Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Thực hiện gia công tại nhà tăng thu nhập cho người lao động và giảm chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.04 KB, 31 trang )

Lời mở đầu

Thập niên cuối của thế kỷ XX đã chứng kiến nhiều thay đổi lớn lao trên thế giới.
Những tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học công nghệ càng thúc đẩy quá
trình toàn cầu hoá, khu vực hoá trên thế giới diễn ra mạnh mẽ hơn xu thế hoà bình hợp
tác pháp triển đang ngày càng trở thành xu thế chủ yếu chi phối quan hệ ngoại giao các
nước. Trong thế giới ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau nhu cầu về phát triển, giao lưu kinh
tế, văn hoá nhằm tăng cường sự hiểu biết để hợp tác vì lợi ích dân tộc đang trở nên cấp
thiết . Với một môi trường quốc tế thuận lợi như vậy, Quan hệ Việt Nam – EU đã có
đIều kiện chuyển sang một giai đoạn mới đầy triển vọng cả Việt Nam và EU đều có
chung lơị ích trong việc mở rộng và tăng cường quan hệ hữu nghị trên các lĩnh vực .
EU là một trung tâm chính trị và kinh tế, đóng vai trò quan trọng không chỉ ở Châu
Âu, mà còn cả trên toàn thế giới . EU có trình độ khoa học kỹ thuật hiện đại, có nguồn
dự trữ ngoại tệ mạnh và là nguồn viện trợ lớn cho Việt Nam . EU có điều kiện để đáp
ứng các yêu cầu phát triển kinh tế của Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới .
Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá đa dạng hoá các quan hệ
quốc tế, phá thế bao vây cấm vận, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc phát
triển kinh tế xã hội và bảo vệ đất nước góp phần bảo đảm hoà bình, ổn định , an ninh và
pháp triển trong khu vực cũng như trên thế giới .
Mục đích của đề tài này là Phân tích hợp tác thương mại Việt Nam – Liên minh Châu
Âu trong lĩnh vực dệt may . Để đạt mục đích trên đây , bố cục đề tài gồm 3 phần .
Chương 1 : Một vài nét về liên minh Châu Âu ( EU )
Chương 2 : Thực trạng thương mại Việt Nam – EU trong lĩng vực dệt may .
Chương 3 : Các giải pháp thúc đẩy thương mại Việt Nam – EU trong lĩnh vực dệt
may
Chương 1 Một vàI nét về liên minh châu âu(eu)
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay trong nền kinh tế thế giới xuất hiện nhiều
loại hình liên kết kinh tế . Trong đó liên minh Châu Âu ( cộng đồng Châu Âu – EU
trước đây ) là khối liên kết kinh tế hình thành sớm nhất và có hiệu quả nhất . Trước
ngưỡng cửa của thế kỷ 21, với GDP khoảng 8500 tỷ USD, dân số khoảng 375 triệu
người chiếm giữ khoảng 40-50% sản lưởng công nghiệp của các nước tư bản phát triển


EU đang trở thành một cực rất mạnh trong nền kinh tế thế giới .
1.1. Sự hình thành và phát triển của liên minh Châu Âu .
Ngay từ thời Saclơ đại đế thuộc đế chế La Mã ( TK8 – Sau công nguyên ) những mơ
tưởng về thống nhất Châu Âu đã được hình thành . Tuy nhiên trong một thời gian dài ,
ý đồ thống nhất Châu Âu chỉ thuộc về một vài nhà chính trị , quân sự có nhiều tham
vọng và một bộ phận các nhà tri thức . Đại bộ phận Châu Âu vẫn thờ ơ thậm chí không
hề có ý tưởng gì về điều đó , mặc dù Châu Âu đã mang sẵn trong mình các yếu tố thống
nhất .
Đến năm 1923 , Bá Tước người áo –Condenhve Kalerg đã đề nghị thành lập một liên
minh Châu Âu theo kiểu Liên Bang Thuỵ Sĩ năm 1648 hay liên bang Hoa Kỳ năm 1776
năm 1929 Bộ trưởng Pháp lúc bấy giờ – Arstide Briand cũng đưa ra đề án thành lập liên
minh Châu Âu . Nhưng những ý tưởng này phải mãi đế sau chiến tranh thế giới thứ hai
mới trở thành hiện thực .
Sau chiến tranh thế giới thứ hai các nước Tây Âu đều kiệt quệ về kinh tế . So với
năm 1937 sản lượng của Đức 1946 chỉ bằng 31% , Italia 64% , Anh 96% . Trong khi đó
nhờ chiến tranh mà kinh tế Mỹ đã phát triển vượt bậc sức mạnh kinh tế của Mỹ còn
lơns hơn sức mạnh kinh tế của tất cả các nước Tây Âu gộp lại .Mặt khác sự phát triển
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
đặc biệt là sự phát triển lực lượng sản xuất ở Mỹ đã khẳng định vị trí bá chủ toàn cầu
của Mỹ . Chính bối cảnh ấy , buộc các quốc gia Tây Âu phảI tăng cường hợp tác để
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển , thoát khỏi sự kiểm toạ của Mỹ và cũng là làm
dịu đi bầu không khí chính trị căng thẳng ở Tây Âu , đặc biệt là giữa Pháp và Đức ,
phong trào giải phóng dân tộc đang dâng lên ở các nước thuộc địa và trên hết là phải
đối đầu với “cộng sản ” ở nửa kia Châu Âu – các quốc gia Tây Âu không còn sự lựa
chọn nào khác ngoài con đường hoà bình hợp tác với nhau .
Ngày 9/5/1950 Ngoại trượng Pháp – Rôbe Suman đã đưa ra một sáng kiến mới khởi
đầu cho tiến trình liên kết Châu Âu . Ông đề nghị “Đặt toàn bộ việc sản xuất than và
thép của Đức vá Pháp dưới một cơ quan quyền lực tối cao chung trong một tổ chức mở
cửa cho các nước Tây Âu khác tham gia ”
Trên cơ sở đề nghị đó ngày 18/4/1951 ,tại Paris ,6 quốc gia Tây Âu gồm : Pháp ,Đức

