Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn: Ngân hàng công thương chi nhánh II và vai trò trong tín dụng ngắn hạn docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (604.08 KB, 101 trang )







Luận văn: Ngân hàng công thương chi
nhánh II và vai trò trong tín dụng ngắn
hạn

Lời nói đầu
Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng
đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công nhất định. Xu thế
hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt. Đặt hệ thống ngân hàng Việt Nam
trước những vận hội mới cũng như những khó khăn phải đối mặt. Hoạt động của
ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện rất lớn cho nền kinh tế phát triển và
ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát
triển của cả nền kinh tế, thẩm chí cả nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan
trọng của tín dụng và vai trò của ngân hàng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có
nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng cũng như chất lượng tín
dụng trong toàn bộ hệ thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng
do nợ tồn đọng từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát
sinh. Năm 2001 , theo thống kê của NHNN Việt Nam thì nợ quá hạn của NHTM
Việt Nam là 11%. Đây là trở ngại rất lớn cản trở sự phát triển của ngân hàng. Để
phát triển ổn định và bền vững thì đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần tiếp tục
đổi mới hơn nữa.
Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, chi nhánh NHCTII-
HBT cũng có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả hoạt động
trong những năm gần đây có thể thấy có một số vấn đề cần phải khắc phục trong
thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỷ trọng ngày càng giảm
trong tổng dư nợ, mặc dù về số tuyệt đối thì có sự tăng lên trong các năm gần đây.


Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã tích cực xử lý nhưng vẫn chưa đạt
yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỷ trọng cao

trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với sự đổi mới thì nâng cao chất lượng tín dụng
ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT là điều hết sức cần thiết để để chi nhánh phát
triển vững chắc.
Xuất phát từ hoàn cảnh phát triển nền kinh tế và thực trạng hoạt động tín dụng
của chi nhánh NHCT-HBT, em đã nghiên cứu và tìm hiểu về tình hình hoạt động tín
dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT với để tài “Vai trò tín dụng ngắn hạn và
iải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT”. Bài
viết tập trung nghiên cứu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn, tập
trung vào những vấn để liên quan đến hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-
HBT. Trong khuôn khổ bài viết này, em chia thành 3 phần:
ChươngI: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn.
ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-HBT.
ChươngIII: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của NHCTII-
HBT.
Em xin chân thành cảm ơn GS – Tiến sĩ Cao Cự Bội đ• tận tình giúp đỡ em
hoàn thành bài viết này. Em cũng xin cảm ơn cán bộ công tác tại NHCTII-HBT đ•
tạo mọi đIều kiện và tận tình giúp đỡ trong thời gian em thực tập và hoàn thành bài
viết này.
Chương I: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn
1. Tổng quan về Ngân Hàng Thương Mại.
1.1 Khái niệm về NHTM.
Thuật ngữ Ngân hàng có từ rất lâu, trước khi nền sản xuất hàng hoá ra đời. Tuy
nhiên, ngay từ đầu nó không mang cái tên Ngân hàng. Xuất phát từ nhu cầu của

cuộc sống và công việc buôn bán mà các thương gia đã lập ra những nơi để đổi tiền,
nhận tiền gửi và thu phí của người gửi, họ giúp chi trả và thanh toán hộ người gửi
và ba nghiệp vụ đầu tiên hình thành, đó là: đổi tiền, nhận tiền gửi và thanh toán hộ.

