Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần ở việt nam và thực tiễn tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội (MB)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN THỊ NỤ

PHÁP LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN
Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN TẠI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI (MB)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN THỊ NỤ

PHÁP LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN
Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN TẠI NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI (MB)
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Võ Đình Toàn

HÀ NỘI - 2015

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Đoàn Thị Nụ

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục

Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ NGÂN HÀNG THƢƠNG

6

MẠI CỔ PHẦN, NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƢỜNG
CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ
PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN

1.1

Một số vấn đề pháp lý về ngân hàng thương mại cổ phần và

6

niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
1.1.1. Nhận diện về ngân hàng thương mại

6

1.1.2. Hoạt động của ngân hàng thương mại

9

1.1.3. Tổng quan về niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán


11

của ngân hàng thương mại cổ phần
1.2.

Pháp luật về niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương mại

19

cổ phần ở Việt Nam
1.2.1. Các chủ thể có liên quan trong quá trình niêm yết cổ phiếu của

20

ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán
1.2.2. Điều kiện niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ

21

phần ở Việt Nam
1.2.3. Trình tự niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần

24

ở Việt Nam
1.2.4

Những rủi ro khi niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương

34


mại cổ phần
Chương 2:

THỰC TIỄN NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG

38

THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI

2.1.

Tổng quan về tổ chức và hoạt động của MB

4

38


2.1.1. Cơ cấu tổ chức của MB

39

2.1.2. Mạng lưới hoạt động của MB

42

2.1.3. Dịch vụ và các hoạt động kinh doanh

43


2.2.

46

Thực tiễn quá trình niêm yết cổ phiếu của MB

2.2.1. Đánh giá về các thuận lợi và khó khăn của MB khi niêm yết

46

2.2.2. Trình tự, thủ tục niêm yết cổ phiếu MB

53

2.2.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của MB sau khi niêm yết

54

Chương 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP

63

LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA VIỆC NIÊM YẾT CỔ PHIẾU ĐỐI VỚI CÁC NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ MB

3.1.


Những định hướng chung của việc hoàn thiện pháp luật về

63

niêm yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần
3.1.1. Hoàn thiện quy định về niêm yết cổ phiếu của ngân hàng

63

3.1.2. Hướng dẫn chi tiết các vấn đề tại Luật Các tổ chức tín dụng

66

về niêm yết của ngân hàng thương mại cổ phần
3.1.3. Quy định về nhà đầu tư nước ngoài

67

3.1.4. Hướng dẫn về dánh giá giá trị thương hiệu, giá trị ngân hàng

70

thương mại cổ phần khi niêm trên thị trường chứng khoán
3.2.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về niêm yết cổ phiếu của

72

MB trên thị trường chứng khoán

3.2.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức, quản trị và điều hành đáp ứng

72

quy định pháp luật về quản trị công ty niêm yết
3.2.2. Nâng cao năng lực tài chính và quản lý nguồn vốn theo yêu

74

cầu tại Nghị định 57/2012/NĐ-CP về quản lý tài chính của tổ
chức tín dụng
3.2.3. Thiết lập các quy trình, thủ tục kiểm soát rủi ro thị trường
theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và
thông lệ quốc tế

5

75


3.2.4. Thành lập Ban xử lý thông tin để thực hiện quản lý thông tin,

76

thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định pháp luật
về chứng khoán
3.2.5. Nâng cao công tác quản lý cổ đông và quan hệ nhà đầu tư

77


theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
3.2.6. Các giải pháp cụ thể khác

78

KẾT LUẬN

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

83

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HĐQT

: Hội đồng quản trị

MB

: Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước


NHTM

: Ngân hàng thương mại

NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
TTCK

: Thị trường chứng khoán

7


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Việt Nam ra đời
và phát triển là kết quả của công cuộc đổi mới hệ thống ngân hàng Việt Nam
sau những năm 1990. Có thể nói rằng, sự xuất hiện của các NHTMCP là nhân
tố để tăng tính cạnh tranh trên thị trường tài chính ngân hàng, góp phần quan
trọng trong việc tập trung nguồn vốn của nền kinh tế vào một hệ thống tài
chính trung gian chuyên nghiệp và lành mạnh; là công cụ phục vụ hiệu quả
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước theo đúng định
hướng của Đảng và Nhà nước về việc xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các NHTMCP ở Việt Nam đã và đang tiến hành đổi
mới, tái cơ cấu, không ngừng cải tổ để củng cố năng lực quản lý và hoạt động
của mình; đồng thời luôn nỗ lực tìm chỗ đứng trong bối cảnh có rất nhiều
cạnh tranh khốc liệt. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, thế giới và trong
nước đã chứng kiến sự đổ vỡ, sáp nhập, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của
hàng loạt các ngân hàng tên tuổi và có bề dầy hoạt động hàng trăm năm như
Lehman Brothers - định chế tài chính đã từng là ngân hàng lớn thứ tư của Mỹ
với 158 năm tuổi phá sản hôm 15/9/2008. Tiếp theo đó, hàng loạt ngân hàng

khác cũng phải phải tiến hành sáp nhập và thậm chí tuyên bố phá sản như:
Merrill Lynch, Countrywide Financial, Bear Stearns, Ameribank [34]. Đối với
Việt Nam, cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng là một quy luật
kinh tế khách quan, tồn tại tất yếu khi chúng ta chủ trương phát triển hệ thống
ngân hàng thương mại (NHTM) ổn định, vững chắc, đáp ứng được đòi hỏi của
nền kinh tế thị trường trong hoàn cảnh hiện nay và thời gian sắp tới.
Đứng trước áp lực cạnh tranh như vậy, trong khi năng lực tài chính
của các NHTM Việt Nam còn nhỏ bé, năng lực cạnh tranh thấp, hệ thống
quản trị điều hành còn nhiều bất cập và chưa đáp ứng được yêu cầu, thông lệ

