Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Bảng xếp loại các ngân hàng các chỉ tiêu cạnh tranh xếp loại và thực tiến tại ACB pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.93 KB, 83 trang )

Chương 1. Những vấn đề lý luận về cạnh tranh, chiến lược cạnh tranh và tăng
cường năng lực cạnh tranh ngân hàng.
1.1. Những vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh:
1.1.1 Các quan niệm về cạnh tranh:
Cạnh tranh được hiểu bằng nhiều cách khác nhau. Từ “cạnh tranh” được giải thích
là sự cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức
hoạt động nhằm những lợi ích như nhau.
(1)
Trong tác phẩm “Quốc phú luận” của Adam
Smith, tác giả cho rằng cạnh tranh có thể phối hợp kinh tế một cách nhịp nhàng, có lợi
cho xã hội. Vì sự cạnh tranh trong quá trình của cải quốc dân tăng lên chủ yếu diễn ra
thông qua thị trường và giá cả, do đó, cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với cơ chế thị
trường. Theo Smith, “Nếu tự do cạnh tranh, các cá nhân chèn ép nhau, thì cạnh tranh
buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình một cách chính xác”, “Cạnh
tranh và thi đua thường tạo ra sự cố gắng lớn nhất. Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao
nhưng lại không có động cơ thúc đẩy thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra
được bất kỳ sự cố gắng lớn nào”.
Trong tác phẩm “Về nguồn gốc của các loài”, Charles Robert Darwin đã đề ra tư
tưởng “vật cánh thiên trạch, thích giả sinh tồn”, đó là sự mô tả hay nhất về sự cạnh
tranh trong giới sinh vật. Quả vậy, không có cạnh tranh thì không có sự tiến bộ của
sinh vật, toàn bộ giới sinh vật, trong đó gồm cả loài người sẽ vì thiếu sức sống mà suy
vong.
Trong lý luận cạnh tranh của mình, trọng điểm nghiên cứu của Các Mác là cạnh
tranh giữa những người sản xuất và liên quan tới sự cạnh tranh này là cạnh tranh giữa
người sản xuất và người tiêu dùng. Những cuộc cạnh tranh này diễn ra dưới ba góc độ:
cạnh tranh giá thành thông qua nâng cao năng suất lao động giữa các nhà tư bản nhằm
thu được giá trị thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh chất lượng thông qua nâng cao giá trị
sử dụng hàng hoá, hoàn thiện chất lượng hàng hoá để thực hiện được giá trị hàng hoá;
cạnh tranh giữa các ngành thông qua việc gia tăng tính lưu động của tư bản nhằm chia
nhau giá trị thặng dư.


(1) Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 1998.
Ba góc độ cạnh tranh cơ bản này diễn ra xoay quanh sự quyết định giá trị, sự thực
hiện giá trị và sự phân phối giá trị thặng dư, chúng tạo nên nội dung cơ bản trong lý
luận cạnh tranh của Các Mác.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển mới xây
dựng lý luận cạnh tranh trên cơ sở tổng kết sự phát triển lý luận kinh tế ở nửa đầu thế
kỷ ấy nhằm vạch ra nguyên lý cơ bản về sự vận động của chế độ tư bản chủ nghĩa để
chỉ đạo cạnh tranh, kết quả là họ đã cho đời tư tưởng về thể chế kinh tế cạnh tranh hoàn
hảo, lấy thị trường tự do hoặc chế độ trao đổi làm cốt lõi. Cạnh tranh hoàn hảo là một
trong những giả thiết cơ bản của lý luận kinh tế này.
Ngược với tư tưởng xem cạnh tranh là một quá trình tĩnh của các nhà kinh tế học
thuộc trường phái cổ điển của thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học của trường phái Áo cho
rằng: “Một chỉ tiêu quan trọng về sự ra đời của lý luận cạnh tranh hiện đại là vứt bỏ
việc lấy cạnh tranh hoàn hảo làm giáo điều của lý luận cạnh tranh hiện thực và lý
tưởng, cạnh tranh được xem xét ở góc độ là một quá trình động, phát triển chứ không
phải là quá trình tĩnh”
Như vậy, cạnh tranh là một công cụ mạnh mẽ và là một yêu cầu tất yếu cho sự phát
triển kinh tế của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia.
Cạnh tranh giúp khai thác một cách hiệu quả nguồn lực thiên nhiên và tạo ra các
phương tiện mới để thoả mãn nhu cầu cá nhân ở mức giá thấp hơn và chất lượng cao
hơn. Từ đó, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con người. Nhờ cạnh tranh đã
thúc đẩy đổi mới công nghệ và gia tăng năng suất, tạo ra những thành tựu mới trên
nhiều lĩnh vực.
Do sự phát triển của thương mại và chủ nghĩa tư bản công nghiệp cùng với ảnh
hưởng của tư tưởng kinh tế, cạnh tranh ngày càng được xem như là cuộc đấu tranh giữa
các đối thủ. Trong thực tế đời sống kinh tế, cạnh tranh ngày càng được xem là một
cuộc đấu tranh giữa các đối thủ với mục đích đánh bại đối thủ. Đặc biệt, trước xu thế
hội nhập như hiện nay, cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt và phức tạp hơn, trở
thành một vấn đề sống còn của doanh nghiệp, doanh nghiệp nào không thể cạnh tranh
được với đối thủ sẽ nhanh chóng bị đào thải ra thương trường.