Lúc đầu người gửi tiền phải trả một khoản tiền phí cho các thương nhân này, nhưng
về sau do áp lực cạnh tranh và do các khoản tiền gửi này sinh lợi nên các thương
nhân này đã trả phí cho người gửi để tăng khả năng huy động. Qua một thời gian
các thương gia này thấy rằng: luôn có một lượng tiền mặt ổn định đọng trong két
họ. Trong khi đó một số thương gia buôn bán lại có nhu cầu vay. Vì vậy họ cho vay
để kiếm thêm lợi nhuận, chính là mầm mống xuất hiện những nghiệp vụ nền tảng
của NHTM.
Hoạt động và vai trò của ngân hàng không phải là bất biến, mà liên tục phát triển
theo các điều kiện kinh tế xã hội. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng càng ngày
càng phát triển, đã tạo một nghành công nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, đó
là NHTM. Nền kinh tế càng ngày càng phát triển, nhu cầu ngày càng phong phú và
được nâng cao, chính vì vậy bên cạnh những nghiệp vụ cơ bản, NHTM đ• cho ra
đời nhiều dịch vụ mới như: Dịch vụ bảo lãnh L/C, nghiệp vụ thuê mua, phát hành
các chứng chỉ tiền gửi, chiết khấu hối phiếu…
Hai ngân hàng thương mại đầu tiên trên thế giới đó là Banca di Baralone(1401) và
Banca di Valencia(1409) cả hai đều ở Tây Ban Nha.
Mặc dù NHTM ra đời từ rất lâu nhưng các nhà kinh tế học, các nhà kinh tế vẫn
chưa nhất trí với nhau về dịnh nghĩa ngân hàng bởi do sự khác biệt về luật pháp, số
lượng các nghiệp vụ, bối cảnh kinh tế, xã hội của các vùng khác nhau…

Ngày nay, việc kinh doanh dịch vụ tiền tệ không còn là độc quyền của ngân hàng.
Cùng với các ngân hàng, kinh doanh và làm dịch vụ còn có những tổ chức tài chính
kinh doanh những loại hình tương tự như công ty bảo hiểm các loại, các hiệp hội
tiết kiệm cho vay , các quỹ hưu trí, các tổ chức tín dụng tiêu dùng, các quỹ tín dụng,
hợp tác xã tín dụng… Tuy nhiên trong bất cứ nước nào trên thế giới, thì ngân hàng
thương mại vẫn là tổ chức tài chính lớn nhất, quan trọng nhất trong giới kinh doanh
tiền tệ.
Việt Nam, theo pháp lệnh “ NH, HTX tín dụng và công ty tài chính” ban hành
ngày24/05/1990 thì “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng

số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán”. Còn theo luật các tổ chức tín dụng ban hành26/12/1997 NHTM là một doanh
nghiệp thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng đó là “ hoạt động kinh doanh tiền tệ
và dịch vụ ngân hàng với nội dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử
dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng ra đời ở nước ta năm1951 với tên gọi “Ngân hàng quốc gia Việt Nam”.
Sự ra đời ngân hàng Việt Nam mang nét đặc trưng riêng biệt: Ngân hàng nhà nước
ra đời vừa làm chức năng quản lý tiền tệ vừa làm chức năng của NHTM( ngân hàng
một cấp). Cho đến 26/03/1988, nghị định 53/HĐBT quyết định chia hệ thống ngân
hàng Việt Nam thành 2 cấp, tách bạch chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ(Ngân
hàng nhà nước) và chức năng kinh doanh tiền tệ(Ngân hàng thương mại). Trong
những năm qua cùng với sự phát triển của đất nước, nghành ngân hàng đã có những
phát triển vượt bậc góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Ngành ngân hàng

ngày càng hiện đại về công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng, tham gia
rộng rãi vào thị trương tiền tệ trong khu vực và quốc tế.
1.2 Chức năng của NHTM.
Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó. Các chức
năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn
chung có các chức năng sau:
1.2.1 Chức năng tạo tiền.
Để phục vụ cho lưu thông, giúp cho nền kinh tế phát triển, NHNN đưa một khối
lượng tiền nhất định vào trong lưu thông. Lượng tiền đó phải đảm bảo đáp ứng nhu
cầu của nền kinh tế, nhưng lượng tiền cung ứng vượt quá nhu cầu của nền kinh tế sẽ
gây ra lạm phát có hại cho nền kinh tế. Với một lượng tiền cung ứng ban đầu, thông
qua hoạt động nhận tiền gửi và cho vay của hệ thống NHTM đ• làm tăng lượng tiền
cung ứng so với ban đầu. Đây là chức năng chủ yếu của NHTM, chức năng tạo tiền.
Và thông qua chức năng này của NHTM mà NHNN với những công cụ của mình
như dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu… có thể thực hiện các chính sách tiền tệ
quốc gia nhằm đưa ra một khối lượng tiền phù hợp, ổn định được giá trị đồng tiền.