8


quản trị ngân hàng tiên tiến, hiện đại trên thế giới. Do vậy, các ngân hàng Việt
Nam sẽ khó đứng vững và phát triển trong thời kỳ hội nhập nếu không có
chiến lược phát triển phát triển phù hợp; đồng thời bộ máy quản trị, điều hành
ngân hàng phải đối mới, phải có các giải pháp để tăng cường, nâng cao khả
năng hoạt động, quản trị rủi ro để phát triển bền vững và tiệm cận với các quy
định về quản trị ngân hàng hiện đại trên thế giới. Ngoài ra, việc tăng giới hạn
sở hữu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài vào các NHTMCP Việt Nam
kéo theo hệ quả tất yếu của xu hướng thâu tóm, can thiệp sâu hơn vào bộ máy
tổ chức, quản lý và điều hành tại các Ngân hàng trong nước. Vấn đề đặt ra là
làm thế nào để nhanh chóng nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh
của các NHTMCP ở Việt Nam là một đòi hỏi cấp thiết để đủ khả năng duy trì
và phát triển NHTMCP trong cuộc chiến cạnh tranh "không cân sức" với các
định chế tài chính nước ngoài đang đầu tư mạnh mẽ vào Việt Nam trong giai
đoạn tới.
Nhận thức sâu sắc vấn đề làm thế nào để tồn tại và phát triển, các
NHTMCP Việt Nam đã chủ động giải bài toán hội nhập bằng cách nâng cao
tiềm lực tài chính, đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ ngân hàng, tái cơ cấu bộ

máy tổ chức hoạt động, chú trọng phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng, xây
dựng khung quản trị rủi ro hiệu quả theo thông lệ quốc tế để nâng cao năng
lực cạnh tranh, năng lực hoạt động, tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, tiến
trình tăng năng lực tài chính của các NHTMCP theo cách truyền thống diễn ra
chậm chạp trong khi tiến trình mở cửa thị trường tài chính ngân hàng đã diễn
ra và áp lực cạnh tranh mỗi ngày một lớn. Do vậy, để tăng nhanh năng lực tài
chính của các NHTMCP thì bài toán đầu tiên phải kể đến là làm thế nào để
huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Đồng
nghĩa với đó là vấn đề niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (TTCK)
của các NHTMCP cần phải được quan tâm hàng đầu vì tính ưu việt của huy
động vốn qua TTCK chính là một sự lựa chọn tốt nhất. Chính vì vậy, niêm yết

9


trên TTCK của các NHTMCP Việt Nam là phương án khả thi để nâng cao
năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh của NHTMCP. Tuy nhiên, việc niêm
yết cổ phiếu của các ngân hàng cần được nghiên cứu, cân nhắc một cách kỹ
lưỡng, bởi lẽ, nó không chỉ ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng
mà còn ảnh hưởng tới hiệu quả của TTCK nói chung cũng như sự an toàn cho
hệ thống NHTMCP nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề niêm yết cổ phiếu của các NHTM nói chung và niêm yết cổ
phiếu của các NHTM cổ phần nói riêng đã được đề cập và thu hút sự chú ý của
nhiều nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và
những người quan tâm đến sự phát triển TTCK tại Việt Nam. Tuy nhiên, một số
đề tài nghiên cứu, bài viết đăng trên các báo chuyên ngành tiếp cận vấn đề này
trên góc độ đánh giá chung và góc độ quản lý kinh tế. Vì thế, việc phân tích
các quy định pháp luật và thực tiễn của việc niêm yết cổ phiếu của NHTMCP
trên TTCK vẫn là rất cần thiết vì nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc

nâng cao năng lực hoạt động của các NHTMCP trong bối cảnh hiện nay.
Ngoài ra, từ thực tế phát sinh trong quá trình công tác tại NHTMCP
Quân đội, tôi đã thu được những kiến thức thực tế bổ ích về hoạt động của
ngân hàng, trong đó tôi đặc biệt quan tâm tới chế định pháp lý về niêm yết cổ
phiếu của Ngân hàng trên Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh; diễn biến quá trình hoạt động trước và sau niêm yết của NHTMCP
Quân đội và đề xuất các giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động niêm
yết tại NHTMCP Quân đội.
Vấn đề niêm yết cổ phiếu của NHTM trên TTCK được một số tác giả
nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ "Thông tin và minh bạch thông tin trên thị
trường chứng khoán" của tác giả Lê Trường Vinh; Luận văn thạc sĩ "Một số
giải pháp nhằm đẩy mạnh việc niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương
mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thị Thanh