, Italia , Bỉ ,Hà Lan , Luych Xăm Bua đã ký Hiệp ước thành lập cộng đồng than thép
Châu Âu ( có hiệu lực từ ngày 25/7/1952 ) mở ra một chương mới trong lịch sử quan hệ
giữa các nước Tây Âu .
Nhìn chung, sáu nước Tây Âu đã thực hiện thành công Hiệp ước Paris năm 1952 .
Trên lĩnh vực kinh tế, từ tháng 5/ 1953 một thị trường chung than , sắt , thép cho sáu
nước đã hình thành . Ngành luyện kim đạt một bước phát triển mạnh mẽ kéo theo sự
phát triển cả nền kinh tế sáu nước . Thành tích kinh tế là to lớn song còn một kết quả
quan trọng khác mà cộng đồng than thép Châu Âu mang lại đó là tác động tâm lý đối
cới người Tây Âu . Lần đầu tiên họ thấy rằng không cần chiến tranh mà vẫn có thể
thống nhất được Châu Âu và thống nhất theo chiều hướng Siêu quốc gia .
Tại cuộc họp các ngoại trưởng của các quốc gia Tây Âu ở Messine năm 1955 đã đưa
ra đề án mở rộng liên kết của các quốc gia Tây Âu song các lĩnh vực khác và cử ngài
Paul Henry Spack – ngoại trưởng Italia làm chủ đề án . Đến 1956 họ đã nhất trí thành
lập cộng đồng kinh tế Châu Âu ( Eurpean Economic Community – EEC ) và cộng đồng
năng lượng nguyên tử Châu Âu . Ngày 25/ 7/ 1957 hiệp ược về việc thành lập 2 tổ vhức
này đã được thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/ 1/ 1958 . Mỗi tổ chức có một
chức năng riêng : EEC có nhiệm vụ chung liên quan đến những vấn đề kinh tế với việc
tạo lập một thị trường chung , trong đó không còn sự ngăn cản vận động của hàng hoá ,
tư bản , sức lao động … giữa các nước Tây Âu với nhau , cộng đồng năng lượng
nguyên tử Châu Âu quan tâm đến việc nghiên cứu phổ biến kiến thức , bảo đảm nguồn
cung cấp thường xuyên các nguyên liệu hạt nhân thúc đẩy đầu tư lập các cơ sở sản xuất
năng lượng hạt nhân chung lập thị trường nguyên tử chung giữa các nước .
Bước vào đầu thập kỷ 90 , sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu đã làm thay đổi cục diện thế giới từ hai cực trở thành đa cực . Trong trật tự
mới , các thế lực đều đang dốc sức chuẩn bị lực lượng để chiếm vị trí tối ưu cho mình
trong tương lai . Mặc dù đến thời điểm này cộng đồng Châu Âu đã đạt được những
thành tựu nhất định nhưng nói chung về kinh tế , chính trị lẫn quân sự vẫn còn thua kém
Mỹ và Nhật Bản . Do vậy trong cuộc cạnh tranh quyết liệt trước mắt các nước Tây Âu
vẫn sẽ phải thống nhất lại , đẩy manh công cuộc xây dựng cộng đồng tạo ra sức mạnh
tập thể để đối phó với hai đối thủ lớn của mình . ĐIều này được thể hiện rất rõ tại Hội

nghị thượng đỉnh các quốc gia Tây Âu ở Maastricht – Hà Lan tháng 11 năm 1991 . Tại
Hội nghị này các quốc gia thành viên đã thống nhất : Thứ nhất tiếp tục mở rộng liên kết
bằng cắch kết nạp thêm các thành viên mới , thứ hai tạo lập đồng tiền chung Châu Âu
làm cho Châu Âu thay đổi một cách căn bản vào năm 2000 . Thứ ba , tiến tới thống
nhất mặt chính trị , xây dựng một chính sách quốc phòng an ninh chung . Năm 1993
những hiệp ước trên bắt đầu có hiệu lực và EU cũng chính thức đổi thành liên minh
Châu Âu ( European Union – EU ) . Đồng thời , EU tiếp tục mở cửa lần thứ ba đến năm
1995 ba nước ở Tây Bắc Âu gồm : áo, Phần Lan , Thuỵ Điển đã trở thành thành viên
chính thức của EU .
Như vậy , từ sáu nước thành viên đến nay EU đã mở rộng ra 15 nước và xu thế sẽ
tiến tới 21 nước vào đầu thế kỷ 20 liên kết được mở rộng trên rất nhiều lĩnh vực kinh tế
, chính trị ,khoa học kỹ thuật , văn hoá , giáo dục .
Mục đích của liên minh Châu Âu là nhằm thiết lập và hoàn thiện thị trường nội bộ
thống nhất thông qua việc phát hành một đồng tiền thống nhất xoá bỏ hàng rào thuế
quan giữa các nước thành viên xây dựng một hàng rào thuế quan thống nhất đối với
hàng hoá nhập từ ngoài vào ,xoá bỏ những hạn chế đối với việc tự do di chuyển vốn sức
lao động hàng hoá dịch vụ … nhằm tăng cường hợp tác , liên kết giữa các quốc gia
thành viên xây dựng Châu Âu thành một cực mạnh trong nền kinh tế thế giới . Để đạt
được mục tiêu này , EU có một hệ thống thể chế để hoạch định , đIều hành và giám sát.
Hệ thống này bao gồm năm cơ quan chính uỷ ban Châu Âu , Hội đồng Châu Âu , Quốc
hội Châu Âu , Toà án Châu Âu và toà kiểm toàn cùng với các bộ phận hỗ trợ cho các cơ
quan trên như uỷ ban kinh tế và xã hội , uỷ ban khu vực .
Vậy , thực chất của liên kết kinh tế EU là tạo lập một thị trường thống nhất với việc
phát hành một đồng tiền thống nhất là quá trình quốc tế hoá không chỉ lực lượng sản
xuất mà cả quan hệ sản xuất .
1.2. Chiến lược của liên minh Châu Âu đối với Châu á .
Quan hệ kinh tế nói chung giữa các nước EU và các nước trong khu vực Châu á đã
có từ rất lâu , nhưng trong một thời gian tương đối dài sau chiến tranh thế giới thứ hai ,
các nước lớn trong EU rất ít chú ý đến Châu á . Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao với thị
trường rộng lớn ở Châu Phi đã hấp đẫn các nhà kinh doanh , đầu tư Châu Âu nhiều hơn