1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán.
Với hoạt động này của mình, NHTM đã tạo điều kiện cho việc thanh toán giữa các
tổ chức cá nhân… được thuận tiện và đặc biệt là tiết kiệm được chi phí cho họ cũng
như tiết kiệm chi phí cho xã hội. Bởi vì việc thanh toán qua ngân hàng được thực
hiện tập trung, chuyên nghiệp và có công nghệ cao. Và cũng qua hoạt động thanh
toán NHTM thu được những lợi ích nhất định. Ngày nay hoạt động thanh toán ngày

càng phát triển tại các NHTM. Việc thanh toán không dùng tiền mặt được các ngân
hàng khuyến khích.
1.2.3 Hoạt động huy động tiền gửi.
Để có được nguồn vốn để thực hiện việc đầu tư tín dụng, NHTM đã tiến hành đã
tiến hành huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Việc huy động vốn này
giúp cho NHTM có đủ lượng vốn đáp ứng cho nhu cầu của nền kinh tế. Tạo ra thu
nhập cho người gửi tiền là một lợi ích mà hoạt động huy động vốn của ngân hàng
mang lại. Những người gửi tiền vào NHTM sẽ được nhận tiền l•i, tạo thu nhập cho
những khoản tiền nhàn rỗi của họ. Ngày nay để huy động được nhiều tiền gửi,
NHTM đã phát triển rất nhiều loại tiền gửi khác nhau: Có kỳ hạn hoặc không có kỳ
hạn, tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi tiết kiệm…
1.2.4 Hoạt động tín dụng.
Đây là hoạt động chủ yếu của NHTM bởi nó tạo ra thu nhập chính cho NHTM, duy
trì sự tồn tại của NHTM. Đây cũng là hoạt động cơ bản và lâu dài của NHTM.
NHTM dùng những khoản vốn huy động được để cho vay đối với nền kinh tế, nhằm
giúp những người có nhu cầu có được vốn để thực hiện quá trình sản xuất kinh
doanh của mình hoặc đảm bảo các nhu cầu khác. Với việc cho vay này NHTM đã
tạo cho sự phát triển kinh tế được thông suốt và hiệu quả. Bởi nếu không có nguồn
vốn vay từ ngân hàng thì rất nhiều doanh nghiệp không thể tiến hành quá trình sản
xuất kinh doanh được. Hầu như mọi doanh nghiệp hiện nay đều vay vốn ngân hàng.
Bên cạnh đó hoạt động cho vay mang lại thu nhập cho ngân hàng dưới dạng lãi vay.
Càng cho vay được nhiều thì lãi thu được càng lớn. Tuy nhiên hoạt động tín dụng
tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy việc nâng cao các khoản tín dụng là mục tiêu hàng đầu,


sống còn trong hoạt động kinh doanh của mình để vừa đảm bảo có thu nhập cao vừa
an toàn, hiệu quả.
1.2.5 Tài trợ hoạt động ngoại thương
ngày nay khi mà hoạt động thương mại quốc tế ngày một phát triển, xuất nhập khẩu
giữa các nước đã diễn ra mạnh mẽ thì đòi hỏi việc thanh toán quốc tế cũng như
những hộ trợ khác cho thanh toán ngày càng nhiều. Việc đảm bảo thanh toán cho
các doanh nghiệp giữa các nước đòi hỏi một tổ chức đứng ra phải có đủ khả năng và
uy tín như NHTM mới đảm trách được. Các NHTM giúp cho các doanh nghiệp có
hoạt động đối ngoại thực hiện việc thanh toán được hiệu quả, an toàn và đặc biệt là
giảm được chi phí cho họ. Ngoài ra NHTM còn có hỗ trợ về vốn, nghiệp vụ giúp
cho các doanh nghiệp có thể thực hiện một cách thuận lợi và an toàn các hoạt động
ngoại thương. Cụ thể ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ mở L/C, séc chuyển tiền,
hối phiếu…
1.2.6 Hoạt động bảo lãnh.
Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn mà đòi hỏi về vốn và uy tín vượt
qua khả năng tài chính của mình, nhưng dự án đó là có hiệu quả. Vì vậy các doanh
nghiệp này rất cần một tổ chức đứng ra bảo lãnh cho họ để họ ký kết hoạt động thực
hiện dự án. Ngân hàng chính là người bảo lãnh tốt cho các doanh nghiệp bởi NHTM
có tiềm lực về vốn và uy tín. Mặt khác, NHTM có thể tư vấn cung cấp tiền tệ,
nghiệp vụ giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt dự án. Hiện nay, việc NHTM bảo lãnh
cho các doanh nghiệp là khách hàng của mình ngày càng phổ biến, điều đó mang lại
lợi ích cho cả hai bên: NHTM và doanh nghiệp.