10


Huyền; Luận án tiến sĩ "Hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt
Nam" của tác giả Lê Thị Hương Lan…
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về NHTM,
NHTMCP và TTCK, pháp luật về niêm yết chứng khoán của NHTMCP ở
Việt Nam và MB, luận văn làm sáng tỏ cơ sở pháp lý cho việc niêm yết của
NHTMCP nói chung, của NHTMCP Quân đội nói riêng trên TTCK và đề
xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTMCP nói chung
và của MB khi niêm yết trên TTCK. Theo đó, mục tiêu nghiên cứu cụ thể
được xác định là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về NHTM và TTCK, sự điều chỉnh
của pháp luật đối với hoạt động niêm yết cổ phiếu của NHTMCP tại Việt Nam;
- Thực tiễn và những vướng mắc, bất cập về pháp lý phát sinh trong

quá trình niêm yết cổ phiếu của NHTMCP Quân đội tại Sở giao dịch chứng
khoán Thành phố Hồ Chí Minh;
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh việc niêm
yết các NHTMCP trên TTCK Việt Nam nói chung và của NHTMCP Quân đội
nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là các văn bản quy phạm pháp luật về NHTMCP
liên quan đến niêm yết cổ phiếu trên TTCK, tình hình hoạt động của các
NHTMCP niêm yết tại Việt Nam, tình hình hoạt động của NHTMCP Quân
đội, các tư liệu thực tế có liên quan.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề pháp lý và thực
tiễn của hoạt động niêm yết cổ phiếu của NHTMCP trên TTCK Việt Nam;
thực tiễn hoạt động niêm yết của NHTMCP Quân đội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, phương pháp thu thập và tổng hợp thông tin, so sánh,

11


phân tích, đối chiếu… để làm sáng tỏ các căn cứ, cơ sở khoa học của vấn đề
nghiên cứu; từ đó rút ra những vấn đề còn tồn tại trong hệ thống pháp luật và
đưa ra những giải pháp để hoàn thiện. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả vận
dụng các quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước để
khái quát, hệ thống và khẳng định các kết quả nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về niêm yết cổ phiếu
của NHTMCP; đánh giá vai trò của pháp luật đối với hoạt động niêm yết cổ
phiếu của NHTMCP trên TTCK; đánh giá đặc thù của việc niêm yết cổ phiếu
của NHTMCP so với các công ty cổ phần hoạt động trong các ngành nghề

kinh doanh khác.
- Luận văn đã đề xuất, kiến nghị một số vấn đề có ý nghĩa tham khảo
về hoàn thiện Luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn các nội dung liên quan
đến niêm yết cổ phiếu của NHTMCP, hướng dẫn định giá thương hiệu và mô
hình quản trị của NHTMCP khi thực hiện niêm yết và các giải pháp cụ thể để
nâng cao hoạt động của MB.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về ngân hàng thương mại cổ phần,
niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán và pháp luật về niêm yết cổ
phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần.
Chương 2: Thực tiễn niêm yết cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ
phần quân đội.
Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về niêm
yết cổ phiếu của ngân hàng thương mại cổ phần nhằm nâng cao hiệu quả của
việc niêm yết cổ phiếu đối với các ngân hàng thương mại cổ phần và MB.

12


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN,
NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ
PHẦN VÀ NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN THỊ TRƢỜNG CHỨNG KHOÁN

1.1.1. Nhận diện về ngân hàng thƣơng mại

Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc đặc biệt,
điều này thể hiện ở mục tiêu và hoạt động của NHTM là thực hiện hoạt động
kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ liên quan đến hoạt động tài chính
tiền tệ ngân hàng theo quy định của pháp luật, phục vụ các doanh nghiệp và
các thành phần kinh tế khác vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các
mục tiêu kinh tế của Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của NHTM được thực
hiện theo các quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Ngân hàng Nhà
nước (NHNN) và các quy định hiện hành của NHNN Việt Nam.
Ngân hàng thương mại đóng vai trò là một định chế tài chính trung
gian, là nhân tố quan trọng trong việc khai thông nguồn vốn tiết kiệm đáp ứng
nhu cầu đầu tư, tiêu dùng của các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Đồng
thời nó cũng giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho nền kinh tế vận
hành hữu hiệu thông qua các kênh huy động vốn từ dân cư và phân phối lại
nguồn vốn đó thông qua các hình thức cấp tín dụng theo quy định của pháp luật.
Theo Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 16 tháng 6 năm 2010: "Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng
được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận" [35].

