được phân tích, đánh giá đúng để
có quan điểm phù hợp trong giải quyết vấn đề tôn giáo.
1.2.2. Quan điểm và chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay
Cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước đồng thời đã khẳng định những
quan điểm đổi mới tư duy và thái độ ứng xử đối với tôn giáo của Đảng và
Nhà nước ta.
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta coi tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối
đại đồn kết tồn dân tộc.
Tơn trọng và đảm bảo quyền tự do tôn giáo, theo hoặc không theo tôn
giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật là thái độ

23


ứng xử đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Coi tôn giáo là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là biểu hiện đổi mới nhận thức về mối quan
hệ giữa chủ nghĩa xã hội và tôn giáo, nhìn nhận, đánh giá đúng về đạo đức tơn
giáo với những yếu tố phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới ở Việt
Nam. Đảng và Nhà nước Việt Nam không đối lập giữa chủ nghĩa xã hội với
tôn giáo mà luôn đảm bảo tôn trọng quyền tự do tôn giáo của công dân.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhất qn chính sách

đại đồn kết tồn dân tộc, trong đó có đồn kết các tơn giáo, đồn kết đồng
bào theo tơn giáo và đồng bào khơng theo tơn giáo.
Đồn kết tồn dân tộc là một truyền thống quý báu của nhân dân Việt
Nam. Đảng và Nhà nước ta luôn luôn thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về
đồn kết tạo nên sức mạnh, động lực cho cách mạng Việt Nam. Trong điều
kiện hiện nay, hơn lúc nào hết chính sách đại đồn kết dân tộc phải được thực
hiện trong đoàn kết các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp xã hội,
không phân biệt đối xử với cơng dân vì lý do tôn giáo.
Mặt khác, Đảng và Nhà nước ta cũng nghiêm cấm việc lợi dụng tơn
giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính sách của
Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm
an ninh quốc gia.
Thứ ba, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là cơng tác vận động
quần chúng .
Do tính chất quần chúng của tôn giáo, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân, nội dung cốt lõi nhất, trọng tâm nhất của công tác tôn
giáo là công tác vận động quần chúng có đạo. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó các đồng
bào tơn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân không phân biệt tín ngưỡng,
tơn giáo đều có quyền xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

24


Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm mục đích động viên
đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất tổ
quốc, mọi cơng dân phải có trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện chủ trương,
đường lối, chính sách, pháp luật của nhà nước, tham gia tích cực vào quản lý
xã hội, thực hiện tốt các chính sách kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phịng, góp
phần cải thiện, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung,

trong đó có lợi ích của đồng bào các tơn giáo.
Thứ tư, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Cơng tác tơn giáo liên quan đến mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, mọi ngành, mọi cấp từ trung ương đến cơ sở. Đảng và Nhà nước Việt
Nam xác định rõ: công tác tôn giáo là trách nhiệm của tất cả các cấp, các
ngành, của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo chứ không chỉ trách nhiệm
riêng của đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.
Tổ chức bộ máy, cán bộ chun trách làm cơng tác tơn giáo có trách
nhiệm trực tiếp, cần được củng cố và kiện tồn. Cơng tác quản lý Nhà nước
đối với các tôn giáo và đấu tranh chống việc lợi dụng tôn giáo để chống đối
chế độ chỉ thành công nếu làm tốt công tác vận động quần chúng. Các cấp ủy
Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, các tổ chức xã hội và các
tổ chức tơn giáo có trách nhiệm làm tốt công tác vận động quần chúng và thực
hiện đúng đắn chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước.
Thứ năm, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Việc theo đạo, truyền đạo, cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều
phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên
truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, khơng được ép buộc người dân theo
đạo.
Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và các cách thức
truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của Nhà nước và pháp luật.

25


×