khu vực Châu á . Trong giai đoạn này , quan hệ của các nước EU với khu vực châu á
chủ yếu là viện trợ kinh tế .Tuy vậy từ sau thập kỷ 80 đến nay các nước Mỹ La Tinh đã
bị lâm vào khủng hoảng nợ , trong khi các nước đang phát triển Châu á lạI có những
chuyển biến trong phát triển kinh tế . Các Nies và ASEAN đã thực hiện thành công
chính sách kinh tế hướng về xuất khẩu và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới . Đồng
thời sự suy sụp của Liên Xô và các nước Đông Âu đã làm cho cục diện về kinh tế cũng
như kinh tế của mình ở Châu á nhằm duy trì ảnh hưởng của mình trong nền kinh tế thế
giới . Việc thiết lập được một sự hiện diện mạnh mẽ và đồng bộ tại các khu vực ở Châu
á sẽ cho phép EU đảm bảo được lợi ích của mình tại khu vực này vào đầu thế kỷ 21 .
Để đạt được điều đó tháng 7/1994 , EU đã thông qua văn kiện “Hướng tới một chiến
lược mới đối với Châu á” .
Chiến lược mới này hướng tới các mục tiêu chủ yếu là :
Thứ nhất : Tăng cường sự hiện diện về kinh tế của EU tại Châu á nhằm duy trì vai trò
nổi trội của mình trong nền kinh tế thế giới . Việc thiết lập một sự hiện diện đáng kể ở
Châu á sẽ cho phép EU chăm lo những lợi ích của mình được tôn trọng hoàn toàn trong
khu vực then chốt này vào đầu thế kỷ 21 .
Thứ hai : Góp phần vào sự ổn định ở Châu á bằng cách khuyến khích hợp tác và hiểu
biết lẫn nhau ở cấp độ quốc tế .
Thứ ba : Khuyến khích sự phát triển kinh tế của các nước và khu vực kém thịnh
vượng nhất . EU và các thành viên của mình tiếp tục góp phần làm giảm bớt sự nghèo
nàn và tạo ra một sự tăng trưởng bền vững ở các nước và khu vực này .
Thứ tư : Góp phần phát triển và củng cố nền dân chủ , nhà nước pháp quyền , cũng
như phương tiện tôn trọng quyền con người và các quyền tự do cơ bản ở Châu á .
Để đạt được các mục tiêu trên EU đã đưa ra hàng loạt các chính sách củng cố và tăng
cường sự hiện diện của mình như .
- Dành cho Châu á những ưu tiên lớn hơn và đi sâu đối thoại với các nước và các
nhóm trong khuôn khổ song phương hoặc đa phương .
- Coi trọng hợp tác kinh tế trong các lĩnh vực EU có lợi thế như ngân hàng , năng
lượng , công nghệ môi trường , viễn thông …
- Dành ưu tiên lớn nhất cho các thị trường Châu á mới trong đó có Đông Nam á ,

Trung Quốc , ấn Độ …
Sự cụ thể hoá trong chiến lược mới đối với Châu á chứng tỏ EU đã tiến thêm một bước
quan trọng trong chính sách đối ngoại và an ninh chung của mình . Việc EU cố gắng đi
đến một chính sách chung đối với Châu á -Thái Bình Dương là xuất phát từ chỗ đánh
giá lại thực trạng của mình và tương lai của khu vực Châu á - Thái Bình Dương . Qua
chiến lược này EU hy vọng sẽ giành được những vị trí vững chắc cả về kinh tế quốc
dân . EU đã sớm đón bắt được một xu thế phát triển đặc thù ở Châu á trong thế kỷ 21 .
Đó là vị trí lý tưởng để EU có thể phát huy ảnh hưởng chính trị của mình . Một cơ hội
mới đã được tạo ra cho sự hợp tác giữa EU và ASEAN khi Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của ASEAN .
Tóm lại : Sau 40 năm hình thành và phát triển EU trở thành một siêu cường cả về
kinh tế , chính trị , dân số , diện tích … và sẽ trở nên mạnh hơn khi đồng tiền chung
Euro được sử dụng trước một trật tự thế giới mới đang hình thành và đang đầy biến
động phức tạp , EU đã chuyển mình vươn lên tắch khỏi sự lệ thuộc với Mỹ, vươn tầm
hoạt động sang trung và Đông âu, Châu á, Châu Mỹ La Tinh, nhằm nâng cao hơn nữa
vị thế của mình trước thềm thế kỷ XXI . chính trong quá trình thực hiện chiến lược toàn
cầu của mình nói chung và chiến lược mới với Châu á nói riêng, EU đã tìm thấy ở Việt
Nam những ưu thế địa chính trị, địa kinh tế để lấy Việt Nam làm đIểm tựa quan trọng
trong chiến lược đối ngoại của mình với Châu á.
Mối quan hệ Việt Nam – EU đã bắt đầu được thiết lập từ sau năm 1975, nhưng chỉ
đơn thuần là viện trợ kinh tế . Bước chuyển biến to lớn đánh dấu một thời kỳ mới trong
quan hệ Việt Nam- EU là việc hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao tháng 10/1990. Trên
cơ sở đó mối quan hệ Việt Nam và EU đã phát triển nhanh chóng . Hai bbên đã có hàng
loạt cuộc tiếp xúc gặp gỡ thăm viếng hội thảo khoa học… nhằm trao đổi thông tin và
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau . Quan hệ Việt Nam –EU bước vào giai đoạn lịch sử
mới khi .
Hiệp định khung hợp tác Việt Nam – EU được ký kết vào tháng 7/1995 . Hiệp định đã
tạo ra những yếu tố thuận lợi cho EU và mối nước thành viên EU trong quan hệ hợp tác
thương mại và đầu tư với Việt Nam . Có thể nói , hiệp định khung hợp tác Việt Nam –
EU vừa là cơ sở pháp lý vừa là động cơ thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU

phát triên mạnh mẽ và toàn diện trên rất nhiều lĩnh vực : hợp tác thương mại, đầu tư
khoa học kỹ thuật môi trường văn hoá giáo dục y tế… đặc biệt là trng lĩnh vực dệt may.
Bằng chứng là hai hiệp định dệt may Việt Nam – EU giai đoạn 1993 – 1997 và 1998 –
2000 đã ký kết . nhờ đó kim ngạch hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường EU đã
tăng lên nhanh chóng . Vẫn đề này sẽ được nghiên cứu kỹ ở chương tiếp theo.
Chương 2 Thực trạng thương mạI việt nam -eu trong lĩnh vực dệt may
2.1. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam .
Ngành dệt may là ngành công nghiệp truyền thống có lịch sử phát triển rất lâu đời ở
nước ta . Mạc dù thường xuyên phảI đối mặt với rất nhiều thử thách , song với đặc tính
thu hút nhiều lao động , đầu tư ít vốn , thu lãi nhanh , ngành dệt may đã tận dụng được
các lợi thế của đất nước và đóng góp ngày càng nhiều cho quá trình phát triển kinh tế
của đất nước .
Thứ nhất , ngành dệt may phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo đầy đủ
nhu cầu thiết yếu cho nhân dân trong nước “sau cái ăn là cái mặc ”, qua đó góp phần
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân . Trên thực tế sản phẩm của ngành
dệt may chỉ mới đáp ứng được một phần nhu cầu trong nước . Hàng năm chúng ta vẫn
phảI nhập với một khối lượng lớn nguyên liệu lẫn hàng dệt may thành phẩm . Mặt khác
ngành dệt may sản phẩm cho tiêu dùng trong nước chất lượng còn thấp , mẫu mã chưa
phong phú , giá cả lại cao so với sản phẩm dệt may nhập khẩu . Tuy nhiên trong những
năm gần đây , ngành dệt may đã có kế hoạch đổi mới trang thiết bị , tăng sản lượng ,
giảm giá thành , đa dạng hoá mẫu mã nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ nhu cầu của
nhân dân trong nước .
Thứ hai , với đặc tính sử dụng nhiều lao động , đặc biệt là đối với ngành dệt may
Việt Nam thiếu thiết bị công nghệ hiện đại vì thế còn rất nhiêù công đoạn sản xuất thủ
công , nên ngành dệt may có khả năng giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động . Hiện
nay toàn ngành dệt may Việt Nam đang sử dụng hơn 500. 000 lao động Con số này là
nhỏ khi so với tổng số 38 triệu người trong độ tuổi lao động của Việt Nam nhưng là
một con số khá lớn đối với một ngành công nghiệp , có ý nghĩa không chỉ trên phương
diện kinh tế mà còn góp phần bình ổn chính trị – xã hội .
Thứ ba , không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước , hiện nay sản phẩm dệt may của