13


Qua các khái niệm trên chúng ta có thể rút một số đặc trưng của
NHTM như sau:
- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp có địa vị pháp
lý bình đẳng như tất cả các loại hình doanh nghiệp khác, có ngành nghề kinh
doanh chính là kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng, hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận. NHTM là một pháp nhân độc lập, tổ chức bộ máy tổ chức chặt
chẽ, có hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro, hệ thống các

đơn vị nghiệp vụ, đơn vị kinh doanh (chi nhánh và phòng giao dịch) đáp ứng
các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Tính
chất "đặc biệt" NHTM thể hiện các mặt sau: Lĩnh vực hoạt động kinh doanh
của NHTM là tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng - đây được coi là lĩnh
vực đặc biệt vì nó liên quan trực tiếp đến tất cả các ngành, đến mọi mặt của
đời sống kinh tế xã hội, được ví là "mạch máu của nền kinh tế", là bức tranh
phản ánh dòng vốn của bất kỳ đất nước nào. Mặt khác, lĩnh vực tiền tệ ngân
hàng là lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm, đòi hỏi luôn có sự thận trọng trong việc
điều hành hoạt để tránh gây thiệt hại cho nền kinh tế. NHTM là một doanh
nghiệp nhưng nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để kinh doanh chủ yếu là
nguồn vốn huy động từ bên ngoài, vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng rất
thấp trong tổng nguồn vốn kinh doanh.
- Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, bản chất "trung
gian tài chính" của NHTM thể hiện ở việc NHTM là tổ chức thực hiện việc
"đi vay để cho vay", nghĩa là NHTM sử dụng nguồn vốn huy động thông qua
các kênh huy động và tái sử dụng nguồn vốn đó để thực hiện cấp tín dụng,
giải ngân đến các đối tượng có nhu cầu vay vốn và đáp ứng được điều kiện do
NHTM đặt ra trên nguyên tắc bảo toàn nguồn vốn, có lãi và đảm bảo tuân thủ
quy định pháp luật và hướng dẫn của NHNN về nguyên tắc cho vay, thẩm
định tiền vay.

14


Ngân hàng thương mại là một định chế tài chính trung gian có vị trí
quan trọng nhất trong việc khai thông các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư
của các chủ thể trong nền kinh tế, đồng thời nó cũng có vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo cho nền kinh tế vận hành nhịp nhàng, hữu hiệu. NHTM
hoạt động theo định chế tài chính tổng hợp và là thành viên chủ yếu tham gia

vào hoạt động của thị trường tiền tệ cũng như thị trường vốn.
Chức năng trung gian tài chính của NHTM bao gồm chức năng trung
gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán cho các tổ chức, cá nhân
trong nền kinh tế. Chức năng trung gian tín dụng của NHTM là việc ngân
hàng làm cầu nối giữa người có vốn và người có nhu cầu sử dụng vốn, hay
nói các khác NHTM đóng vai trò vừa là chủ thể đi vay, vừa là chủ thể cho vay
trong nền kinh tế [30].
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán khi
ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng như trích một khoản tiền
trên tài khoản tiền gửi để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào
một khoản tiền gửi của khách hàng từ tiền bán hàng hóa hoặc các khoản phải
thu khác theo lệnh của chủ tài khoản hoặc người được ủy quyền để làm tăng
số dư tài khoản thanh toán. Hiện nay, NHTM nắm giữ phần lớn các khoản chi
trả, thanh toán về hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp và một bộ phận
dân cư.
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và thanh toán, NHTM có
điều kiện thuận lợi về thông tin, quan hệ với các doanh nghiệp; mặt khác đội
ngũ nhân viên ngân hàng có chuyên môn sâu sắc trong lĩnh vực tài chính, đầu
tư, quản lý dòng tiền nên từ đó có khả năng làm tư vấn tài chính, tư vấn đầu
tư, đại lý phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, đại lý bảo hiểm, ngân
hàng lưu ký chứng khoán... NHTM cũng có thể tham gia trực tiếp vào thị
trường tiền tệ thông qua việc mua bán các loại chứng khoán hoặc đơn thuần
làm dịch vụ kinh doanh tiền tệ để thu lợi nhuận. NHTM cũng sử dụng các

15


nguồn lực để tạo ra sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới, thỏa mãn nhu cầu dịch
vụ ngân hàng của người dân. Hiện nay, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng rất
đa dạng, đáp ứng phần lớn nhu cầu của người dân, doanh nghiệp thông qua

các kênh cung cấp rất đa dạng như sản phẩm truyền thống, sản phẩm ngân
hàng điện tử.
1.1.2. Hoạt động của ngân hàng thƣơng mại
Theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12, nội
dung và phạm vi hoạt động chính của ngân hàng của NHTM như sau:
- Nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và
các loại tiền gửi khác. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài. Như vậy, hoạt động nhận
tiền gửi của NHTM bản chất là một kênh huy động truyền thống, qua đó thu
hút được lượng tiền vốn dư thừa trong dân cư và doanh nghiệp. Ngoài ra,
thông qua việc phát hành chứng chỉ tiền gửi và các loại chứng khoán, NHTM
cũng thực hiện được chức năng huy động vốn; tuy nhiên đây là các kênh huy
động vốn mang tính hiện đại và linh động hơn rất nhiều so với hoạt động
nhận tiền gửi truyền thống.
- Cấp tín dụng dưới các hình thức: Cho vay; chiết khấu, tái chiết khấu
công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác; bảo lãnh ngân hàng; phát
hành thẻ tín dụng; bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với
các ngân hàng được phép thực hiện thanh toán quốc tế; các hình thức cấp tín
dụng khác sau khi được NHNN chấp thuận. Như vậy, bản chất của hoạt động
cấp tín dụng của NHTM là sự phân phối lại nguồn vốn cho các đối tượng có
nhu cầu về tín dụng, tạo nguồn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trở lại của
nền kinh tế.
- Mở tài khoản thanh toán cho khách hàng; cung ứng các phương tiện
thanh toán; cung ứng các dịch vụ thanh toán; tổ chức và tham gia các hệ
thống thanh toán.