1.1.2 Khái niệm về năng lực cạnh tranh.
Theo Fafchamps, sức cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó
có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị
trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra những sản phẩm có chất
lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác nhưng có chi phí thấp hơn thì
được coi là có năng lực cạnh tranh
Một quan niệm khác cho rằng: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được
hiểu là tích hợp các khả năng và nguồn nội lực để duy trì và phát triển thị phần, lợi
nhuận và định vị những ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó trong mối quan hệ với
đối thủ cạnh tranh trực tiếp và tiềm tàng trên một thị trường mục tiêu xác định”
(2)
Theo PGS, TS Nguyễn Thị Quy, “năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là
khả năng doanh nghiệp đó tạo ra, duy trì và phát triển những lợi thế nhằm duy trì và
mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình của ngành và liên
tục tăng đồng thời đảm bảo sẹ hoạt động an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ
và vượt qua những biến động bất lợi của môi trường kinh doanh.”
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp, được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh
nghiệp kinh doanh.
1.1.3 Các quan niệm về các cấp độ năng lực cạnh tranh
1.1.3.1 Năng lực cạnh tranh quốc gia.
Là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được
đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống người dân.
1.1.3.2 Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
Được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh
nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước. Một doanh nghiệp có thể kinh
doanh một hay nhiều sản phẩm dịch vụ, vì vậy, người ta còn phân biệt năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp với năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ.



(2) Nguyễn Bách Khoa, (2004) Phương pháp luận xác định năng lực cạnh tranh và hội
nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp , Tạp chí Khoa học thương mại số 4 + 5 , Hà
Nội
1.1.3.3 Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ được đo bằng thị phần của sản phẩm
hay dịch vụ trên thị trường
(3)
.
 Ba cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau, tạo
điều kiện cho nhau, chế định và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi nền kinh tế có năng lực cạnh
tranh quốc gia phải có nhiều doanh nghiệp có cạnh tranh, ngược lại, để tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh, môi trường kinh doanh cho nền kinh tế phải
thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể sự bao được, nền kinh tế
phải ổn định, bộ máy nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chuyên
nghiệp.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp được đo thông qua lợi nhuận, thị phần của doanh nghiệp, thể hiện qua
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Là tế bào của nền kinh tế, năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh
tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp có thể
kinh doanh một hoặc một số sản phẩm dịch vụ có năng lực cạnh tranh.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng:
1.1.4.1 Môi trường vĩ mô:
 Môi trường kinh tế:
Ngân hàng là một ngành chứa đựng rất nhiều rủi ro. Mỗi một bíên động bất lợi
của kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của một ngân hàng. Nếu
nền kinh tế có các chỉ số về lãi suất, lạm phát, tỷ giá biến động thì các chính sách,

chiến lược kinh doanh cũng sẽ thay đổi để hạn chế sự suy giảm của lợi nhuận. Đặc biệt,
nếu ban lãnh đạo của ngân hàng không đề ra được các chíên lược phù hợp với sự biến
động đó sẽ ngân hàng của mình dần bị thua lỗ.
 Môi trường chính trị- pháp luật
Một đất nước có môi trường chính trị ổn định, luật pháp được quy định rõ ràng,
minh bạch, sự thay đổi luật diễn ra không thường xuyên, phù hợp với thông

(3) Phát triển, cải cách kinh tế và năng lực cạnh tranh ở Việt Nam. Triển vọng và
thách thức, Lê Đăng Doanh www.fetp.edu.vn/events/theFilename/E041208V.ppt

lệ quốc tế sẽ khuyến khích các doanh nghiệp nói chung và các tổ chức tín dụng nói
riêng an tâm hơn trong hoạt động kinh doanh của mình, có khả năng phát huy hết tối đa
lợi thế cạnh tranh của mình. Ngược lại, nếu môi trường chính trị, xã hội luôn biến động
thì dẫn đến sự kém hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng do sự không an toàn và sự
thay đổi liên tục, sự kém minh bạch của hệ thống luật pháp.
 Môi trường văn hoá- xã hội.
Có thể nói, ngân hàng là một ngành kinh doanh lòng tin. Ngân hàng là người giữ
túi tiền cho người dân cũng như các doanh nghiệp, là người nắm hầu bao của nền kinh
tế quốc dân, vì thế, nếu ngân hàng không hiểu được các tập quán văn hoá, xã hội của
người dân như thói quen tiêu dùng, trình độ dân trí, mức thu nhập của người dân thì
sẽ không thể lấy được lòng tin của khách hàng và từ đó sẽ bị đào thải khỏi thị trường.
 Môi trường công nghệ.
Cuộc cách mạng công nghệ đang diễn ra như vũ bão trên toàn thế giới, công nghệ
quyết định đến sự thành công của một doanh nghiệp nói chung và một ngân hàng nói
riêng, nếu ngân hàng có công nghệ lạc hậu hơn đối thủ cạnh tranh thì sớm muộn cũng
sẽ bị đối thủ cạnh tranh đánh bật ra khỏi thị trường.
Một ngân hàng chú trọng đến công nghệ của mình sẽ làm cho khách hàng tin
tưởng và từ đó có thể dễ dàng thu hút khách hàng mới hay lôi kéo khách hàng của đối
thủ cạnh tranh.
 Môi trường quốc tế.