Việt Nam đã có mặt ở rất nhiều thị trường nước ngoài . Các sí nghiệp dệt may lớn ở
Trung ương và địa phương đều đang cố gắng dành năng lực tốt nhất cho sản xuất hàng
dệt may . Ngành dệt may đã phát huy và tận dụng hết tiềm năng sẵn có của đất nước ,
thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đó . Trong thời gian tới , chúng ta cần phải có những chính
sách phù hợp để khai thác hiệu quả những ưu thế của ngành dệt may nhằm thúc đẩy
nhanh tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước .
2.2. Cơ cấu thị trường ngành dệt may Việt Nam
Nhiệm vụ đầu tiên của ngành dệt may là đáp ứng cho nhu cầu của nhân dân trong
nước “sau cái ăn là cái mặc ” . Nhưng trên thực tế , ngành dệt may chưa hoàn thành
nhiệm vụ này , hàng năm chúng ta vẫn phải nhập một lượng lớn nguyên liệu lẫn hàng
dệt may thành phẩm . Điều này chứng tỏ rằng trong quá trình phát triển và hướng ngoại
ngành dệt may Việt Nam đã để lại một khoảng trống sau lưng mình , đó là thị trường
may mặc trong nước Hiện nay các sí nghiệp dệt may lớn Trung ương và địa phương
đều đang cố gắng dành những năng lực tốt nhất cho sản xuất hàng dệt may xuất khẩu ,
phần nào không xuất được thì để lại tiêu dùng trong nước . bằng chứng là thỉnh thoảng
mọt doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nào đó lạI đưa ra “cửa hàng giới
thiệu sản phẩm” của mình những lô hàng kém phẩm chất bán cho hàng tiêu dùng , đó là
những chiếc quần áo rộng quá cỡ , khác biệt về màu sắc và kiểu mốt đối với người Việt
Nam . Hoạt động của ngành dệt may trên thị trường nội địa có thể được phản ánh như
sau :
ở thị trường thành thị , thị trường bị thả nổi : Các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng
may mặc của tư nhân gia đời rất nhanh với nhiều quy mô và hình thức khác nhau đã
thay thế dần cho may mặc quốc doanh , tình trạng kinh doanh đất trốn lậu thuế sản xuất
buôn bán hàng giả , hàng “Sida” , hàng ngoại tràn vào một cách tràn lan , khó kiểm soát
được . ở thị trường nông thôn , miền núi lại khác hẳn thị trường bị bỏ trống bởi cầu ít ,
khả năng thanh toán kém do đó không đủ sức để thu hút tư thương vào .
Nếu ta chỉ làm một phép tính đơn giản cũng có thể thấy được sự lãng phí đáng quan
tâm của ngành dệt may Việt Nam . Nước ta hiện nay có khoảng 78 triệu dân , chỉ tính
khiêm tốn mỗi người tiêu dùng bình quân 100. 000 đồng / năm sẽ tạo được một thị
trường với sức mua 7800 tỷ đồng ( tương đương với khoảng 600 triệu USD ) xấp xỉ

kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của chúng ta vào 14 quốc gia thành viên EU năm
1998 .
Đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam được xuất khẩu ra hai khu vực
thị trường : có hạn ngạch và phi hạn ngạch . Thị trường có hạn ngạch do EU áp đặt .
Nơi đây , loại hình gia công chiếm vhủ yếu 80% kim ngạch xuất khẩu hầu như ổn định
. Sau khi Hiệp định dệt may thời kỳ đầu ( 1993 – 1997 ) được ký kết kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU không ngừng tăng lên . Thời kỳ đầu có 105
chủng loại ( category – cat ) quản lý bằng hạn ngạch , sau khi điều chỉnh ( tháng 8/
1995 ) còn 54 cat và khi hiệp định thời kỳ 1998 – 2000 được ký kết thì số cat quản lý
hạn ngạch chỉ còn 29 . Tính gia , có 122 đã được EU “giải phóng ” số lượng Cat được
giải phóng này có thể mang lạI một kim ngạch không nhỏ .
Trước những khó khăn trong việc khai thác thị trường xuất khẩu như đã nêu trên ,
việc mở rộng và tăng cường hơn lữa hợp tác với thị trường EU là một đòi hỏi khách
quan của nganhf dệt may Việt Nam . Đó cũng chính là lý do mà toàn bộ chỉ đi sâu tìm
việc thực trạng của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đi EU để rút ra thách
thức và thuận lợi .
2.3. Cơ cấu của ngành dệt may Việt Nam .
Theo thống kê cuối năm 1995 , tổng số cơ sở dệt may là 109369. Trong đó : số cơ sở
dệt là 74633, may là 34736 đơn vị . Hiện nay các cơ sở dệt may phân bố hầu như khắp
các tỉnh thành trong cả nước . Song , hiệu quả hoạt động của các cơ sở ở các tỉnh khác
nhau là khác nhau . Theo thống kê chung , các cơ sở miền trung hoạt động kém hiệu
quả , sản phẩm không đủ chất lượng để cạnh tranh trên thị trường quốc tế do thiếu công
nghệ hiện đại , thiếu thông tin về thị trường , cơ sở hạ tầng lạc hậu …Các doanh nghiệp
hoàt động có hiệu quả thường tập trung ở thành phố Hồ Chí Minh , Đồng Nai , Nha
Trang , Hải Phòng , Hà Nội …Sự phát triển không đồng bộ này chính là câu hỏi đặt ra
với các nhà hoạch định chính sách . Chúng ta cần có những chính sách đầu tư và tín
dụng phù hợp để khai thác đầy đủ và hiệu quả các tiềm lực ở các địa phương nhằm xây
dựng ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ của nó , một ngành công nghiệp chủ lực trong
chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam .
Và đáng nói nhất của ngành dệt may Việt Nam là nguyên vật liệu . Đây là một vấn đề