16


- Ngân hàng thương mại được mở tài khoản tiền gửi, tài khoản thanh

toán ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về ngoại hối.
- Góp vốn, mua cổ phần: NHTM phải thành lập hoặc mua lại công ty
con, công ty liên kết để thực hiện hoạt động kinh doanh sau đây: Bảo lãnh
phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán; quản lý, phân phối chứng chỉ
quỹ đầu tư chứng khoán; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và mua, bán
cổ phiếu; cho thuê tài chính; bảo hiểm. NHTM được thành lập, mua lại công
ty con, công ty liên kết hoạt động trong lĩnh vực quản lý tài sản bảo đảm, kiều
hối, kinh doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín
dụng tiêu dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng. Như vậy,
hoạt động góp vốn, mua cổ phần của NHTM được quy định khá chặt chẽ.
Thông thường các NHTM chỉ được góp vốn, mua cổ phần trực tiếp trong các
lĩnh vực có liên quan trực tiếp tới hoạt động ngân hàng như kiều hối, vàng,
bao thanh toán, tín dụng tiêu dùng... còn đối với các hoạt động khác như
chứng khoán, quản lý quỹ, cho thuê tài chính, bảo hiểm thì NHTM bắt buộc
phải thực hiện thông qua công ty con, công ty liên kết của NHTM.
- Tham gia thị trường tiền tệ: NHTM được tham gia đấu thầu tín phiếu
Kho bạc, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu
Kho bạc, tín phiếu NHNN và các giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tệ.
- Kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối và sản phẩm phái sinh: Sau
khi được NHNN chấp thuận bằng văn bản, NHTM được kinh doanh, cung ứng
dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản phẩm sau đây:
Ngoại hối; phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính khác.
- Nghiệp vụ ủy thác và đại lý: NHTM được quyền ủy thác, nhận ủy
thác, đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kinh doanh bảo
hiểm, quản lý tài sản theo quy định của NHNN.
- Các hoạt động kinh doanh khác của NHTM: Dịch vụ quản lý tiền
mặt, tư vấn ngân hàng, tài chính; các dịch vụ bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két

17



an toàn; tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn mua, bán, hợp nhất, sáp nhập
doanh nghiệp và tư vấn đầu tư; mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu
doanh nghiệp; dịch vụ môi giới tiền tệ; lưu ký chứng khoán, kinh doanh vàng
và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến hoạt động ngân hàng sau khi
được NHNN chấp thuận bằng văn bản.
Như vậy, NHNN với vai trò là cơ quan quản lý và giám sát an toàn
hoạt động của các NHTM đã thực hiện kiểm soát chặt chẽ đối với các hoạt
động kinh doanh khác của NHTM, theo đó chỉ khi được NHNN chấp thuận
bằng văn bản thì các NHTM mới được tiến hành các hoạt động kinh doanh
khác. Việc quản lý và giám sát chặt chẽ này nhằm đảm bảo và duy trì sự hoạt
động an toàn của các NHTM nhằm củng cố chức năng chính là định chế tài
chính trung gian cho nền kinh tế.
1.1.3. Tổng quan về niêm yết cổ phiếu trên thị trƣờng chứng khoán
của ngân hàng thƣơng mại cổ phần
1.1.3.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động
giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến
hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ
những tổ chức phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán
lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp.
Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK chỉ là nơi diễn ra các hoạt động
trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ
thể nắm giữ các loại chứng khoán thông qua hệ thống trung gian là các công
ty chứng khoán. Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia
thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan
đến chứng khoán.
Chỉ số chứng khoán tăng hay giảm, giá chứng khoán lên hay xuống
phụ thuộc vào cung cầu thị trường và bối cảnh chung của nền kinh tế. Vì thế,
có thể nói sự chuyển động của giá cổ phiếu có thể là một đồng hồ dự báo


18


khuynh hướng chung của nền kinh tế. Sự phát triển TTCK có tính thanh
khoản và chiều sâu còn mang lại cho các quốc gia sự ổn định cao hơn của hệ
thống tài chính. TTCK được gọi là "hàn thử biểu" của nền kinh tế, tính thanh
khoản của thị trưởng thể hiện ở khối lượng và giá trị giao dịch tốt thì bức
tranh thị trường vốn thông qua kênh này sẽ dồi dào; nghĩa là nguồn vốn tái
đầu tư cho các mục đích kinh doanh của các doanh nghiệp sau mỗi đợt chào
bán, giao dịch sẽ đem lại hiệu quả tích cực.
Như vậy, quan niệm đầy đủ, rõ ràng và phù hợp với sự phát triển
chung của TTCK hiện nay như sau: TTCK là nơi diễn ra các giao dịch mua
bán, trao đổi các loại chứng khoán.
Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ,
nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức
phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa
các loại chứng khoán, tùy theo tính chất sở hữu của chúng. Các quan hệ mua
bán trao đổi chứng khoán làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán và thực
chất đây là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư
bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán không giống như thị trường các loại hàng hóa
thông thường, hàng hóa trên TTCK gắn với quyền của người sở hữu nó. Như
vậy, có thể nói:
Bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện
mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó giá cả của
chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn
đầu tư. Thị trường chứng khoán chính là hình thức phát triển bậc
cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa [30].
1.1.3.2. Niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán

Niêm yết chứng khoán được coi là quá trình "định danh" các chứng
khoán đáp ứng đủ tiêu chuẩn được giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán.
Cụ thể là việc đưa các chứng khoán có đủ tiêu chuẩn vào đăng ký và giao dịch

19


tại thị trường giao dịch tập trung (là các Sở giao dịch chứng khoán). Cụ thể,
đây là quá trình Sở giao dịch chứng khoán xem xét và chấp thuận cho công ty
phát hành có chứng khoán được phép niêm yết và giao dịch trên Sở giao dịch
chứng khoán nếu công ty đó đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn, điều kiện mà Sở
giao dịch chứng khoán đề ra, phù hợp quy định pháp luật về chứng khoán.
Hoạt động niêm yết đòi hỏi phải đảm bảo sự tin cậy đối với nhà đầu
tư. Các công ty xin niêm yết phải có đáp ứng được các điều kiện để niêm yết
và công khai thông tin, hồ sơ doanh nghiệp đối với nhà đầu tư. Điều kiện này
được quy định cụ thể trong quy chế về niêm yết chứng khoán do Sở giao dịch
chứng khoán ban hành. Yêu cầu quan trọng nhất trong vấn đề niêm yết là yêu
cầu về công bố thông tin của công ty. Các nhà đầu tư phải nắm được đầy đủ
các thông tin và có cơ hội nắm bắt thông tin do công ty phát hành, đảm bảo sự
công bằng trong tiếp nhận thông tin, kể cả các thông tin mang tính chất định
kỳ hoặc thông tin bất thường có tác động đến giá cả, khối lượng chứng khoán
giao dịch cũng như tình hình hoạt động của tổ chức phát hành.
Mục đích cơ bản của niêm yết cổ phiếu là nhằm bảo vệ quyền lợi của
nhà đầu tư và đảm bảo duy trì sự hoạt động lành mạnh của TTCK. Điều quan
tâm nhất của nhà đầu tư khi quyết định tham gia mua bán chứng khoán của tổ
chức phát hành là đó phải là chứng khoán thực, chứng khoán ấy phải đảm bảo
việc chi trả cổ tức và quyền lợi khác cho nhà đầu tư. Việc niêm yết cổ phiếu
cũng nhằm thiết lập mối quan hệ hợp đồng giữa Sở giao dịch chứng khoán
với tổ chức phát hành về nghĩa vụ cung cấp thông tin ra công chúng những
thông tin có liên quan đến cổ phiếu và công ty đó. Sở giao dịch chứng khoán

đề ra các quy định, quy chế niêm yết, quy chế giao dịch, thanh toán, bù trừ...
cũng như đưa ra các nguyên tắc công khai thông tin nhằm đảm bảo tính công
khai, minh bạch và công bằng cho mọi nhà đầu tư trên TTCK.
Có thể hiểu, niêm yết cổ phiếu là việc đưa các cổ phiếu có đủ điều
kiện vào giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán theo các tiêu chuẩn, trình tự,
quy định mà Sở giao dịch chứng khoán ban hành.

20


1.1.3.3. Sự cần thiết và vai trò của pháp luật về niêm yết cổ phiếu
của ngân hàng thương mại cổ phần
Một là, việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật đối với
hoạt động niêm yết cổ phiếu của NHTMCP có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc tạo hành lang pháp lý cho hoạt động niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng
trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời, việc pháp luật điều chỉnh đối với hoạt động
này sẽ giúp cho thị trường chứng khoán nói chung, hoạt động niêm yết cổ phiếu
của NHTMCP nói riêng được công khai, minh bạch, công bằng và hiệu quả.
Hai là, xuất phát từ thực tiễn hoạt động và đặc điểm của các NHTMCP
Việt nam hiện nay nhỏ về quy mô, hạn chế trong tổ chức và điều hành cũng
như trong chất lượng dịch vụ. Cổ phiếu của các NHTMCP đang được giao
dịch trên thị trường tự do (OTC) là trở ngại đáng kể cho việc hoàn thiện chính
sách tài chính của ngân hàng như: Giá trị cổ phiếu chưa phản ánh chính xác
giá trị của ngân hàng, tính thanh khoản kém, đồng thời, không hỗ trợ cho
ngân hàng trong hoạt động quản trị điều hành. Điều này sẽ được khắc phục
đáng kể nếu như cổ phiếu của ngân hàng được niêm yết trên thị trường tập
trung. Như vậy, việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động niêm yết cổ phiếu
của NHTMCP có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao tính minh bạch, hiệu
quả, an toàn trong hoạt động của các NHTMCP hiện nay.
Ba là, hoạt động niêm yết cổ phiếu của NHTMCP có tính ảnh hưởng