Ngoài ra NHTM còn có nhiều chức năng khác như: Dịch vụ uỷ thác, bảo đảm an
toàn vật có giá…
1.3 Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại.
1.3.1 Nghiệp vụ nợ
hoạt động của NHTM dựa chủ yếu trên nguồn vốn huy động còn nguồn vốn tự có
của NHTM là rất nhỏ, nó chỉ là tấm đệm để hạn chế những rủi ro. Số vốn huy động

tại các NHTM chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau như: lãi suất, tình
hình kinh tế xã hội, cách thức gửi tiền và trả lãi, phong tục tập quán, địa điểm và
thái độ phục vụ của ngân hàng
Các hình thức huy động bao gồm:
- Tiền gửi thanh toán: Đây là loại tiền gửi không kỳ hạn, có hoặc không có lãi
suất. Mục đích của người gửi tiền là để hưởng các dịch vụ của ngân hàng phục vụ
cho quá trình thanh toán của mình. Loại tiền gửi này tuy có chi phí thấp nhưng chứa
đựng rủi ro cao, do người gửi có thể rút bất kỳ lúc nào. Tỉ lệ tiền gửi thanh toán ở
Việt Nam còn thấp rất nhiều so với tỷ lệ chung trên thế giới vì người dân nước ta
vẫn giữ thói quen sử dụng tiền mặt trong lưu thông.
- Tiền gửi tiết kiệm: Mục đích của loại tiền gửi này là để hưởng l•i suất. Có
hai loại tiền gửi tiết kiệm là: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không có kỳ hạn. Các
kỳ hạn do sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng.
Ngoài hai loại tiền gửi chủ yếu trên ngân hàng còn thực hiện một số hình thức tiền
gửi khác và ngân hàng không chỉ huy động vốn bằng tiền gửi mà còn có nhiều hình
thức huy động vốn khác như phát hành chứng khoán, vay trên thị trường tiền tệ, vay
từ tổ chức tín dụng khác, vay từ NHTW… Tuy nhiên, các hình thức này không

thường xuyên mà chỉ thực hiện trong những trường hợp nhất định, bởi chứa đựng
trong đó ràng buộc và điều kiện.
1.3.2 Nghiệp vụ có.
Đây là hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Ngân hàng dùng vốn huy động được
cùng với vốn tự có để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình nhằm tạo ra
nguồn thu nhập. Nghiệp vụ có của ngân hàng thể hiện ở các hoạt động sau:
- Hoạt động ngân quỹ: Mỗi ngân hàng đều phải giữ lại một khoản tiền tại két
của Ngân hàng để phòng những trường hợp rút tiền của người gửi, tránh được
những rủi ro về thanh toán. Nên có thể nói hoạt động này đảm bảo cho khả năng
thanh toán thường xuyên của ngân hàng. Khoản tiền bảo đảm khả năng thanh toán
của ngân hàng có thể là tiền tại két, tiền gửi NHTW, chứng khoán, tiền mặt trong
quá trình thu. Đó là những tài sản có tính thanh khoản cao. Những tài sản này không