nan giải , làm ảnh hưởng đến chất lượng giá cả , sự cạnh tranh của sản phẩm dệt may
Việt Nam trên thị trường quốc tế :
Nguyên vật liệu của ngành dệt bao gồm các loại : Bông , đay , tơ tằm , xơvisco , xơ
PE , các loại xơ liber khác , các loại hoá chất , thuốc nhuộm . Trong đó nguyên liệu sản
xuất trong nước chỉ có bông , đay , tơ tằm . Tuy nhiên sản lượng bông đay , tơ tằm vẫn
còn thấp ,chất lượng kém do sử dụng giống cũ đã thoái hoá , máy móc trong trang bị
trong khâu thu hoạch và bảo quản còn lạc hậu , giá thành cao hơn giá của nguyên liệu
ngoại nhập . Hơn nữa , từ năm 1993 đến nay , diện tích trồng các loại nguyên liệu này
đã giảm mạnh do ngành dệt chưa có kế hoạch thu mua khiến cho người trồng trọt lo
lắng vì giá cả , thị trường tiêu thụ không ổn định . Chính vì vậy , hàng năm chúng ta
phải nhập khẩu với số lượng lớn, bông , đay , tơ tằm và các nguồn sợi tổng hợp khác .
Nguyên liệu của ngành may cũng vậy , vải trong nước cung cấp cho may công
nghiệp rất ít doanh nghiệp đáp ứng được , Mặc dù , một vài năm gần đây công nghệ dệt
của ta đã có những bước tiến đáng kể nhưng nhìn chung chưa đồng bộ , chất lượng vải
chưa cao. Tính trong toàn bộ năm 1998 lượng bông nhập khẩu là 78 triệu USD , lượng
sợi các loại là 207 triệu USD , vải các loại là 418 triệu USD . Đáng chú ý là lượng vải
nhập khẩu cho gia công là 392 triệu USD , trong khi lượng vải nhập khẩu cho kinh
doanh là 27 triệu USD . Chính vì thế , giảm bớt sự phụ thuộ về nguyên liệu trong
ngành dệt – may vừa là mong muốn chủ quan vứa là yêu cầu khách quan .
Ngoài ra ngành dệt may còn phải nói đến đổi mới công nghệ , theo đánh giá chung
thiết bị và công nghệ của ngành dệt may Việt Nam hiện nay lạc hậu khoảng 10-20 năm
so với thế giới . Tuy nhiên so với năm gần đây , có khá nhiều thiết bị , máy móc tiên
tién đã được đưa vào sản xuất thay thế cho thiết bị cũ , đặc biệt là ngành may . Nhiều
doanh nghiệp đã trang bị nhữnh thiết bị chuyên dùng như máy thêu tự động , máy cắt ,
hệ thống ủi hơi hập từ các nước công nghiệp tiên tiển . Điều đáng buồn là việc đầu tư
trong ngành dệt may không được xem xét dưới các góc độ bảo đảm sự phát triển kinh tế
bền vững của một ngành nói riêng và của toàn nền kinh tế nói chung . Đầu tư không
đồng bộ giữ ngành may và ngành dệt và giữa các công đoạn trong quá trình sản xuất
của một doanh nghiệp . Hầu hết , các chủng loại máy may và công nghệ đang sử dụng
trong nghành may đều là máy mới . Ngược lại ngành dệt may chưa có sự thoả đáng ,

ngành dệt còn 50% thiết bị đã sử dụng trên 20 năm . Sự đồng bộ này còn được thể hiện
ngay ở lượng FDI vào ngành dệt may Việt Nam trong những năm vừa qua .
Với tình hình trên , nếu việc đầu tư đổi mới công nghệ dệt – may không được cải tiến
và không có một chiến lược xét trên giác ngộ toàn ngành dệt sẽ mãi mải tụt hậu so với
ngành may và ngành may cũng sẽ bị suy giảm khi Việt Nam không còn thế mạnh là
nước có giá trị nhân công rẻ .
2.4. Một số đánh giá về thực trạng thương mại dệt may Việt Nam-EU
Từ khi nền kinh tế nước ta mới chập chững vận hành theo cơ chế thị trường ngành
công nghiệp dệt may đã chứng tỏ vai trò quan trọng của mình , với đặc điểm sử dụng
nhiều lao động . Ngành dệt may đã khai thác được lợi thế so sánh của nước ta và trở
thành một trong năm ngành công nghiệp chủ lực của Việt Nam kim ngạch xuất khẩu
hàng dệt may tăng lên nhanh chónh từ năm 1989- 1997 và luôn chiếm vị trí thứ hai sau
dầu thô . Riêng năm1998 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã vươn lên vị trí đầu
bảng với 1,375 tỷ USD .
Tuy nhiên việc xuất khẩu mặt hàng này trong năm 1998 cũng đầy “sóng gió” . Mặc
dù giữ vị trí đầu bảng nhưng cũng chỉ là mức đã đạt trong năm 1997 và thấp khá xa so
với mức dự kiến 1,5 tỷ USD ban đầu . Sự chững lại trong xuất khẩu mặt hàng này là do
thị phần ở thị trường phi hạn ngạch giảm quá mạnh từ 900 triệu USD năm 1997 xuống
chỉ còn 700 triệu USD năm 1998 . Đồng thời vơíi sự suy giảm vai trò của thị trường các
quốc gia Châu á đối với ngành dệt may Việt Nam , vai trò của thị trường EU càng được
củng cố . Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vẫn tăng 30% sau khi hiệp định
dệt may Việt Nam EU giai đoạn 1998-2000 có hiệu lực , chiếm khoảng 45% so với
tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may EU thực sự là một thị trường xuất khẩu chủ
đạo của ngành dệt may Việt Nam .
Đối với hàng hoá trong lĩnh vự dệt may nhập từ EU vào Việt Nam , tỷ lệ hàng thành
phẩm rất ít , chủ yếu là các loại máy móc , thiết bị , vật tư nguyên liệu và hoá chất .
Mặc dù chất lượng hàng dệt may của EU rất cao , nhưng kích thước mẫu mã mầu sắc
lạI không phù hợp với thị hiếu của người Việt Nam .
Nhìn chung cơ cấu trao đổi hàng hoá đã thể hiện đúng khả năng và nhu cầu của mỗi
bên . Cơ cấu trao đổi này cũng hoàn toàn phù hợp với mục tiêu của công cuộc công

