Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ cố ý gây thương tích và thực tiễn tại tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------

PHẠM THÁI PHƢƠNG

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG
CÁC VỤ CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH VÀ THỰC TIỄN
TẠI TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------

PHẠM THÁI PHƢƠNG

TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC
VỤ CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH VÀ THỰC TIỄN
TẠI TỈNH SƠN LA


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Nghị

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ, đề tài “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong các vụ cố ý gây thương tích và thực tiễn tại tỉnh Sơn La”, là
công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các kết luận khoa học trong luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Các
số liệu, trích dẫn trong Luận văn, đảm bảo trung thực, khách quan.

NGƢỜI CAM ĐOAN

Phạm Thái Phƣơng


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƢƠNG 1.MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƢỜNG THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH5
1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do hành vi cố ý gây
thƣơng tích ....................................................................................................... 5
1.2. Đặc điểm và các loại trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong các vụ cố
ý gây thƣơng tích ............................................................................................. 6

1.2.1. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ cố ý gây
thương tích ........................................................................................................ 6
1.2.2. Các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ cố ý gây thương
tích ................................................................................................................... 11
1.3. Căn cứ xác định của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt haị do hành vi cố ý
gây thƣơng tích gây ra .................................................................................. 14
1.4. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong các vụ cố
ý gây thƣơng tích ........................................................................................... 16
1.4.1. Có thiệt hại thực tế xảy ra ..................................................................... 16
1.4.2. Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại ................................................. 18
1.4.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và
thiệt hại xảy ra................................................................................................. 19
1.4.4. Vấn đề lỗi .............................................................................................. 20
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 23
CHƢƠNG 2.QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNH VI CỐ Ý GÂY
THƢƠNG TÍCH GÂY RA ........................................................................... 24
2.1. Ngƣời phải chịu trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong hành vi cố ý
gây thƣơng tích .............................................................................................. 24
2.2. Phạm vi bồi thƣờng thiệt hại ................................................................. 25
2.2.1. Đối với trường hợp hai bên tự thỏa thuận được ................................... 25
2.2.2. Đối với trường hợp không thỏa thuận được ......................................... 26


2.3. Xác định thiệt hại trong các vụ cố ý gây thƣơng tích theo quy định
của pháp luật.................................................................................................. 27
2.3.1. Tính toán thiệt hại khi có sự thiệt hại về sức khỏe................................ 27
2.3.2. Tính toán thiệt hại khi có thiệt hại về tính mạng ................................. 32
2.4. Mức bồi thường và thay đổi mức bồi thường ....................................... 35
2.4.1. Bồi thường toàn bộ ................................................................................ 35

2.4.2. Giảm mức bồi thường ........................................................................... 36
2.4.3. Thay đổi mức bồi thường ...................................................................... 39
2.5. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại và thời hạn hƣởng
bồi thƣờng thiệt hại ....................................................................................... 39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 42
CHƢƠNG 3.THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO HÀNH VI CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH
GÂY RA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ....................................................................... 43
3.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội, điều kiện tự nhiên của tỉnh Sơn
La .................................................................................................................... 43
3.2. Tình hình các vụ việc cố ý gây thƣơng tích trên địa bàn tỉnh Sơn La
trong thời gian gần đây ................................................................................. 43
3.2.1. Địa bàn xảy ra các vụ cố ý gây thương tích ......................................... 44
3.2.2. Các dạng vụ việc cố ý gây thương tích ................................................. 45
3.2.3. Chủ thể gây ra các vụ cố ý gây thương tích.......................................... 46
3.2.4. Thiệt hại trong các vụ cố ý gây thương tích ......................................... 48
3.3. Thực tiễn giải quyết, xử lý về bồi thƣờng thiệt hại trong các vụ cố ý
gây thƣơng tích trên địa bàn tỉnh Sơn La trong thời gian ba năm qua... 49
3.3.1. Bồi thường thiệt hại trong giai đoạn điều tra, xử lý vi phạm hành chính
của cơ quan Công an ...................................................................................... 49
3.3.2. Bồi thường thiệt hại theo quyết định của Tòa án .................................. 53
3.4. Một số tồn tại, vƣớng mắc trong thực tiễn giải quyết, xử lý về bồi
thƣờng thiệt hại trong các cố ý gây thƣơng tích trên địa bàn tỉnh Sơn La
trong thời gian ba năm qua .......................................................................... 54