sinh lời hoặc sinh lời thấp. Vì vậy, ngân hàng phải điều chỉnh lượng dự trữ này sao
cho hợp lý để đảm bảo khả năng sinh lời cao, vừa đảm bảo khả năng thanh toán tốt.
- Hoạt động cho vay: Đây là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của ngân
hàng, nó thường đem lại cho ngân hàng khoản lợi nhuận cao tới 60 – 70%. Mặt
khác, đây cũng là hoạt động nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Có thể nói hoạt động
tín dụng có mức độ rủi ro cao nhất, do đó để thực hiện có hiệu quả hoạt động này
các ngân hàng phải có những biện pháp để hạn chế những rủi ro bằng cách quản lý
chặt chẽ các khoản cho vay.
- Hoạt động thuê mua: Đây là hoạt động còn khá mới mẽ ở Việt Nam. Đây là
hình thức cung cấp tài chính cho khách hàng dưới hình thức thuê. Hoạt động này
cũng là một hình thức cấp tín dụng, nhưng nó có điểm khác biệt là quyền sở hữu

vẫn thuộc về bên cho thuê. Chỉ đến khi kết thúc hợp đồng. Người thuê có quyền
mua lại tài sản có ở mức giá thoả thuận giữa hai bên, ấn định từ khi hợp đồng này.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp: Bên cạnh các hình thức đầu tư gián tiếp bằng
cách cấp tín dụng ở trên, ngân hàng còn tham gia đầu tư trực tiếp vào một công
trình…Hoạt động này một mặt tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, mặt khác giúp bổ trợ
cho các hoạt động khác bởi đa dạng hoá giảm rủi ro. Cùng với việc nắm giữ chứng
khoán, ngân hàng có thể đảm bảo cho khả năng thanh toán của tài sản có sinh lời.
1.3.3 Nghiệp vụ trung gian.
Ngoài 2 nghiệp vụ trên, ngân hàng còn thực hiện cung cấp các dịch vụ khác cho
khách hàng nhằm thu phí và khuyến khích khách hàng đến với ngân hàng. Ngày
nay, hoạt động này ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Các hoạt
động trung gian bao gồm:
- Dịch vụ thanh toán và cung cấp phương tiện thanh toán: Ngân hàng đứng ra
làm trung gian thanh toán hộ cho khách hàng và phát hành các phương tiện nhằm
phục vụ cho thanh toán như: UNC, UNT, Sec, L/C…
- Dịch vụ môi giới: Ngân hàng tổ chức mua bán, lưu ký, bảo quản chứng
khoán cho ngân hàng. Tại Việt Nam, các ngân hàng thành lập ra các công ty chứng
khoán để thực hiện hoạt động này.

- Dịch vụ ngân quỹ: Ngày nay, khi mà thị trường không dùng tiền mặt thì hoạt
động này ngày càng phát triển rộng. Ngân hàng đứng ra thu hộ và phát tiền mặt cho
khách hàng.
- Dịch vụ chuyển tiền: Với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật thì dịch vụ này
ngày càng được nhiều người sử dụng.

- Dịch vụ bảo lãnh: Bằng uy tín và khả năng tổ chức của mình, ngân hàng
đứng ra bảo lãnh cho các công ty phát hành chứng khoán, bảo lãnh vay vốn, bảo
lãnh thực hiện hợp đồng…
- Dịch vụ tư vấn: Cung cấp thông tin và hỗ trợ về mặt chuyên môn cho khách
hàng.
- Dịch vụ bảo quản.
2. Lý luận chung về tín dụng
2.1. Khái niệm tín dụng
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp như: bán chịu hàng
hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc. Trong mỗi một
hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết với nhau như sau:
- Một bên trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc;
- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của tài hoá đó trong một thời
gian nhất định và theo một số điều kiện nào đó.
Trong quan hệ giao dịch trên thể hiện các nội dung:
Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái hay còn ngọi
là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể dưới hình thái giá trị
hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc, thiết bị bất động sản.
Người thụ trái hay là người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời một thời gian nhất
định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoã thuận, người đi vay phải hoàn trả cho
người cho vay.
Giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị cho vay hay nói cách khác người đi vay phải
trả thêm phần lợi tức. Thước đo phần lợi tức này là giá trị tài hoá hoặc tiền tệ và lãi