nghiệp hoá , hiện đại hoá mà Việt Nam đang theo đuổi . Trong những năm tới , chúng
ta cần phải tiếp tục khai thác thị trường EU theo hướng này . Có như vậy chúng ta mới
tận dụng được tiềm năng của mình và khai thác được các mặt mạnh của EU .
Thành quả đã đạt được trong những năm qua là kết quả của những lỗ lực từ hai phía .
Phía Việt Nam , chúng ta không ngừng cải tiến mẫu mã , nâng cao chất lượng , hạ giá
thành sản phẩm để đáp ứng nhu cầu các khách hàng EU . Ngược lại EU cũng dành cho
chúng ta những điều kiện có lợi để thúc đẩy quan hệ buôn bán mặt hàng này . Tuy
nhiên , việc thâm nhập một thị trường kỹ tính như EU trong khi chúng ta chưa phải là
thành viên của WTO quả là đIều hết sức khó khăn . Mặc dù , kim ngạch xuất khẩu dệt
may sang thị trường EU có tăng , song đó vẫn chưa phải là tất cả những gì chúng ta
mong đợi . Nguyên nhân của việc này cũng chính là khó khăn thách thức má các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam phải đối đầu khi thâm nhập thị trường EU .
Thứ nhất : Phương châm “may làm lối ra cho dệt” chưa được thể hiện trong việc sản
xuất và xuất khẩu sang thị trường EU . Vải sản xuất trong nước không đáp ứng được độ
đồng đều về mầu sắc , độ co rút sự đa dạng chủng loại , tính thời trang … Chẳng hạn
với tiêu chuẩn vải may sơ mi xuất khẩu sang thị trường EU là sợi bông 100% nhưng
yêu cầu hình thức như Polyeste thì các công ty dệt may Việt Nam đều không đáp ứng
được .
Ngoài chênh lệch sản phẩm giữa dùng sợi nội và sợi ngoại là khá lớn , giá bán vải nội
có khi còn cao hơn cả giá vải nhập khẩu ,dùng vải nội phải chịu mấy lần tính thuế ( thuế
sợi , vải mộc , vải thành phẩm …) Với tình hình trên phía các doanh nghiệp may chưa
tìm thấy sự hấp dẫn của vải nội và cũng chưa tích cực tìm kiếm cơ hội . Mặt khác vấn
đề nguyên liệu chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng phương thức
gia công chiếm tỷ lệ chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU .
Thứ hai : ở Việt Nam ngành kinh doanh mẫu mốt chưa trở thành một ngành kinh tế
độc lập . Trong khi Châu Âu là cái nôi thời trang của thế giới , người Châu Âu nổi tiếng
“sành ăn , sành mặc” . Chính vì thế , hầu hết mẫu mã của hàng dệt may sang thị trường
EU do phía đối tác cung cấp . Với khả năng hiện tại , mẫu mã sản phẩm chúng ta chưa
có tính chủ động , sáng tạo , có bản sắc riêng mà được khách hàng EU chấp nhận.
Hiện nay đa số các cơ sở thiết kế thời trang của ta thường làm theo kiểu Photocopy

bằng cách cóp nhặt tổng hợp các mẫu mãvốn đã được lăng xê thành sản phẩm trước đó .
Ngay ở Viện mẫu thời trang – nơi được xem là cơ sở làm việc có bài bản nhất ở Việt
Nam thì các trang thiết bị phục vụ nghiên cứu mẫu mốt có thể nói gần như không có gì :
không có hệ thống máy vi tính, việc thiết kế làm bằng thủ công, sự hiểu biết thị hiếu
mẫu mốt nước ngoài quá ít ( vì không có tài chính cử cán bộ đi khảo sát ) , cán bộ
nghiên cứu của Viện vốn được đào tạo cơ bản nhưng so với tình hình hiện giờ thì đã lạc
hậu, không được bổ túc thêm .
Thứ ba : Trong phương thức gia công, các doanh nghiệp của ta phần lớn phải chấp
nhận “phương thức tam giác”, 3 đỉnh của tam giác gồm: nhà sản xuất ( doanh nghiệp
Việt Nam ) khách hàng ( doanh nghiệp EU ) – người tiêu dùng. Chính khách hàng EU
mới là người khai thác thị trường. Họ đưa mẫu, nguyên phụ liệu, ta sản xuất, họ đóng
gói mác, nhãn hiệu. Người tiêu dùng chỉ biết đến họ với tư cách là nguồn cung cấp chứ
không quan tâm đến nhà sản xuất. Điều này dẫn đến các doanh nghiệp thu được một số
ít ngoại tệ ít ỏi nhưng uy tín sản phẩm của ta không hề được biết đến, tất cả những yếu
tố thị trường ( giá cả, sức mua, tâm lý tiêu dùng, sự biến đổi sở thích … ) ta hoàn toàn
không nắm được. Nói cách khác, “trong phương thức tam giác” ta chỉ là nhà sản xuất,
còn thị trường là của đối tác EU .
Thứ tư : Cho đến hôm nay, số nhóm mặt hàng xuất đi EU bị khống chế bởi hạn
ngạch chỉ còn 29 cat, nhưng vẫn là nhiều so với các nước xung quanh ( 29 so với 20
của Thái Lan, 8 của Singapore, 10 của Indonesia … ) Xét về khối lượng quota thì Việt
Nam vẫn bị đối sử không công bằng so với Trung Quốc cũng như một nước ASEAN
khác vì họ được xuất khẩu nhưng mặt hàng tương tự vào EU với lượng lớn hơn của
Việt Nam
Việc sử dụng các nguyên phụ liệu nhập khẩu từ EU để làm hàng thành phẩm xuất
khẩu trở lại EU là một giải pháp tình thế không có lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam .
nếu dùng nguyên phụ liệu tương tự nhập khẩu từ các nước Châu á với giá thấp hơn
nhưng vẫn đảm bảo số lượng mà được EU chấp nhận thì sẽ có lợi hơn cho các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam .
Theo đánh giá của Bộ thương mại , trong những năm tới thị trường Mỹ còn có nhều
phức tạp , thị trường các nước Châu á vẫn chịu ảnh hưởng vủa cuộc khủng hoảng nên

trọng tâm của thị trường hàng dệt may Việt Nam sẽ là liên minh Châu Âu và các nước
Liên Xô cũ . Trong đó , thị trường EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ đạo . Để khai
thác thị trường EU có hiệu quả , các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nỗ lực để
tranh thủ tốt nhất những lợi thế hạn chế những bất lợi . Đặc biệt phải phấn đấu nâng cao
chất lượng sản phẩm , cải tiến mẫu mã đáp ứng đúng thị hiếu của người tiêu dùng ,
nâng cao uy tín để chủ động chiếm lĩnh thị trường Châu Âu .
Chương 3 Các giảI pháp thúc đẩy thương mạI việt nam – eu trong lĩnh vực dệt – may
3.1. Định hướng của ngành dềt may Việt Nam .
Phát triển ngành dệt may ngang tầm nhiệm vụ một ngành công nghiệp chủ lực và
sánh ngang trình độ phát triển của ngành dệt may các nước trong khu vực và phát triển
trên thế giới , ngành dệt may đã xây dựng một quy hoạch phát triển đến năm 2010 .
Trong đó mục tiêu và những định hướng được xác định cụ thể như sau :
- Năm 2000 sản xuất được 800 triệu mét vải lụa thành phẩm kim ngạch đạt
khoảng 2 tỷ USD và tạo việc làm cho khoảng 1 triệu lao động .
- Năm 2010 sản xuất được 2 tỷ mét vải tụa thành phẩm , kim ngạch xuất khẩu đạt
4 tỷ USD và tạo việc làm cho khoảng 1,8 triệu lao động .
- Các sản phẩm chủ yếu của ngành dệt may sẽ là hàng sợi bông chiếm 40% vải
P/C chiếm 30% vải sợi tổng hợp chiếm 30% . Các sản phẩm của ngành dệt may là sản
phẩm ở khâu cuối cùng chứ không phải là sản phẩm gia công ở khâu trung gian . Quần
áo may sẵn và hàng dệt kim được tăng lên với tỷ lệ thích đáng .
b- Mục tiêu sản phẩm xuất khẩu
c-Mục tiêu sản xuất phụ liệu phục vụ sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
1. Chỉ may Tấn 2788
2. Nhãn dệt Triệu chiếc 600
3. Bông tấm Triệu m2 31
4. Mếch Triệu m2 16,4
5. Cúc đính Triệu chiếc 1528
6. Cúc đập Triệu bộ 134,5 310
7. Khoá kéo Triệu m 70
Nguồn ( a, b, c ) Dự án quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp

dệt may đến năm 2010 . Tổng công ty dệt may Việt Nam .
Để đạt được mục tiêu ngành dệt may cần phải phấn đấu :
Thứ nhất : Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành dệt may phải đạt 10%
và giải quyết các nhu cầu về nguyên liệu dự kiến : Bông thiên nhiên 340.000 tấn , xơ
PE là 90 nghìn tấn , sợi PETEX hơn 1000 tấn . trong đó ngành dệt phảI phấn đấu sản
xuất 50% sản lượng bông thiên nhiên và 10% xơ PE.
Thứ hai : Đến năm 2010 toàn ngành dệt may sẽ phải cần tới 4,8 tỷ USD để đầu tư
cho các dự án mới . Trong đó khoảng 3,8 tỷ USD sẽ được đầu tư cho thiết bị và khoảng
1 tỷ đầu tư cho xây dựng , phần đầu tư cho thiết bị ngành dệt sẽ là 3,41 tỷ USD và
ngành dệt may là 390 triệu USD.
Đầu tư vào ngành dệt may sẽ được thực hiện theo ba giai đoạn . trước năm 2000 phảI
đầu tư 668 triệu USD từ năm 2000 đến 2005 đầu tư khoảng 2 tỷ USD phần còn laị dành
cho giai đoạn thứ ba từ 2005 – 2010 .
Nguồn vốn này được qua nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như qua đầu tư nước,
trong đó nguồn vốn trong nước là chủ yếu.Ngoài ra ngành dệt may cũng kiến nghị với
nhà nước cấp qũy đất để phát triển sản xuất và tham gia liên doanh liên kết với nước
ngoài .
Thứ ba : Qui hoạch phát triển ngành dệt may thành các vùng chính như sau :
- Về dệt : Vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long , tập chung chủ yếu
vào thành phố Hồ Chí Minh , Đồng Nai , An Giang , Bình Dương , Đồng Tháp , Tây
Ninh , Long An … Dự kiến sản lượng 50%-60% và mức vốn các dự án mới của các
doanh nghiệp Việt Nam là 35% . Vùng đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh lân cận
gồm thành phố Hà Nội , tỉnh Hà Tây , Hải Hưng , Hải Phòng , Thái Nguyên … Dự kiến
chiếm 30%-40% về sản lượng và 55% về vốn vùng Duyên HảI miền Trung và một số
tỉnh khu bốn cũ gồm Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hoà, Thừa Thiên Huế … Dự kiến
10% sản lượng và 10% về vốn.
- Về may mặc: phân bố trên các địa phương để phục vụ nhu cầu trong nước và tập
trung tại 3 vùng phát triển dệt để tham gia xuất khẩu ưu tiên các vùng địa bàn thuận tiện
giao thông bến cảng. -
3.2. Định hướng thương mại dệt may Việt Nam- EU:

Trên cơ sở Hiệp định khung giữa Việt Nam và EU ký kết vào tháng 7 năm 1995:
“các bên cam kết phát triển và đa dạng hoá trao đổi thương mại giữa hai bên và cải
thiện tiếp thị tới mức cao nhất có thể được. Các bên trong khuôn khổ hiện hành của luật
pháp và thể lệ của mỗi bên cam kết thực hiện chính sách nhằm cải thiện cách thức thâm
nhập cho sản phẩm của mình vào thị trường của nhau, hai bên sẽ dành cho nhau các
điều kiện thuận lợi nhất về nhập khẩu và xuất khẩu và thoả thuận xem xét cách thức
biện pháp nhằm loại bỏ hàng rào thương mại giữa hai bên, đặc biệt là hàng rào phi thuế
quan …” hai bên đã có rất nhiều cuộc gặp gỡ trao đổi nhằm thúc đẩy thương mại ngành
dệt may
Dựa trên sự phân tích thực trạng thương mại với EU trong lĩnh vực dệt may và Hiệp
định dệt may Viềt Nam – EU giai đoạn 1998- 2000 , hoạt động buôn bán hàng dệt may
với EU trong thời gian tới sẽ được tăng cường theo các hướng sau :
- Mục tiêu cơ bản của ngành dệt may Việt Nam đối với thị trường EU vẫn là :
phấn đấu nâng cao sản phẩm cải tiến mẫu mã đáp ứng được đúng thị hiếu cuẩ người
tiêu dùng tạo uy tín để chiếm lĩnh thị trường EU tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu , hạn
chế việc khai thác sản phảm bằng hình thức gia công thuần tuý , gia tăng hình thức
mua nguyên vật liệu và bán thành phẩm .
- Việc xuất khẩu vào EU những sản phẩm liệt kê tại phụ lục II(Hiệp định dệt may
Việt Nam –EU giai đoạn 1998 – 2000) được tăng cường , nhưng phải được hạn chế tốt
số lượng đươc EU ấn định cho hàng năm . Trong việc phân bố quota xuất khẩu vào EU
, các cơ quan hữu quan của Việt Nam sẽ không phân biệt đối xử với các công ty do các
nhà đầu tư EU sở hữu một phần hay toàn bộ đang hoạt động tại Việt Nam .
- Việc quản lý hạn ngạch xuất khẩu sang thị trường EU có những điểm khác biệt
so với các năm trước . Tổng lượng hạn ngạch do EU ấn định sẽ được chia làm 3 phần
được phân bố cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may sang EU làm bằng vải sản
xuất trong nước , phần còn lại sẽ cho đấu thầu nhằm giảm cơ chế xin cho và tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp tự vận động trong cơ chế thị trường .
- Trong trường hợp cần thiết , Liên bộ Thương mại và Bộ công nghiệp sẽ sử dụng
trước một phần quota của năm kế tiếp ấn định tại phụ lục II ( Hiệp định dệt may Việt
Nam – EU giai đoạn 1993-1997 ) cho mỗi chủng loại sản phẩm tới mức 5% quota của