3.4.1. Bồi thường thiệt hại trong giai đoạn điều tra, xử lý vi phạm hành chính
của Cơ quan công an ...................................................................................... 54
3.4.2. Bồi thường thiệt hại theo quyết định của Tòa án .................................. 55

3.4.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc bồi thường trong các vụ cố ý gây
thương tích. ..................................................................................................... 59
3.5. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thƣờng
thiệt hại do hành vi cố ý gây thƣơng tích gây ra ........................................ 62
3.5.1. Về vấn đề lỗi của người gây ra hành vi cố ý gây thương tích .............. 62
3.5.2. Về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng ................................................. 62
3.5.3. Một số vấn đề khác ................................................................................ 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
Trách nhiêm bồi thường thiệt hại trong các vụ cố ý gây thương tích là
một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định trong
Bộ Luật dân sự năm 2015 và các văn bản có liên quan. Bộ luật Dân sự năm
2015 với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức bị
xâm hại do hành vi cố ý gây thương tích gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong các vụ cố ý gây thương tích được hiểu là một loại trách nhiệm pháp
lý xảy ra khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi thường thiệt hại do
mình gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được hình thành giữa các chủ thể, trong đó người có hành vi
trái với quy định của pháp luật nói chung mà gây thiệt hại phải bồi thường
thiệt hại cho người bị thiệt hại. Ở các quốc gia khác nhau, qua các thời kỳ lịch
sử, quy định về bồi thường thiệt hại trong các vụ cố ý gây thương tích cũng có
sự khác nhau về cách thức bồi thường, mức độ bồi thường, cách xác định thiệt

hại cũng như việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại là khác nhau. Tuy
nhiên trên thực tế để xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
người có hành vi gây thiệt hại là rất khó khăn, nó liên quan nhiều đến các căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ cố ý gây thương
tích, xác định thiệt hại, đặc biệt việc xác định thiệt hại về tinh thần, xác định
lỗi của người gây thiệt hại. Bộ luật Dân sự còn có nhiều cách hiểu khác nhau
về lỗi, có quan điểm cho rằng cần giữ nguyên yếu tố lỗi như hiện nay, nhưng
cũng có quan điểm cho rằng không cần đến yếu tố lỗi khi xem xét bồi thường
thiệt hại trong các vụ cố ý gây thương tích.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề này, tôi chọn đề tài:
"Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ cố ý gây thương tích và thực
tiễn tại tỉnh Sơn La" làm Luận văn Thạc sĩ luật học của mình. Mong rằng


2

những đóng góp của Luận văn giúp làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng
như thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý gây thương
tích gây ra theo pháp luật Việt Nam hiện hành trên địa bàn tỉnh Sơn La, trên
cơ sở đó kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong các vụ việc cố ý gây thương tích.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy liên quan đến đề tài của mình đã có
một số những công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố và thể hiện ở
những hình thức khác nhau:
Dưới hình thức luận văn thạc sĩ, có những công trình nghiên cứu sau:
Luận văn thạc sĩ Luật học (1997), Trường Đại học Luật Hà Nội của tác giả Lê
Mai Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng trong Bộ luật Dân sự". Luận văn này nghiên cứu nhiều vấn đề,
trong đó có những nội dung lien quan đến đề tài nghiên cứu như: tiếp cận vấn

đề trách nhiệm dân sự, khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng và đặc điểm pháp lý.
Về giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo, bình luận khoa học, có thể
kể đến những công trình tiêu biểu. TS. Đỗ Văn Đại, Luật Bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng Việt Nam bản án và bình luận bản án, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội - 2010; TS. Phùng Trung Tập, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, Nxb Hà Nội, Hà Nội – 2009;…
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí như: Phạm
Kim Anh, Trách nhiệm dân sự và chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Bộ luật Dân sự 2005 thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 6/2009; Phạm Văn Bằng, Chế định bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng những vấn đề đặt ra khi sửa đổi Bộ luật Dân sự năm
2005, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2013; TS. Phùng Trung Tập "Cần
hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Dự thảo Bộ
luật Dân sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4/2005;…