Quá trình hội nhập của nền kinh tế đòi hỏi một đất nước cũng phải tuân thủ các
luật chơi của quốc tế. Sự biến động của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là các chỉ số như
lãi suất, tỷ giá, giá dầu, vàng, đô la cũng tác động rất lớn tới nền kinh tế trong nước và
từ đó ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt, sự hội nhập kinh tế thế
giới làm cho các ngân hàng không chỉ cạnh tranh nội địa với nhau mà còn cạnh tranh
với các ngân hàng nước ngoài đổ bộ ngày càng nhiều vào Việt Nam với quy mô vốn
lớn và công nghệ hiện đại.
1.1.4.2 Môi trường vi mô:
Theo mô hình “năm lực lượng cạnh tranh” của Michael Porter thì môi trường vi
mô của một ngân hàng gồm năm yếu tố sau:
 Đối thủ cạnh tranh hiện tại:
Các đối thủ cạnh tranh hiện tại đang chia nhau chiếc bánh thị trường. Do vậy,
một hành động của một đối thủ này để khai thác nhiều hơn phần thị trường đó thì sẽ
nhận được sự đáp trả của đối thủ khác để giành lại phần thị trường bị mất. Nếu cạnh
tranh giữa các đối thủ trong ngành mãnh liệt thì nguy cơ chiến tranh giá xảy ra, thị
trường bị thu hẹp, lợi nhuận bị giảm sút. Trong tương lai, cạnh tranh là giành cơ hội
chứ không phải là giành thị phần. Các nhân tố tác động đến mức độ ganh đua giữa các
đối thủ trong ngành bao gồm cấu trúc cạnh tranh ngành, các điều kiện nhu cầu và rào
cản rời ngành.
 Đối thủ cạnh tranh tiềm tàng
Sự xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng là mối nguy lớn đe dọa đến
thị phần của các ngân hàng bằng cách đem vào ngành những năng lực sản xuất mới.
Do vậy nhận diện được các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng là hết sức quan trọng để thiết
lập những rào cản ngăn chặn trước khi nó có thể xâm nhập. Những rào cản có thể bao
gồm: xây dựng lòng trung thành nhãn hiệu, khai thác lợi thế về chi phí thấp, tận dụng
tính kinh tế về quy mô, những quy định của chính phủ Các đối thủ cạnh tranh tiềm
tàng của ngân hàng như: các cá nhân, tổ chức có ý định thành lập ngân hàng của mình.
 Khả năng của những sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế là những sản phẩm có thể thỏa mãn những nhu cầu tương tự
của khách hàng. Khả năng của sản phẩm thay thế có nguy cơ làm hạn chế khả năng đặt

giá cao và do đó có thể hạn chế khả năng sinh lợi của ngân hàng. Vì vậy, chiến lược
của ngân hàng sẽ được thiết kế để giành lợi thế cạnh tranh từ thực tế này. Ví dụ các sản
phẩm thay thế cho các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp như vàng, bất động sản,
chứng khoán
 Khả năng thương lượng của khách hàng (người vay)
Những người mua được xem như là một đe dọa cạnh tranh khi họ ở vị thế yêu
cầu giá thấp hoặc yêu cầu cung cấp những dịch vụ tốt hơn. Ngược lại khi người mua ở
vị thế yếu hơn trong đàm phán thì ngân hàng có cơ hội thu được lợi nhuận cao hơn.
Người vay sẽ có quyền lực nhất khi:
- Ngành cung cấp được tạo bởi nhiều công ty nhỏ và người mua là một số ít và
lớn
- Khi người mua mua sắm với khối lượng lớn
- Khi ngành cung cấp phụ thuộc vào người mua vì phần lớn doanh số phụ thuộc
vào các đơn hàng của khách hàng
- Khi chi phí chuyển đổi giữa các nhà cung cấp là thấp
- Khi đặc tính kinh tế của người mua là mua sắm từ vài công ty cùng lúc.
Ngân hàng là đối tác trung gian giữa người vay và khách hàng gửi tiền, sử dụng
tiền của người có nguồn vốn nhàn rỗi để cho người có nhu cầu về vốn vay trong một
khoảng thời gian nhất định. Chính vì vậy, người vay có tác động rất lớn đến hoạt động
của ngân hàng. Nếu ngân hàng huy động nhiều mà giải ngân ít do ít nhu cầu vay thì
vốn sẽ bị ứ đọng, không sinh lãi, khả năng trả lại tiền cho khách hàng gửi tiền sẽ bi hạn
chế, từ đó có nguy cơ dẫn đến phá sản.
 Khả năng thương lượng của nhà cung cấp ( khách hàng gửi tiền)
Những người bán được xem là một đe dọa khi họ yêu cầu tăng giá hoặc giảm
chất lượng đầu vào, do đó làm giảm khả năng sinh lợi của công ty và ngược lại nếu nếu
nhà cung cấp yếu thì công ty có thể mua được với mức giá thấp hơn hoặc yêu cầu chất
lượng cao hơn. Các nhà cung cấp có quyền lực nhất khi:
- Sản phẩm của nhà cung cấp ít có khả năng thay thế và quan trọng đối với công
ty
- Công ty không phải là một khách hàng quan trọng của nhà cung cấp

- Chi phí chuyển đổi giữa các nhà cung cấp tương đối cao
- Đe dọa hội nhập xuôi chiều về phía ngành ,cạnh tranh trực tiếp với công ty.
- Các công ty không thể đe dọa hội nhập ngược về phía nhà cung cấp để tự đáp
ứng nhu cầu đầu vào cho công ty
Nếu ngân hàng không huy động được nhiều vốn để cho vay thì lợi nhuận của
ngân hàng sẽ giảm và từ đó cũng dễ dẫn tới việc phá sản. Chính vì vậy, cũng giống
khách hàng vay, khách hàng gửi tiền cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân
hàng.
1.1.5 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
1.1.5.1 Chỉ tiêu về năng lực tài chính.
Năng lực tài chính là thước đo sức mạnh của một ngân hàng tại một thời điểm
nhất định, thể hiện qua các chỉ tiêu:
 Mức độ an toàn vốn và khả năng huy động vốn:
Tiềm lực về vốn chủ sở hữu phản ánh sức mạnh tài chính của một ngân hàng và
khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng đó. Cách thức mà một ngân hàng có khả năng
cơ cấu lại vốn, huy động thêm vốn cũng là một khía cạnh phản ánh tiềm lực về vốn của
một ngân hàng.
 Chất lượng tài sản có:
Phản ánh sức khoẻ của một ngân hàng. Chất lượng tài sản có được thể hiện
thông qua các chỉ tiêu như: tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản có, mức độ lập dự phòng và
khả năng thu hồi các khoản nợ xấu, mức độ tập trung và đa dạng hoá danh mục tín
dụng, rủi ro tín dụng tiềm ẩn
 Mức sinh lợi:
Là chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động của ngân hàng, đồng thời cũng phản
ánh một phần kết quả cạnh tranh của ngân hàng. Chỉ tiêu mức sinh lợi có thể được
phân tích thông qua những chỉ tiêu cụ thể như: giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau thuế,
tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, cơ cấu của lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu (ROE), tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản có (ROA), các chỉ tiêu về mức sinh lợi
trong mối tương quan với chi phí
 Khả năng thanh khoản:

Được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như khả năng thanh toán tức thì, khả năng
thanh toán nhanh, đánh giá định tính về năng lực thanh khoản của các ngân hàng
thương mại, đặc biệt là khả năng quản lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương
mại.
1.1.5.2 Năng lực công nghệ.
Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là một
trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của mỗi ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính tác nghiệp như
hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút tiền tự động
ATM, mà còn bao gồm hệ thống thông tin quản lý MIS, hệ thống báo cáo rủi
ro trong nội bộ ngân hàng. Khả năng nâng cấp và đổi mới công nghệ của các ngân
hàng thương mại cũng là chỉ tiêu phản ánh năng lực công nghệ của một ngân hàng. Vì
thế, năng lực công nghệ không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện tại
mà còn bao gồm cả khả năng mở (khả năng đổi mới) của các công nghệ hiện tại về mặt
kỹ thuật cũng như kinh tế.

1.1.5.3 Nguồn nhân lực, quản trị và điều hành.
Năng lực cạnh tranh của nguồn nhân lực của một doanh nghiệp nói chung thể
hiện ở những yếu tố như: trình độ đào tạo, trình độ thành thạo nghiệp vụ, động cơ phấn
đấu, mức độ cam kết gắn bó với doanh nghiệp Nếu một ngân hàng có tốc độ lưu
chuyển nhân viên cao hay yếu kém trong nghiệp vụ thì ngân hàng đó sẽ không có khả
năng cạnh tranh.
Ngân hàng có một Ban giám đốc hay Hội đồng quản trị yếu kém, không có khả
năng đưa ra những chính sách, chiến lược hợp lý, thích ứng với những thay đổi của thị
trường sẽ làm lãng phí các nguồn lực và làm yếu đi năng lực cạnh tranh của ngân
hàng đó.
1.1.5.4 Danh tiếng, uy tín, hệ thống phân phối và mức độ đa dạng hoá các
dịch vụ cung cấp.
Uy tín là tài sản vô hình mà không phải bất cứ ngân hàng nào cũng có được. Uy
tín ngân hàng phải được xây dựng và củng cố trên cơ sở mạng lại nhiều lợi ích cho xã

hội và cho khách hàng. Uy tín ngân hàng là yếu tố quan trọng, là cơ sở để doanh
nghiệp có thể dễ dàng vươn lên trong cạnh tranh với các ngân hàng khác. Uy tín ngân
hàng được hình thành sau một thời gian dài hoạt động trên thị trường và là tài sản vô
hình mà doanh nghiệp cần phát huy và sử dụng như một thứ vũ khí chủ lực trong điều
kiện cạnh tranh hiện nay.
Hệ thống kênh phân phối được thể hiện ở số lượng các chi nhánh và phòng giao
dịch và sự phân bố các chi nhánh theo địa lý lãnh thổ. Một ngân hàng có mạng lưới chi
nhánh hay phòng giao dịch rộng lớn dễ dàng tiếp cận được với nhiều khách hàng ở
nhiều vùng địa lý khác nhau, điều đó cũng làm cho nhiều người biết đến ngân hàng
hơn. số lượng khách hàng giao dịch càng tăng đồng nghĩa với việc năng lực cạnh tranh
của ngân hàng tăng.
Mức độ đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cũng là một chỉ tiêu phản ánh năng
lực cạnh tranh của một ngân hàng. Một ngân hàng có nhiều loại hình dịch vụ cung cấp
phù hợp với nhu cầu thị trường và năng lực quản lý của ngân hàng sẽ là một ngân hàng
có lợi thế cạnh tranh. Sự đa dạng hoá các dịch vụ một mặt tạo cho ngân hàng phát triển
ổn định hơn, mặt khác cho phép ngân hàng phát huy lợi thế nhờ quy mô. Như sự đa
dạng hóa các dịch vụ cần phải được thực hiện trong tương quan so với các nguồn lực
hiện có của ngân hàng. Nế không, việc triển khai quá nhiều dịch vụ có thể khiến ngân
hàng kinh doanh không hiệu quả do dàn trải quá mức các nguồn lực.
1.2 Khái niệm về chiến lược cạnh tranh.
1.2.1 Khái niệm về chiến lược:
Năm 1962, chiến lược được Chandler định nghĩa như là: “việc xác định các mục
tiêu, mục đích cơ bản dài hạn của doanh nghiệp và việc áp dụng một chuỗi các hành
động cũng như sự phân bổ các nguồn lực cần thiết để thực hiện mục tiêu này”.
Johnson và Scholes định nghĩa lại chiến lược trong điều kiện môi trường có rất
nhiều những thay đổi nhanh chóng: “chiến lược là định hướng và phạm vi của một tổ
chức về dài hạn nhằm giành lợi thế cạnh tranh cho tổ chức thông qua việc định dạng
các nguồn lực của nó trong môi trường thay đổi, để đáp ứng nhu cầu thị trường và thoả
mãn mong đợi của các bên hữu quan”
1.2.2 Khái niệm về chiến lược cấp đơn vị kinh doanh.