năm thực hiện . Tất nhiên , phần sử dụng trước phải trừ vào lượng quota ấn định cho
năm kế tiếp đó , số lượng quota không sử dụng hết của năm trước sẽ được chuyển sang
cho năm kế tiếp đối với mỗi chủng loại tới mức 7% quota cụ thể của năm thực hiện .
- Các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may sang thị trường EU được phép
chuyển giao giữa các chủng loạI 4,5,6,7,8 nhưng chỉ giới hạn ở mức 7% quota của
chủng loại được chuyển đổi . Có thể chuyển sang bất kỳ loại nào thuộc các nhóm 2, 3,
4, 5 từ bất kỳ chủng loại
nào thuộc các nhóm 1, 2, 3, 4, 5 tới mức 7% quota của chủng loại được chuyển tới .
3.3. Các giải pháp nhằm thúc đẩy hợp tác thương mại Việt Nam-EU trong lĩnh vực
dệt may .
Tăng cường khai thác thị trường EU là một trong những mục tiêu của ngành dệt may
Việt Nam góp phàn làm cho ngành dệt may phát huy vai trò là những công nghiệp xuất
khẩu chủ lực . Tuy nhiên qua phân tích thực trạng thương mại Việt Nam – Eu trong lĩnh
vực dệt may cho thấy quá trình thâm nhập thị trường EU gập rất nhiều khó khăn . Nười
tiêu Châu Âu rất khó tính đối với hàng may mặc liên kết giữa các quốc gia Châu Âu rất
chặt chẽ cạnh tranh trên thị trường găy gắt … trong khi khả năng của chúng ta lại có
hạn chế : Thiếu vốn , công nghệ lạc hậu … do đó sản phẩm của chúng ta chất lượng
chưa cao , mẫu mã không phong phú . Vì vậy ngành dệt may Việt Nam cần phảI có hệ
thống biện pháp phù hợp từ tầm vĩ mô đến vi mô thì mới có thể khai thác được thị
trường EU .
3.3.1.Tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại :
Trong các thể chế của Liên minh Châu Âu, Uỷ ban Châu Âu là cơ quan phụ trách
kinh tế đối ngoại . Chính vì thế muốn mở rộng quan hệ với Eu nói chung và trong
lĩnh vực dệt may nói riêng, chúng ta cần tăng cường quan hệ với Uỷ ban Châu Âu. Mặt
khác, để hoà nhập vào thị trường EU, đIều quan trọng là chúng ta cần phảI xác định
được “cầu nối” trong quan hệ với EU. Trong tất cả các mối quan hệ giữa chúng ta với
các quốc gia thành viên của EU thì mối quan hệ Việt- Pháp là lâu dàI và sâu sắc nhất.
Với những tiềm năng kinh tế và ảnh hưởng của Pháp trên thị trường quốc tế, thực sự là
“cầu nối” Việt Nam và EU. Pháp có ảnh hưởng lớn lạI nằm trong nhiều khối liên minh,
vì vậy, chúng ta cần có các mối quan hệ Việt- Pháp ngày càng có hiệu quả hơn. Bên

cạnh đó, chúng ta cũng phảI có những chính sách riêng đối với Pháp.
Một cầu nối khác không kém phần quan trọng là thông qua ASEAN. Với tư cách
là một thành viên đầy đủ ASEAN, chúng ta cần khai thác những lợi ích của các phương
tiện và các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ hợp tác EU-ASEAN. NgoàI ra, để hàng
dệt may Việt Nam có đủ sức cành tranh với các đối thủ khác thị trường EU, Việt Nam
cần xúc tiến mạnh mẽ việc gia nhập WTO, đặc biệt là khi Hiệp định đa sợi đã được
thay thế bằng Hiệp định về hàng dệt may. Để thấy được sự cần thiết của việc gia nhập
WTO đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU.
Theo MFA, các nước nhập khẩu có thể thông qua các thoả thuận song phương hoặc
trong trường hợp không đI đến thoả thuận song phương có thể đơn phương thiết lập hạn
ngạch nhập khẩu hàng dệt may đối với từng nước xuất khẩu và mức tăng của hạn ngạch
thay đổi tuỳ theo mỗi nước. Như vậy, MFA đIều tiết buôn bán hàng dệt may không
tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử và loạI bỏ hạn chế số lượng của GATT.
Người ta cho rằng MFA đã làm biến dạng hình thức buôn bán và sản xuất các sản
phẩm dệt may, các nước được hưởng lợi trong buôn bán quốc tế hàng dệt may là các
nước công nghiệp phát triển.
Năm 1994, trong khuôn khổ vòng đàm phán Urugoay của WTO. Hiệp định về
hàng dệt may (ATC) ra đời. Theo ATC hàng dệt may sẽ được hội nhập dần dần theo
các quy tắc thông thường của GATT, chấm dứt trường hợp ngoạI lệ trong kinh doanh
các sản phẩm dệt may như quy định của MFA. Các thoả thuận về hạn chế số lượng
trước đây giữa các nước xuất khẩu và nhập khẩu sẽ được hạn chế loạI bỏ dần dần, thời
gian cho việc này kéo dàI trong 10 năm, được chia thành các giai đoạn: Từ ngày
1/1/1995 đến 31/12/1997: 16% tổng khối lượng hàng dệt may nhập khẩu trong năm
1990, sẽ không bị hạn chế về số lượng trong buôn bán hàng dệt may giữa các nước xuất
khẩu và nhập khẩu. Từ ngày 1/1/1998 đến 31/12/2000, tương tự là 17%. Từ 1/1/2001
đến 31/12/2004 là 18%. Từ 1/1/2005 là tất cả các số lượng hàng còn lại.
Trong từng giai đoạn, mỗi nước nhập khẩu có quyền chọn bất kì một sản phẩm nào
trong 4 loạI: sợi, vảI, sản phẩm dệt và quần áo may sẵn để đưa vào danh mục buôn bán
không hạn chế số lượng. Đối với những sản phẩm buôn bán , theo hạn chế về số lượng
các nước áp dụng phảI chứng minh được các sản phẩm này đang làm thiệt hạI nghiêm

trọng đến sản xuất các sản phẩm tượng tự ở trong nước. ACT là một kết quả rất quan
trọng của vòng đàm phán Urugoay. Hiệp định ACT sẽ làm tăng khả năng tiếp cận thị
trường nước ngoàI cho các nhà sản xuất hàng dệt may, hứa hẹn tăng việc làm và cơ hội
kinh doanh cho các nước đang phát triển. Chính vì thế, Việt Nam cần xúc tiến việc gia

×