và tác động đến hoạt động của TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung. Do
đó, cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với việc niêm yết cổ phiếu của
NHTMCP do bản chất pháp lý của việc niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng
là hình thức huy động vốn, qua đó tăng năng lực tài chính và năng lực hoạt động
của mình. NHTMCP là doanh nghiệp đặc biệt và sự tham gia của NHTMCP
trên thị trường chứng khoán bên cạnh vai trò là nhà phát hành thì còn vai trò
là một trung gian tài chính đặc biệt. Do đó, pháp luật về hoạt động niêm yết
cổ phiếu của NHTMCP cần được nghiên cứu, cân nhắc một cách kỹ lưỡng,

21


bởi lẽ, nó không chỉ ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng mà còn
ảnh hưởng tới hiệu quả của thị trường chứng khoán và an toàn cho hệ thống
ngân hàng. Việc nghiên cứu, điều chỉnh pháp luật đối với việc niêm yết cổ
phiếu của NHTMCP Việt nam là yêu cầu về cả phương diện lý luận và thực
tiễn hiện nay.

1.1.3.4. Bả n chấ t, đ ặ c đ iể m và vai trò củ a niêm yế t
cổ phiế u củ a ngân hàng thương mại cổ phần
Nếu như tiền gửi tiết kiệm là một trong các kênh huy động vốn truyền
thống thì TTCK được coi là một kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp
niêm yết đồng thời là kênh đầu tư vốn của các nhà đầu tư bên cạnh hình thức
gửi tiết kiệm truyền thống. Hiện nay, NHTMCP thực chất là một doanh
nghiệp hoạt động theo mô hình công ty cổ phần được quy định tại Luật doanh
nghiệp 2005. Với đặc tính là một công ty cổ phần, các NHTMCP không thể
bỏ qua khả năng huy động tăng vốn thông qua TTCK. Bên cạnh đó, để tạo ra
sức cạnh tranh cho cổ phiếu của mình, tăng cao tính thanh khoản cho cổ phiếu
cũng như linh hoạt và giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất, việc niêm yết cổ
phiếu của ngân hàng trên TTCK trở thành một yêu cầu cấp thiết.

Niêm yết cổ phiếu của NHTMCP là việc đưa cổ phiếu của NHTMCP
đủ điều kiện vào giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán. Chủ thể thực hiện
niêm yết đồng thời là chủ thể phát hành cổ phiếu là các NHTMCP hay còn
gọi là công ty niêm yết.
Niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, NHTMCP thực hiện niêm yết phải đáp ứng đồng thời điều
kiện theo quy định pháp luật về chứng khoán và ngân hàng với các chỉ tiêu tài
chính cụ thể
Tỷ số tài chính là các tỷ số được cấu trúc và tính toán từ dữ liệu các
báo cáo tài chính của NHTMCP nhằm phản ánh và đánh giá một đặc tính nào
đó trong hoạt động tài chính của ngân hàng.

22


Để thực hiện niêm yết, ngoài việc đáp ứng các quy định pháp luật về
chứng khoán, các NHTMCP phải đảm bảo tuân thủ các điều kiện theo pháp
luật về ngân hàng; trong đó các NHTMCP phải thỏa mãn các chỉ tiêu tài chính
do NHNN Việt Nam quy định như: Đảm bảo về thời gian hoạt động tối thiểu,
về vốn điều lệ, về bảo đảm an toàn trong hoạt động; về phân loại nợ và trích
lập dự phòng rủi ro…
Việc quy định các NHTMCP phải đảm bảo các điều kiện này là cần
thiết do ngân hàng là lĩnh vực đặc thù, hoạt động ngân hàng có tính ảnh hưởng
dây chuyền và tác động trực tiếp tới hoạt động của các ngành nghề khác trong
nền kinh tế.
Thứ hai, thủ tục, trình tự thực hiện niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP
phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý trực tiếp là NHNN Việt Nam
Theo đó, các NHTMCP thực hiện niêm yết phải tuân thủ quy trình,
thủ tục chấp thuận niêm yết trên TTCK theo quy định của NHNN Việt Nam.
Sau khi văn bản chấp thuận của NHNN đối với việc tổ chức tín dụng

cổ phần niêm yết trên TTCK có hiệu lực, NHTMCP phải thực hiện đăng ký
niêm yết trên TTCK theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Thứ ba, NHTMCP có thể tham gia trên TTCK với hai tư cách khác
nhau, đó là tham gia với tư cách là một doanh nghiệp và tham gia với tư cách
là một trung gian tài chính.
Với tư cách là một doanh nghiệp, NHTMCP huy động vốn thông qua
việc phát hành chứng khoán trên TTCK; đầu tư và kinh doanh chứng khoán
thu lợi nhuận. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải được cơ quan
quản lý nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép hoặc chấp thuận. Sau khi
phát hành trên thị trường sơ cấp, chứng khoán sẽ được giao dịch tại Sở giao
dịch chứng khoán khi đã đáp ứng được các quy định về niêm yết chứng khoán.
Với tư cách là một trung gian tài chính, NHTMCP thực hiện các dịch
vụ về chứng khoán cho khách hàng nhằm thu phí dịch vụ như: dịch vụ bảo