3

Mỗi tác giả đều có một cách khám phá, tiếp cận và khai thác đề tài ở một
góc độ khác nhau. Những vấn đề mà các công trình nghiên cứu, các bài viết
đã kể trên tuy có đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt do hành vi của con
người gây ra, nhưng chỉ giới hạn ở một số vấn đề cụ thể hoặc dưới góc độ
nguyên tắc. Vì vậy, công trình nghiên cứu này không bị trùng lắp với công
trình nghiên cứu khác.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của Luận văn này là:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi cố ý gây thương tích gây ra.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại do hành vi cố ý gây thương tích gây ra.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi cố ý gây thương tích gây ra trên địa vàn tỉnh Sơn
La, từ đó đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề nghiên
cứu.
Với mục đích nghiên cứu trên, Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ cố ý gây thương tích trên địa
bàn tỉnh Sơn La theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu của mình, Luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp phân tích, đánh giá số liệu: Người nghiên cứu sử dụng xử
lý số liệu phổ biến là thống kê, phân tích số liệu thu được từ để thể hiện kết
quả của quá trình nghiên cứu.
Ngoài ra, để phục vụ cho quá trình nghiên cứu, người nghiên cứu đã sử
dụng một số phương pháp khác nhau như: phương pháp thống kê, phương
pháp suy luận, phương pháp khảo sát, thu thập và tham khảo dữ liệu,…


4

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học của đề tài:
Đề tài nhận thức sâu sắc về mặt lý luận và pháp lý về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong vụ cố ý gây thương tích. Bên cạnh đó, có được hiểu biết
sâu rộng hơn về thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do hành vi cố ý gây thương tích gây ra trên địa bàn tỉnh Sơn La. Từ đó, đề tài
giúp nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc hiểu để nâng cao
chất lượng, hiệu quả của việc áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi cố ý gây thương tích gây ra trên đia bàn tỉnh Sơn La.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn đã nêu, những kết
quả mang lại góp phần giúp nâng cao ý thức, trách nhiệm của nhà nước và
nhân dân ta trong việc học hỏi để hiểu biết các quy định của pháp luật hiện
hành. Đồng thời, các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
áp dụng pháp luật nói chung và pháp luật về bồi thường thiệt hại trong vụ cố ý
gây thương tích hiện nay.
6. Kết cấu của Luận văn
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trong phạm vi nghiên cứu đã được
xác định, đề tài được kết cầu theo ba chương sau đây:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
trong các vụ cố ý gây thương tích.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi cố ý gây thương tích gây ra.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do hành vi cố ý gây thương tích gây ra trên đia bàn tỉnh Sơn La và một số
kiến nghị hoàn thiện pháp luật.


5

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI TRONG CÁC VỤ CỐ Ý GÂY THƢƠNG TÍCH
1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại do hành vi cố ý
gây thƣơng tích
Nói về khái niệm cố ý gây thương tích, có rất nhiều quan điểm khác
nhau. Trong Luật hình sự Việt Nam – Quyển 1, TS Phạm Văn Beo có định
nghĩa thứ nhất cho rằng: “Cố ý gây thương tích là hành vi của một người cố ý
làm người khác bị thương”, cách định nghĩa thứ hai là: “Tội cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác”.
Hiểu một cách đơn giản, có thể thấy cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người cố ý làm cho người
khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khỏe. Cũng có quan điểm cho rằng, cố ý
gây thương tích là hành vi của một người hoặc nhiều người, một nhóm người
cố ý gây thương tích cho một người hay nhiều người bị hại, hành vi này có
thể phải bồi thường cho người bị hại và có thể bị tòa án xét xử về tội cố ý gây
thương tích. Tuy nhiên, các khái niệm này đều mang đặc điểm chung là có lỗi
cố ý của một người hoặc nhóm người, gây thương tích hoặc tổn hại về sức
khỏe cho người khác Khi có hành vi cố ý gây thương tích, sẽ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại đối với người có hành vi cố ý gây thiệt hại đó,
buộc người này phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một
người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi
thường những tổn thất mà mình gây ra.
Từ khái niệm này, có thể thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại. do hành
vi cố ý gây thương tích là trách nhiệm dân sự của người gây thiệt hại, phải bồi
thường những tổn thất về sức khỏe, tinh thần của người khác do chính hành vi
trái pháp luật, cố ý gây thương tích của mình.