Chiến lược cấp đơn vị kinh doanh là tổng thể các cam kết và hành động giúp
ngân hàng giành lợi thế cạnh tranh bằng cách khai thác các năng lực cốt lõi của nó vào
thị trường sản phẩm cụ thế. Ba yếu tố cơ bản tạo nên chiến lược cấp đơn vị kinh doanh:
nhu cầu khách hàng hay điều gì được thỏa mãn, nhóm khách hàng và cách thức mà các
nhóm khách hàng được thỏa mãn.
 Có bốn loại chiến lược kinh doanh chính:
- Dẫn đạo chi phí: cung cấp những sản phẩm có đặc tính được khách hàng
chấp nhận với mức chi phí thấp nhất trong so sánh với các đối thủ cạnh tranh
- Tạo sự khác biệt: tạo ra và cung cấp những sản phẩm được khách hàng cảm
nhận là độc đáo về một vài đặc tính quan trọng
- Chiến lược kết hợp: kết hợp giữa dẫn đạo chi phí và tạo sự khác biệt
- Tập trung vào các khe hở của thị trường: hướng trực tiếp vào phục vụ cho
nhu cầu của nhóm hay phân đoạn thị trường hạn chế, sử dụng cách tiếp cận khác biệt
hóa hoặc chi phí thấp
1.2.3 Khái niệm về chiến lược cấp công ty.
Chiến lược cấp công ty xác định các hành động mà công ty thực hiện nhằm
giành lợi thế cạnh tranh bằng cách lựa chọn, quản trị một nhóm các hoạt động kinh
doanh khác nhau cạnh tranh trong một số ngành và thị trường sản phẩm.
 Có ba loại chiến lược cấp công ty chính:
- Hội nhập dọc: doanh nghiệp tìm cách đầu tư vào các giai đoạn của quá trình
sản xuất kinh doanh hay tìm cách đầu tư để kiểm soát đối thủ và thị trường.
- Đa dạng hoá: doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản phẩm, thị trường hay đầu tư
phát triển những ngành hàng mới. Có ba loại đa dạng hoá: hàng ngang, đa dạng hoá
đồng tầm và đa dạng hoá kết khối.
- Phát triển tập trung: (chiến lược phát triển nhanh) doanh nghiệp chỉ tập trung
vào một lĩnh vực, một ngành hàng, một dãy sản phẩm nhất định (thậm chí chỉ là một
sản phẩm duy nhất) nhằm tạo ra tốc độ phát triển nhanh.
1.2.4 Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty
Năng lực cạnh tranh (lợi thế cạnh tranh) của một doanh nghiệp sẽ xác định
nguyên nhân tại sao các công ty trong cùng một ngành nhưng lại có một số công ty thì

thành công còn một số khác lại thất bại.
Như là một quy luật đào thải tự nhiên, những doanh nghiệp nào không thích nghi được
với cơ chế kinh doanh, không đủ năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp khác thì sẽ
cầm chắc sự thất bại.
Ngược lại, sự cạnh tranh lại giúp thúc đẩy sự phát triển của những doanh nghiệp
có khả năng nắm bắt thời cơ, phát huy những thế mạnh của mình và hạn chế những bất
lợi để giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế đã làm cho môi trường toàn cầu trở nên năng
động hơn, bản chất của sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các ngành và các doanh
nghiệp cũng có sự thay đổi nhanh chóng:
- Các doanh nghiệp giờ đây không còn cạnh tranh trong phạm vi một nước mà
thậm chí khi hoạt động tại một quốc gia thì công ty cũng phải đối mặt với sự cạnh
tranh toàn cầu với nhiều các đối thủ mạnh hơn.
- Cạnh tranh dựa vào quy mô đã không còn có hiệu quả như trước đây, ngược lại
những doanh nghiệp với quy mô nhỏ có sự linh hoạt và năng động hơn trước sự thay
đổi của môi trường kinh doanh sẽ hoạt động mang lại hiệu quả hơn.
- Nếu như trước đây các doanh nghiệp có thể cạnh tranh dựa vào các yếu tố công
nghệ hiện đại, dựa vào khả năng tiếp cận với các nguồn vốn lớn hay nguồn nguyên vật
liệu thì giờ đây toàn cầu hoá đã làm cho những yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh truyền
thống của doanh nghiệp cũng phải thay đổi theo.
- Ngày nay các doanh nghiệp có xu hướng tạo ra lợi thế cạnh tranh của mình trên
cơ sở nguồn nhân lực chiến lược, mang tính độc đáo, khó có khả năng bị sao chép như
các yếu tố cạnh tranh khác.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ giúp cho bản thân các
doanh nghiệp trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn trong việc thực hiện các chức năng, vai
trò của mình: phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng, kích thích sản xuất phát triển,
v.v…
Doanh nghiệp nào luôn hài lòng với vị thế đang có trên thương trường sẽ rơi vào
tình trạng tụt hậu và sẽ bị đào thải với tốc độ nhanh không thể ngờ trong một thị trường
toàn cầu luôn có sự biến động, thay đổi. Ngược lại, những doanh nghiệp thường xuyên