23


lãnh phát hành chứng khoán cho khách hàng; dịch vụ môi giới chứng khoán;
nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán cho khách hàng; các nghiệp vụ phụ trợ khác (lưu ký chứng khoán, quản
lý thu nhập khách hàng, nghiệp vụ tín dụng; nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư).
Vai trò của niêm yết cổ phiếu của NHTMCP trên TTCK thể hiện ở
các nội dung cơ bản như sau:
Một là, niêm yết cổ phiếu trên TTCK giúp NHTMCP huy động lượng
vốn lớn khi có nhu cầu
Nguồn vốn kinh doanh luôn được xem nguồn tài chính quan trọng để
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh ổn định, bền vững của chính bản thân
NHTM. Nguồn vốn kinh doanh cũng là nguồn tài chính quan trọng để doanh
nghiệp phát triển các kênh phân phối, tăng thị phần và đầu tư tài chính. Nhất
là trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn như hiện nay, một thực tế đã chứng

minh rằng: NHTM nào vốn ít, quy mô nhỏ thì cơ hội vượt quá khủng hoảng
và mở rộng mạng lưới hoạt động sẽ khó khăn hơn rất nhiều các NHTM dồi
dào về nguồn vốn. Do vậy, có thể nói rằng: nguồn vốn được coi là tiền đề
khơi thông các hoạt động kinh doanh của NHTM, là thước đo hiệu quả và khả
năng thanh khoản cho các ngân hàng.
Ngân hàng có cổ phiếu niêm yết sẽ dễ dàng trong huy động vốn dài
hạn do khi tham gia niêm yết trên TTCK do NHTMCP có thể thu hút vốn dài
hạn một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng từ việc phát hành cổ phiếu dựa
trên tính thanh khoản cao và uy tín trên thị trường. Các ngân hàng không phải
thanh toán lãi vay cũng như phải trả vốn gốc giống như việc vay nợ truyền
thống thông qua kênh huy động vốn như nhận tiền gửi, phát hành trái phiếu.
Các NHTMCP niêm yết từ đó sẽ rất chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn
huy động được cho mục tiêu kinh doanh hàng năm, chiến lược và mục tiêu
kinh doanh dài hạn của mình. Điều này cũng được coi là yếu tố quan trọng
nhất khi các NHTMCP quyết định niêm yết cổ phiếu trên TTCK. Đặc biệt là

24


trong điều kiện hiện nay, áp lực tăng vốn đối với các Ngân hàng đang luôn là
vấn đề then chốt để các Ngân hàng tăng cường năng lực hoạt động, mở rộng
trụ sở, phát triển sản phẩm dịch vụ, tăng cường năng lực đầu tư tài chính.
Hai là, tham gia niêm yết cổ phiếu giúp nâng cao tính thanh khoản
cho cổ phiếu của NHTM
Nhờ có TTCK, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ
sở hữu thành tiền mặt hoặc mua bán sang các loại chứng khoán khác khi họ
muốn. Có thể nói rằng, khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp
dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư. Khi thanh khoản tăng, dòng vốn đầu
tư đổ vào thị trường trở nên mạnh mẽ hơn, nghĩa là tính thanh khoản chính là
yếu tố thu hút các nhà đầu tư gia nhập vào thị trường này. Ngược lại, khi thị

trường hoạt động càng năng động và hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao
tính thanh khoản của các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường.
Khi cổ phiếu các NHTMCP được niêm yết, chúng có thể được nâng
cao tính thanh khoản, mở rộng phạm vi chấp nhận làm tài sản bảo đảm và dễ
dàng được sử dụng phục vụ cho các mục đích về tài chính, thừa kế và các
mục đích khác. Hơn nữa, các cổ phiếu được niêm yết có thể được mua với số
lượng rất nhỏ, do đó các nhà đầu tư có vốn nhỏ vẫn có thể dễ dàng trở thành
cổ đông của NHTMCP.
Ba là, quảng bá thương hiệu NHTMCP niêm yết
Niêm yết chứng khoán là một quá trình khó khăn, NHTM phải đáp
ứng được những điều kiện chặt chẽ về mặt tài chính, hiệu quả sản xuất kinh
doanh cũng như cơ cấu tổ chức theo quy định. Thực tế cho thấy, các NHTM
đã đăng ký niêm yết hiện nay đều là các ngân hàng có quy mô vốn điều lệ
cao, hoạt động kinh doanh tốt, khả năng quản lý, kiểm soát rủi ro và phát triển
sản phẩm dịch vụ đa dạng, thuộc nhóm ngân hàng được đánh giá xếp hạng tín
nhiệm tốt của NHNN. Thông qua việc niêm yết, hình ảnh của các NHTMCP
trong các nhà đầu tư, cổ đông và khách hàng sẽ được "tô đẹp" hơn nữa. Nhờ

25


×