6

Về mặt lý luận, khi nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì
tìm hiểu về khái niệm và những đặc điểm nổi bật của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại là một việc làm cần thiết phải được coi trọng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tại về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại nói chung và về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng. Tuy nhiên, trong cả hai phần này đều không nêu rõ khái niệm trách
nhiệm bồi thường thiệt hại mà chỉ nêu lên căn cứ phát sinh trách nhiệm,
nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách nhiệm, thời hạn hưởng bồi
thường…
Tiếp cận dưới góc độ khoa học pháp lý chúng ta thấy rằng, mỗi người
sống trong xã hội đều phải tôn trọng quy tắc chung của xã hội, không thể vì
lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác. Khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho
người khác thì chính người đó phải chịu bất lợi do hành vi của mình gây ra.
Sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác
được hiểu là bồi thường thiệt hại.
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ cố ý gây
thương tích là một loại trách nhiệm mà theo đó thì khi một người vi phạm
nghĩa vụ pháp lý của mình (người gây thiệt hại) gây tổn hại cho người khác
(người bị thiệt hại) phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
1.2. Đặc điểm và các loại trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong
các vụ cố ý gây thƣơng tích
1.2.1. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ cố ý
gây thương tích
Quyền được bảo vệ về sức khỏe, tính mạng là một trong những quyền
nhân thân cơ bản của con người, việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con
người không chỉ đơn thuần là gây tổn thất cho chính người đó mà còn gây
những tác động xấu về tinh thần cũng như vật chất cho những người thân


7

thích của người bị thiệt hại và xa hơn là những tác động xấu về mọi mặt đối
với xã hội. Vì vậy, người nào xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người
khác không những phải chịu những chế tài nghiêm khắc của luật hình sự mà

còn phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường theo quy định của Bộ luật dân sự.
Khoản 1 Điều 584, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người nào có
hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Như vậy, có thể thấy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức
khỏe, tính mạng con người là một trong những trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm
tính mạng, sức khỏe có đầy đủ các đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng. Đó là: Về cơ sở phát sinh trách nhiệm; về điều kiện phát
sinh trách nhiệm; về chủ thể chịu trách nhiệm và về mức bồi thường.
Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn có một số đặc thù nhất
định, cụ thể:
- Hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác là hành vi trái
pháp luật: Quyền bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể là quyền
nhân thân được pháp luật dân sự ghi nhận, bảo vệ cho mỗi cá nhân, mọi chủ
thể đều có nghĩa vụ phải tôn trọng quyền đó, không ai có quyền xâm phạm.
Do đó hành vi cố ý gây thương tích là xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của
cá nhân là hành vi trái pháp luật, có thể bị xử lý về trách nhiệm hình sự. Trách
nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của
việc phạm tội thể hiện ở trách nhiệm của người phạm tội trước Nhà nước phải
chịu những tác động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự do Tòa
án áp dụng theo một trình tự tố tụng nhất định1.

1

/>

8


- Thiệt hại xảy ra khi bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe bao gồm cả thiệt
hại vật chất và thiệt hại về tinh thần: Khác với trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng khác, người gây thiệt hại thường chỉ có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về vật chất, người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của người khác do hành vi cố ý gây thương tích
phải chịu trách nhiệm cả vật chất, tinh thần, cả thiệt hại trực tiếp lẫn gián tiếp.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng,
sức khỏe con người nhằm mục đích bảo vệ cho tính mạng, sức khỏe của cá
nhân không thể bị xâm phạm. Đồng thời, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật,
tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác, phòng ngừa các
hành vi vi phạm khác. Để đạt được mục đích này, pháp luật hiện hành yêu cầu
việc bồi thường phải kịp thời, nhanh chóng và bồi thường toàn bộ. Trong quá
trình bồi thường có thể giảm mức bồi thường khi đáp ứng đủ điều kiện luật
định; có thể thay đổi mức bồi thường nếu không còn phù hợp với thực tế.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe
không phát sinh đối với chủ thể là pháp nhân.
Điều này xuất phát từ các đặc điểm bản chất của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người nên trong quan hệ
này, chủ thể là pháp nhân chỉ có thể đóng vai trò là chủ thể chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại mà không thể là chủ thể được bồi thường thiệt hại.
- Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại là quyền nhân thân gắn liền với
người bị thiệt hại và không thể chuyển giao cho người khác.
Với tính chất là một trong số các quyền nhân thân liên quan đến cơ thể
con người, quyền đối với tính mạng, sức khỏe có đầy đủ các đặc điểm của
quyền nhân thân liên quan đến cơ thể con người, các quyền này được bảo hộ
vô thời hạn và có thể được bảo hộ không phụ thuộc đơn yêu cầu. Việc khôi
phục lại đối tượng của quyền là những giá trị nhân thân khi bị xâm phạm có
có thể thực hiện như danh dự cá nhân. Danh dự cá nhân là sự coi trọng của dư
luận xã hội đối với cá nhân đó, dựa trên những giá trị đạo đức, phẩm chất tốt