nâng cấp các lợi thế cạnh tranh theo thời gian thì những doanh nghiệp đó sẽ đạt được
những lợi thế cạnh tranh lâu dài với những chiến lược kinh doanh của mình.
Dù tất cả các công ty có làm bất cứ điều gì để tạo ra lợi thế đi nữa thì rồi nó cũng
sẽ không còn là lợi thế. Và vì vậy thường xuyên đánh giá và nâng cấp các lợi thế cạnh
tranh, tạo ra những lợi thế mới phù hợp với điều kiện cạnh tranh hiện tại sẽ mang lại
hiệu quả cao.
1.3 Khái niệm về năng lực cốt lõi
1.3.1 Khái niệm năng lực cốt lõi:
Năng lực cốt lõi là các nguồn lực và khả năng của ngân hàng được sử dụng như
nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh. Năng lực cốt lõi làm cho một ngân hàng có tính
cạnh tranh và phẩm chất riêng có của nó.
Năng lực cốt lõi phát sinh theo thời gian qua quá trình học tập, tích luỹ một cách
có tổ chức về cách thức khai thác các nguồn lực và khả năng khác nhau. Các năng lực
cốt lõi là “đồ phục sức sạng trọng của một công ty”, các hoạt động mà công ty thực
hiện tốt so với đối thủ cạnh tranh và thông qua đó, nó làm tăng giá trị cho các hàng hoá
và dịch vụ trong suốt thời gian dài.
Không phải tất cả các nguồn lực và khả năng của ngân hàng đều là các tài sản có
tính chiến lược. Các tài sản có tính chiến lược phải có giá trị cạnh tranh và có tiềm
năng sử dụng như một nguồn lợi thế cạnh tranh.
1.3.2 Các tiêu chuẩn xác định năng lực cốt lõi:
- Đáng giá: cho phép ngân hàng khai thác các cơ hội và hoá giải các đe doạ từ
môi trương bên ngoài. Bằng việc khai thác một cách hữu hiệu các cơ hội, ngân hàng có
thể tạo giá trị cho khách hàng.
- Hiếm: khả năng này không có hoặc rất ít đối thủ cạnh tranh có được khả năng
đó.
- Khó bắt chước: là những khả năng mà các đối thủ không dễ dàng phát triển
được nó.
- Không thể thay thế: có nghĩa là không có chiến lược tương đương.
Chương 2 : Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng Á Châu Việt Nam.
2.1. Ngành ngân hàng Việt Nam trước thách thức cạnh tranh.

2.1.1 Thuận lợi và thách thức đối với hệ thống ngân hàng thương mại trong
cạnh tranh, hội nhập quốc tế.
2.1.1.1 Thuận lợi:
 Am hiểu sâu sắc thị trường nội địa, nhu cầu của khách hàng trong nước.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam ra đời và phát triển với một khoảng thời
gian tương đối dài, mặt khác từ ban lãnh đạo đến nhân viên đều là người Việt Nam nên
có thể hiểu được sâu sắc văn hoá của người Việt, nhu cầu của người Việt hơn so với
các ngân hàng nước ngoài. Chính vì vậy khả năng cạnh tranh so với các ngân hàng
nước ngoài dựa trên lợi thế am hiểu thị trường nội địa là rất lớn.
 Có đội ngũ nhân viên nhiều kinh nghiệm, bên cạnh đó là những cán bộ trẻ, năng
động.
Cùng với hội nhập, các ngân hàng thương mại Việt Nam ngày càng chú trọng
hơn đến đội ngũ nhân viên của mình, họ xác định rằng, nhân viên là nhân tố quan trọng
nhất quyết định đến khả năng cạnh tranh của mình, chính vì thế, cán bộ, nhân viên
ngân hàng đều là những con người năng động, trẻ, và những con người có kinh
nghiệm.
 Có mạng lưới rộng khắp (đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh).
Các ngân hàng thương mại, đặc biệt là ngân hàng NN
o
&PTNT có mặt ở 64 tỉnh
thành trên cả nước. Bên cạnh đó, cùng với việc hạn chế số lượng chi nhánh ngân hàng
nước ngoài của ngân hàng Nhà nước, đồng thời, mới xâm nhập vào thị trường Việt
Nam thì ngân hàng nước ngoài có mạng lưới chi nhánh rất ít, thậm chí chỉ vài chi
nhánh.
Do sự phát triển của công nghệ ngân hàng hiện đại, việc mở rộng mạng lưới không
nhất thiết phải thành lập thêm chi nhánh mới. Tuy nhiên để cạnh tranh có hiệu quả thì
vẫn phải mở rộng thêm mạng lưới chi nhánh. Với những tốn kém chi phí cho việc mở
và vận hành một chi nhánh mới tại các tỉnh, thành phố khác ở xa trụ sở chính tại Hà
Nội hay Tp. Hồ Chí Minh, với những đối tượng, điều kiện khắt khe trên các chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài không dễ làm được. Trong khi đó đây là một lợi thế của các

NHTM Việt Nam. Nhất là Agribank hiện nay có tới 2.200 chi nhánh các loại trong toàn
quốc, đến tận các thị tứ, liên xã Nhưng hiện nay gần 50 % số chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài chỉ có Chi nhánh hoặc ở Hà Nội, hoặc ở TP.Hồ Chí Minh. Khoảng 4-5
ngân hàng có chi nhánh tại hai nơi. Một số ngân hàng Liên doanh tình tình có khá hơn,
nhưng cũng chỉ có mạng lưới ở một vài chi nhánh chính. Mà một trong các lợi thế cạnh
tranh là phải gần khách hàng, hiểu khách hàng.
Không những thế, với gần 800 máy ATM của các NHTM Việt Nam có đến thời
điểm hiện nay đều đã và đang chiếm các vị trí thuận lợi cho giao dịch, như: khách sạn
lớn, trung tâm thương mại, siêu thị, sân bay,…. Sau này các Ngân hàng có vốn đầu tư
nước ngoài có lắp đặt máy ATM sẽ rất khó tìm được vị trí lắp đặt thuận lợi cho giao
dịch đối với khách hàng như hiện tại.