9

đẹp; nhân phẩm cá nhân là những phẩm chất và giá trị con người của cá nhân
đó; uy tín cá nhân thể hiện sự tín nhiệm, miễn phục của cộng đồng hoặc một
bộ phận dân cư đối với cá nhân đó. Các hành vi xâm phạm danh dự, nhân
phẩm, uy tín có thể kể đến là hành vi làm nhục, vu khống,…2
Và trong mối quan hệ bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức
khỏe không thể thay đổi chủ thể. Điều này được quy định tại Điều 365, BLDS
năm 2015, cụ thể:
“1. Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể chuyển giao
quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thoả thuận, trừ những trường hợp
sau đây:
a) Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín…”
Điều này cũng xuất phát từ việc quyền được đảm bảo an toàn về tính
mạng, sức khỏe là các quyền nhân thân cơ bản của con người, gắn liền với
mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác.
Bên cạnh đó, nội dung mà hầu hết mọi người đều quan tâm đến khi
nghiên cứu về chế định bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính
mạng con người là quy định về xác định thiệt hại.
Bộ luật dân sự năm 2015 xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm,
sức khỏe bị đe dọa như sau:
Về thiệt hại do sức khỏe bị đe dọa, Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 xác
định thiệt hai bao gồm:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và
chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định
được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;


2

PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ - PGS. TS. Trần Thị Huệ, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân.


10

- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng
lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm
cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
- Thiệt hại khác do luật quy định.
- Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khoẻ của
người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1
Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó
gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận;
nếu không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm
phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, Điều 591 Bộ luật dân sự năm
2015 xác định thiệt hại bao gồm:
- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ
luật dân sự 2015;
- Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
- Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng;
- Thiệt hại khác do luật quy định.
- Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của
người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1

Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những
người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu
không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi
dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản
tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận;
nếu không thoả thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm
phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.


11

Như vậy, về cơ bản, việc xác định thiệt hại về sức khỏe và tính mạng của
Bộ luật dân sự năm 2015 tương tự như việc xác định thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe quy định tại Điều 609 và Điều 610 của Bộ luật dân sự năm
2005. Nhưng trong Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể hơn, hợp lý
hơn về cách xác định thiệt hại và mức bồi thường, đó là:
- Bộ luật dân sự năm 2015 đã nâng mức bồi thường tối đa cho một người
có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà
nước quy định; mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không
quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Việc nâng mức bồi
thường lên là phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội hiện nay.
- Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định thiệt hại do xâm phạm tính mạng
bao gồm cả “thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”, khắc phục, hạn chế được
tình trạng thương tâm hiện nay trong một số vụ án tai nạn giao thông, tài xế
cố tình đâm chết nạn nhân để mức bồi thường ít so với việc xâm phạm sức
khỏe của nạn nhân. Bởi vì theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, trên
thực tế xảy ra nhiều trường gây thiệt hại về sức khỏe khi xác định thiệt hại lớn
hơn xác định thiệt hại về tính mạng. Khi gây thiệt hại về sức khỏe người chịu
trách nhiệm bồi thường sẽ phải chịu cả trách nhiệm cứu chữa, hồi phục sức
khỏe, chăm sóc, chi phí bồi thường nuôi sống cho nạn nhân mất khả năng lao

động.
1.2.2. Các loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ cố ý gây
thương tích
a. Trách nhiệm BTTH vật chất và trách nhiệm BTTH về tinh thần
Đối với hành vi cố ý gây thương tích, căn cứ vào lợi ích bị xâm phạm và
những thiệt hại xảy ra mà trách nhiệm BTTH được phân thành trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong vụ cố ý gây thương tích về vật chất và trách nhiệm
bù đắp tổn thất về tinh thần.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bồi thường
tổn thất vật chất thực tế được tính thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm


12

tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại,
thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần được hiểu là người gây
thiệt hại cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin
lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những
tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại như sự buồn rầu, lòng đau
thương…
Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định
nghĩa vụ chứng minh và mức bồi thường: Về nguyên tắc, người bị thiệt hại
phải có nghĩa vụ chứng minh thiệt hại xảy ra và mức bồi thường sẽ bằng mức
thiệt hại. Tuy nhiên, nguyên tắc này chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp đó
là trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất còn trong trường hợp bồi
thường thiệt hại về tinh thần thì những tổn thất về tinh thần là những tổn thất
không thể nhìn thấy, khó tính toán và chứng minh được. Chính vì vậy, trong
trường hợp này pháp luật cần quy định một mức nhất định để cơ quan Nhà

nước có thẩm quyền áp dụng trong trường hợp một người có hành vi xâm
phạm đến các quyền nhân thân của người khác.
b. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của con người gây ra được
hiểu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi thiệt hại xảy ra là kết
quả tất yếu của hành vi của con người gây ra. Trường hợp này người gây thiệt
hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành động hoặc không hành động và hành
vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.
c. Trách nhiệm do nhiều người cùng gây ra và trách nhiệm độc lập
Căn cứ vào yếu tố lỗi và mức độ lỗi của cả người gây thiệt hại và người
bị thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được phân thành trách
nhiệm do nhiều người cùng gây ra và trách nhiệm độc lập.


13

Trách nhiệm do nhiều người cùng gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt
hại mà trong đó có nhiều người gây thiệt hại mà người bị thiệt hại là người
hoàn toàn không có lỗi.
Trách nhiệm độc lập là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà người bị
thiệt hại là người hoàn toàn không có lỗi.
Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này sẽ có ý nghĩa trong việc xác định
trách nhiệm bồi thường và mức thiệt hại vì theo quy định Điều 587 Bộ luật
Dân sự thì khi người bị thiệt hại do nhiều người cùng gây ra, những người đó
sẽ phải cùng có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại và phải bồi
thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình; nếu thiệt hại xảy ra
không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần
bằng nhau.
d. Trách nhiệm bồi thường của cá nhân, trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm bồi thường Nhà nước

Căn cứ vào chủ thể chịu trách nhiệm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được phân loại thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của pháp nhân, các tổ chức khác và trách nhiệm
bồi thường Nhà nước.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân được hiểu là trách nhiệm mà
theo đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cá nhân người gây thiệt
hại hoặc đại diện theo pháp luật của người đó như cha mẹ, người giám hộ.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại pháp nhân và các tổ chức khác được
hiểu là trách nhiệm phát sinh cho pháp nhân hoặc các tổ chức khác trong
trường hợp người của pháp nhân và các tổ chức gây thiệt hại trong khi thực
hiện nhiệm vụ pháp nhân hoặc tổ chức giao cho.
Trách nhiệm bồi thường Nhà nước được hiểu là khi cán bộ, công chức
gây thiệt hại thuộc phạm vi bồi thường Nhà nước thì Nhà nước phải bồi
thường thiệt hại cho người bị thiệt hại chứ không phải chính cán bộ công chức
hay cơ quan quản lý cán bộ công chức phải bồi thường.


14

Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định chủ thể phải bồi
thường và việc xác định nghĩa vụ hoàn lại: Đối với trường hợp người của
pháp nhân hoặc tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp
nhân giao, do đó hành vi của họ được hiểu là hành vi của pháp nhân thì trách
nhiệm trước hết thuộc về pháp nhân, tổ chức. Sau khi người có trách nhiệm
bồi thường đã thực hiện xong thì nếu người gây thiệt hại có lỗi sẽ làm phát
sinh nghĩa vụ hoàn lại của người có hành vi gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ
chức đó.
Việc phân loại này còn có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm bồi
thường, trình tự, thủ tục bồi thường… bởi lẽ nếu là trách nhiệm Nhà nước thì
sẽ bị giới hạn phạm vi áp dụng do đặc thù Nhà nước là một chủ thể đặc biệt

thực hiện việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội; tiền bồi thường thuộc ngân
sách Nhà nước do đó việc thực hiện trình tự, thủ tục bồi thường cũng không
giống với trách nhiệm bồi thường thiệt hại thông thường.
Ngoài ra, nếu căn cứ vào lĩnh vực bồi thường thì trách nhiệm BTTH có
thể được phân loại thành bồi thường trong lĩnh vực hành chính, hình sự, tố
tụng hình sự…; căn cứ vào số lượng chủ thể chịu trách nhiệm có thể phân
trách nhiệm BTTH thành trách nhiệm một người và trách nhiệm nhiều người;
căn cứ các yếu tố có liên quan đến pháp luật nước ngoài hay không có thể
phân trách nhiệm BTTH thành trách nhiệm BTTH trong nước và trách nhiệm
BTTH có yếu tố nước ngoài …
1.3. Căn cứ xác định của trách nhiệm bồi thƣờng thiệt haị do hành
vi cố ý gây thƣơng tích gây ra
Từ khái niệm, đặc điểm đã nêu ở trên, có thể thấy, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi cố ý gây thương tích có những căn cứ xác định
sau đây:
- Thứ nhất, người gây thiệt hại phải có hành vi trái pháp luật tác động
đến thân thể của người khác.


15

- Thứ hai, hành vi trái pháp luật đó để lại hậu quả làm cho người khác bị
thương, bị tổn hại đến sức khoẻ. Các hành vi cố ý gây thương tích về hình
thức cũng giống hành vi của tội giết người, nhưng tính chất và mức độ nguy
hiểm thấp hơn nên nó chỉ làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức
khoẻ chứ không làm cho nạn nhân bị chết. Nạn nhân phải bị thương tích hoặc
bị tổn thương đến sức khoẻ. Nếu thương tích không đáng kể thì chưa phải là
tội phạm. Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 lấy tỉ
lệ thương tật của nạn nhân làm căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự và
định khung hình phạt đối với người phạm tội: “1. Người nào cố ý gây thương

tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể
từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm… 2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một
trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o
khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm….” 3.
- Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt
hại xảy ra. Đây là một trong những đặc điểm quan trọng làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Hành vi gây thiệt hại phải là nguyên nhân trực
tiếp dẫn tới thiệt hại đó. Và hậu quả là thiệt hại xảy ra phải bắt nguồn trực tiếp
từ hành vi trái pháp luật này.
- Thứ tư, nhận thức của người cố ý gây thương tích là thấy rõ hành vi
của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ
của người khác; mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. So
với tội giết người, thì sự cố ý trong trường hợp gây thương tích mức độ nguy
hiểm có thấp hơn, vì người phạm tội chỉ mong muốn hoặc để mặc cho nạn
nhân bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không muốn nạn nhân chết.

3

Điều 134, Bộ luật Hình sự năm 2015


16

1.4. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại trong các
vụ cố ý gây thƣơng tích
Căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm BTTH. Về căn cứ

làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, BLDS 2015 đã được sửa đổi
và có sự tiến bộ so với BLDS 2005. Cụ thể, khoản 1 Điều 584 quy định:
“Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại
thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy
định khác”.
Như vậy, trong BLDS 2015, căn cứ xác định trách nhiệm BTTH là
“hành vi xâm phạm của người gây thiệt hại”. Theo quy định trước đây tại
Điều 604 BLDS 2005, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng yêu cầu người gây
thiệt hại phải có “lỗi cố ý hoặc vô ý”. Với quy định như vậy, ngoài việc chứng
minh người gây thiệt hại có hành vi trái pháp luật, người bị thiệt hại cần phải
chứng minh người gây thiệt hại có lỗi. BLDS 2015 đã quy định về căn cứ làm
phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng theo hướng có lợi cho người bị
thiệt hại. Theo đó, trách nhiệm BTTH phát sinh khi có các điều kiện: Có thiệt
hại xảy ra, Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, Có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
BLDS 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng trách nhiệm BTTH ngoài hợp
đồng. Nếu như BLDS 2005 quy định đối với cá nhân có phạm vi áp dụng
trách nhiệm rất rộng còn đối với pháp nhân, BLDS 2005 chỉ liệt kê ba đối
tượng bị xâm phạm là “danh dự, uy tín, tài sản (khoản 1 Điều 604) thì tại
Điều 584 BLDS 2015 quy định đối tượng bị xâm phạm làm phát sinh trách
nhiệm BTTH của cá nhân và pháp nhân bao gồm “tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác”.
1.4.1. Có thiệt hại thực tế xảy ra


17

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi được áp dụng là nhằm khôi phục
tình trạng tài sản cho người bị thiệt hại nên thiệt hại là yếu tố không thể thiếu