(Nguồn: tổng hợp từ các báo cáo của các ngân hàng Việt Nam)
 Thị phần ổn định.
Do tâm lý của người dân Việt Nam vẫn chưa tin tưởng lắm vào các ngân hàng
nước ngoài, đồng thời mạng lưới chi nhánh rộng khắp nên thị phần cho vay cũng như
nhận tìên gửi của các ngân hàng Việt Nam rất cao và tương đối ổn định.
Các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng Liên doanh mặc dù có người
Việt Nam làm việc, nhưng cũng không thể hiểu phong tục tập quán, có phong cách
giao dịch thân thiện, ngôn ngữ giao dịch bản xứ như người Việt Nam trong các NHTM
Việt Nam. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng như cá nhân người Việt Nam giao dịch
với các NHTM Việt Nam khi xảy ra vấn đề gì dễ linh hoạt gặp nhau giải quyết hơn,
không cứng nhắc như các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài.
2.1.1.2 Thách thức:
 Môi trường kinh tế khó khăn:
Nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng rất lớn của nền kinh tế thế giới. Trong
những năm gần đây.
- Tác động của lạm phát:
Trong nhiều năm trở lại đây, kinh tế thế giới có nhiều biến động, đạt được tốc
độ tăng trưởng cao trung bình khoảng 5,1% mỗi năm, nhưng nhiều biến động thất

thường đã tác động không nhỏ tới sự ổn định tiền tệ, thể hiện ở một số diễn biến như:
giá dầu mỏ tăng cao, gây lạm phát cao ở hầu hết các nước; giá vàng tăng, lãi suất tăng,
giá hầu hết các nguyên liệu cơ bản đứng ở mức cao hoặc có xu hướng tăng, đã tác động
làm tăng chi phí nhập khẩu, tăng mặt bằng giá cả và trong nước.
Sự biến động thường xuyên của lạm phát ở mức lớn đã khiến việc đánh giá rủi
ro tín dụng và rủi ro thị trường của các nhà quản trị ngân hàng thiếu chính xác. Yếu tố
lạm phát làm tăng rủi ro đầu tư và làm suy yếu thông tin để lập kế hoạch, đầu tư, thẩm
định tín dụng. Lạm phát cao ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng
thương mại.
- Tác động của lãi suất và tỷ giá:
Lãi suất và tỷ giá càng biến động thì rủi ro lãi suất và tỷ giá càng lớn. Khả năng
tổn thương của hệ thống ngân hàng sẽ càng cao nếu nợ nước ngoài ở mức cao và tỷ lệ
đầu tư nước ngoài so với tổng đầu tư ở mức cao. Biến động tỷ giá có thể gây khó khăn
cho các ngân hàng do mất cân đối về loại tiền giữa tài sản có và tài sản nợ. Thực tiễn
cho thấy lãi suất quốc tế tăng lên làm cho hệ thống ngân hàng của các nền kinh tế mới
nổi dễ bị tổn thương do luồng vốn chảy ra, ngược lại lãi suất quốc tế giảm xuống sẽ
khiến luồng vốn chảy vào và có thể gây ra rủi ro bùng nổ tín dụng.
- Sự biến động của các ngành kinh tế khác :
Trước thách thức hội nhập nhiều doanh nghiệp ra đời, đồng thời cũng sẽ có
nhiều doanh nghiệp giải thể, phá sản. Vì vậy nhu cầu vay, khả năng thu hồi nợ vay
cũng sẽ có nhiều biến động, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đến khả năng sinh lợi
của ngân hàng. Nếu nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp làm ăn có lời thì khả năng
thu hồi vốn vay cao, nhưng ngược lại, nếu nền kinh tế suy thoái, nhiều doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ thì rủi ro tín dụng là rất cao.
 Môi trường pháp lý đầy biến động
Trong lĩnh vực kinh tế nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng, môi trường
pháp lý luôn luôn biến động, là do:
 Có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành chồng chéo,
mâu thuẫn nhau đòi hỏi phải luôn được rà soát, thay đổi.
Chẳng hạn như: các quy định về đảo nợ, lãi suất nợ quá hạn, cho vay hợp vốn,

các quy định về bảo đảm tiền vay, về đăng kí giao dịch bảo đảm với các quy định của
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD và Bộ luật Dân sự 2005; hay các
quy định về thương phiếu cũng không đồng nhất với các quy định của Luật Thương
mại 2005… Không những thế, các quy định trong Luật các TCTD cũng đã bộc lộ nhiều
nhược điểm về phát triển thương mại dịch vụ ngân hàng.
 Tính thống nhất trong hệ thống pháp luật ngân hàng còn cần phải được
đặt trong mối tương quan với hệ thống pháp luật kinh tế đã và đang được hoàn thiện.
 Một số văn bản vừa mới ban hành trong thời gian ngắn đã phải sửa đổi,
bổ sung hoặc bị thay thế do không phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Nguyên nhân do quá trình soạn thảo chưa lường hết được biến động của thực
tiễn, trình độ, năng lực của cán bộ tham gia soạn thảo văn bản còn hạn chế Việc ký,
ban hành văn bản hành chính của một số đơn vị trực thuộc có trường hợp chưa phù
hợp.
 Những thiết chế thị trường tiền tệ còn khá sơ khai, nhiều chỉ tiêu hoạt
động theo thông lệ quốc tế chưa được áp dụng - Đặc biệt là những chỉ tiêu về an toàn
vốn, về chất lượng tín dụng, về kế toán, kiểm toán và thanh tra.
 Hệ thống chính sách, pháp luật ngân hàng hiện nay còn góp phần tạo ra
sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ chức tín dụng, giữa các nhóm ngân hàng và
giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài, gây ra sự cạnh tranh thiếu lành
mạnh. Điều đó đặt ra thách thức phải sửa đổi tạo môi trường kinh doanh bình đẳng
thông thoáng theo nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO.
 Với những biến động trong môi trường pháp lý như một sự tất yếu thì đòi
hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải thường xuyên cập nhật những sự thay đổi trong hệ
thống luật, từ đó đưa ra các chiến lược cụ thể cho hoạt động của ngân hàng để vừa đáp
ứng được sự thay đổi đó, đồng thời vừa tận dụng nó để đem lại lợi ích cho ngân hàng
và nâng cao năng lực cạnh tranh
 Cạnh tranh ngày càng khốc liệt.
Theo lộ trình gia nhập WTO từ 1/4/2007, các tổ chức tín dụng (TCTD) nước
ngoài được phép thành lập và hoạt động dưới hình thức 100% vốn nước ngoài tại Việt
Nam. Sau lộ trình 5 năm gia nhập WTO các TCTD nước ngoài sẽ được hưởng các ưu

đãi như ngân hàng nội địa, đặc biệt, các TCTD nước ngoài cũng được phép thành lập
công ty chứng khoán 100% vốn của mình.
Tính đến hết năm 2007, ước tính tổng số vốn điều lệ và vốn góp mua cổ phần
của các tập đoàn ngân hàng, tài chính nước ngoài đã thực sự đưa vào Việt Nam hiện
nay lên tới gần 1,5 tỷ USD. Đó là chưa kể số vốn các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài
huy động ở nước ngoài đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam. Nếu tính doanh số cho vay
trong hơn 15 năm qua thì các ngân hàng và tập đoàn tài chính nước ngoài thực hiện số
vốn đầu tư lên tới trên 11 tỷ USD vào nền kinh tế nước ta.
Đồng thời cũng tính đến hết năm 2007 có 11 ngân hàng, tập đoàn tài chính
nước ngoài đầu tư vốn mua từ 10% đến 30% vốn cổ phần trong 8 NHTM cổ phần của
Việt Nam. Đó là ACB, Sacombank, VP Bank, Techcombank, NHTM CP Phương Nam,
NHTM CP Phương Đông, NHTMCP nhà Hà Nội, Eximbank…
Các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam đều được
xếp hạng nằm trong số 100 ngân hàng, hay 500 lớn nhất thế giới, như: Citi Bank,
Chase Mahattant Bank, America Express của Mỹ; Sumitomo Mitsui Banking
Corporation, Tokyo and Misubishi Bank của Nhật; Deutshe Bank, Berlin Bank của
Đức; ABN – Amro Bank của Hà Lan; Hongkong and Shanghai Banking Coporation,
Standard Chartered Bank, của Anh;
Với lợi thế về tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản trị và công nghệ, các ngân
hàng nước ngoài sẽ là một áp lực lớn đối với các ngân hàng trong nước. Khi thâm nhập
vào Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài sẽ triển khai cung cấp các sản phẩm hiện đại
như: Giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường vốn quốc tế; thực hiện các
giao dịch hoán đổi (lãi suất, hoán đổi các đồng tiền) và các công cụ phái sinh khác để
giúp khách hàng giảm rủi ro trong hoạt động tài chính; tín dụng hàng hoá Với những
danh mục sản phẩm, dịch vụ tuy không nhiều nhưng rõ ràng là vượt trội so với khả
năng của các ngân hàng nội địa. Như vậy, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang
cạnh tranh bằng phương châm không cung cấp nhiều dịch vụ mà cung cấp các dịch vụ
tốt hơn.
 Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
Ngày nay, công nghệ cao đang được áp dụng ngày càng nhiều trong kinh doanh,

đặc biệt trong các tổ chức dịch vụ có liên quan đến việc giao dịch trực tiếp đối với
khách hàng như ngân hàng, môi giới chứng khoán, khách sạn, nhà hàng v.v Có thể
nói, việc phát triển và ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động ngân hàng đã tạo
điều kiện thức đẩy hoạt động kinh doanh của các NHTM tăng trưởng và phát triển,
nâng cao hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh, thu hút nhiều khách hàng giao dịch
và giảm các chi phí liên quan.
Nhờ công nghệ các dịch vụ ngân hàng phát triển đa dạng và phong phú, cho đến
nay các tổ chức tín dụng đã triển khai và phát triển nhiều sản phẩm mới, đặc biệt là
dịch vụ ngân hàng điện tử: internet-banking, mobil-banking, phonebanking, dịch vụ
thẻ, thanh toán điện tử.
Như vậy, sự phát triển của công nghệ hiện đại cho phép các NHTM nâng cao năng
lực cạnh tranh, phát triển bền vững trong điều kiện hội nhập, khi mà các ngân hàng
nước ngoài đã đi trước và có bước phát triển nhanh mạnh về công nghệ và dịch vụ
ngân hàng.
 Các nhà quản trị ngân hàng phải đặt yếu tố công nghệ là ưu tiên hàng đầu
trong chiến lược phát triển, mở rộng ngân hàng, thường xuyên học hỏi, tìm hiểu các
công nghệ ngân hàng hiện đại, chú trọng đầu tư vào hệ thống công nghệ để ứng dụng
trong ngân hàng. Có như thế mới nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, cạnh tranh
được với các ngân hàng trong nước cũng như nước ngoài.
 Những xu hướng thay đổi gần đây trong hệ thống phân phối dịch vụ ngân hàng.
+ Trước đây tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của ngân hàng.
Nhưng hiện nay với sự phát triển của các kênh thu hút vốn khác như thị trường chứng
khoán, bảo hiểm, bất động sản Nếu ngân hàng chỉ đơn thuần thực hiện dịch vụ huy
động vốn để cho vay thì chắc chắn lợi nhuận sẽ bị giảm sút, thị phần bị thu hẹp, và đến
một lúc nào đó sẽ bị phá sản. Cho nên việc các ngân hàng lấn sân kinh doanh các dịch
vụ khác là điều không tránh khỏi như bảo hiểm, cho vay trả góp, kinh doanh hàng hoá
và bất động sản

×