được trong việc áp dụng trách nhiệm này. Chỉ có thiệt hại mới phải bồi
thường, chỉ khi nào biết được thiệt hại là bao nhiêu mới có thể ấn định người
gây thiệt hại phải bồi thường bao nhiêu. Vì vậy, muốn áp dụng trách nhiệm
này thì việc đầu tiên là phải xem xét có thiệt hại xảy ra hay không và phải xác
định được thiệt hại là bao nhiêu.
Theo nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP thiệt hại bao gồm thiệt hại vật chất
và thiệt hại do tổn thất về tinh thần:
“ a) Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy
định tại Điều 608 BLDS; thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại
khoản 1 Điều 609 BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại
khoản 1 Điều 610 BLDS; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS.
b) Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do
tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải
chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy
tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm... và cần phải được bồi thường một
khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần
của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ
chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút
hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi
thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.”
Thiệt hại về tài sản là những tổn thất vật chất thực tế được tính thành tiền
mà người có hành vi trái pháp luật đã gây ra cho người khác; thiệt hại về thể
chất là sự giảm sút về sức khoẻ, mất mát về tính mạng, hình thể của người bị
thiệt hại; thiệt hại về tinh thần là sự ảnh hưởng xẩu đến danh dự, nhân phẩm,
uy tín hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của người bị thiệt hại. Để có cơ sở cho


18


việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các thiệt hại do xâm phạm đến
sức khoẻ, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm cũng phải được xác định
thành một khoản tiền cụ thể. Vì vậy, thiệt hại là những tổn thất xảy ra được
tính thành tiền bao gồm những mất mát, hư hỏng, huỷ hoại về tài sản, nguồn
thu nhập bị mất, chi phí nhàm ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu về tài
sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tinh thần.
Có thể chia thành hai loại thiệt hại sau đây:
Thiệt hại trực tiếp: Là những thiệt hại đã xảy ra một cách khách quan,
thực tế và có cơ sở chắc chắn để xác định, bao gồm mất mát, hư hỏng về tài
sản, các chi phí cho việc ngăn chặn, khắc phục các thiệt hại.
Thiệt hại gián tiếp: Là những thiệt hại mà phải dựa trên sự suy đoán
khoa học mới có thể xác định được thiệt hại. Thiệt hại này còn được gọi là thu
nhập thực tế bị mất, bị giảm sút, lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác
tài sản bị mất. Đối với loại thiệt hại này nếu chỉ mang tính giả định, không có
cơ sở khoa học chắc chắn để xác định thì không được đưa vào khoản thiệt hại
để áp dụng trách nhiệm bồi thường.
1.4.2. Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là một
quyền tuyệt đối của mọi công dân, tổ chức. Theo đó, Điều 33 Bộ luật dân sự
năm 2015 quy định: “1. Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về
tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị
tước đoạt tính mạng trái luật.” Mọi người đều phải tôn trọng những quyền đó
của chủ thể khác, không được thực hiện bất cứ hành vi nào “ xâm phạm” đến
các quyền đó. Bởi vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thiệt hại sức
khỏe bị xâm phạm. Việc “ xâm phạm” mà gây thiệt hại có thể là hành vi vi
phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, kể cả những hành vi vi phạm
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt
trong từng cộng đồng dân cư…



19

Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể
hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định (yêu cầu)
của pháp luật. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hành vi
trái pháp luật là những hành vi xâm hại tới tài sản, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác và đa phần được
thể hiện dưới dạng hành động. Tuy nhiên, những hành vi gây thiệt hại do xâm
phạm các yếu tố trên nhưng được thực hiện phù hợp với quy định của pháp
luật sẽ không bị coi là hành vi trái pháp luật và vì vậy, người thực hiện hành
vi đó không phải bồi thường thiệt hại. Chẳng hạn, hành vi gây thiệt hại trong
giới hạn của phòng vệ chính đáng hoặc gây thiệt hại đúng với yêu cầu của
tình thế cấp thiết.
1.4.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại và thiệt hại xảy ra
Quá trình phát sinh, phát triển và chấm dứt giữa các sự vật và hiện
tượng bao giờ cũng có mối liên hệ nội tại, trong đó, sự vật, hiện tượng này là
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng kia. Có thể một sự vật,
hiện tượng là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhiều sự vật, hiện tượng
khác, có thể nhiều sự vật, hiện tượng cùng là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời
của sự vật, hiện tượng khác. Vì vậy, để xác định chính xác người phải bồi
thường thiệt hại cần phải dựa vào cặp phạm trù: Nguyên nhân - kết quả và tìm
ra mối liên hệ giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, trong đó, thiệt hại
xảy ra phải là kết quả tẩt yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại, hành vi
trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành
vi trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Điều này được quy định
tại các điều của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Hình sự quy định dưới dạng: “
Người nào … xâm phạm… mà gây thiệt hại … thì phải bồi thường”. Ở đây

chúng ta có thể thấy hành vi đó.


×