suất mà hai bên thoả thuận. Người cho vay phải tuân thủ nguyên tắc : L•i suất cho
vay phải chứa đựng các yếu tố như lạm phát, rủi ro và chi phí cơ hội. Người cho vay
phải chú ý đến giá trị thời gian của tiền.
Như vậy: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên
chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định,
đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả phần tài sản đã mượn cộng
thêm một phần lợi tức theo thời hạn đã thoả thuận.
Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh -credittum- có nghĩa là sự tín nhiệm. Trong
giới tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác tin tưởng và sẳn
sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự cho vay có hứa hẹn
thời tgian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức độ tín nhiệm của người cho vay, yếu
tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng, là điều kiện cần cho quan
hệ tín dụng phát sinh.
Do nhu cầu phát triển và đi lên của xã hội loài người mà quan hệ tín dụng đã hình
thành rất sớm. Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín dụng nặng lãi, quan hệ
tín dụng này hình thành từ đầu chế độ nô lệ và thậm chí còn tồn tại đến ngày nay.
Hình thức tín dụng này được coi là phương pháp tích luỹ nguyên thuỷ, là công cụ
đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn, tạo điều kiện cho phương thức sản
xuất mới ra đời ra đời. Quan hệ tín dụng phát triển hết sức đa dạng và phức tạp bắt
đầu từ khi chế độ chủ nghĩa tư bản ra đời. Cho đến ngày nay các quan hệ tín dụng
đã phát triển toàn diện. Trong thực tiễn thường có các chủ thể tham gia vào quan hệ
tín dụng cụ thể, ví dụ:

Quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng thể hiện
dưới hình thức nhà nước phát hành các giấy nợ như công trái, trái phiếu đô thị, tín
phiếu kho bạc.
Quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau hay còn gọi là tín dụng thương mại thể
hiện dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
Quan hệ tín dụng giữa các công ty và công chúng thể hiện dưới hình thức các công
ty phát hành các trái phiếu, hoặc bán hàng trả góp.

Quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân hàng với các
doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới hình thức nhận tiền gửi của khách hàng,
cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua
Quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế, chính phủ các
nước thể hiện dưới hình thức vay nợ.
Với chức năng kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại tham gia vào quan hệ
tín dụng với hai tư cách. Ngân hàng đóng vai trò thụ trái và hành vi này được gọi là
đi vay bao gồm nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành trái phiếu để vay vốn trong
xã hội, vay vốn của ngân hàng trung ương và các ngân hàng khác. Ngân hàng đóng
vai trò trái chủ, hành vi này được gọi là cho vay. Vì tính chất phức tạp của hoạt
động cho vay vì thế khi nói đến tín dụng người ta thường đề cập đến hoạt động cho
vay mà bỏ quên mặt thứ hai đó là đi vay.
Quan hệ tín dụng mà ngân hàng đóng vai trò trái chủ gọi là tín dụng ngân hàng. Tín
dụng ngân hàng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản khi hình thành nên các ngân hàng
thương mại và đây cũng là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng. Sự phù hợp về
nhu cầu của hai nhà tư bản ngân hàng và nhà tư bản sản xuất kinh doanh hàng hoá

đã dẫn đến sự ra đời mối quan hệ tín dụng này. Do chuyên môn hoá trong kinh
doanh và do đặc điểm của hàng hoá tiền tệ mà hình thức tín dụng này ngày càng
phát triển và trở thành hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Tín
dụng ngân hàng đã khắc phục được những hình thức tín dụng trước đó và thực sự
trở thành một yếu tố quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển.
Như vậy:Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn về vốn tiền tệ giữa ngân hàng
và các đơn vị kinh tế, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân
cư theo nguyên tắc có hoàn trả.
2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
2.2.1. Căn cứ vào mục đích
Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra làm các loại sau:
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất
động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và

dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu
động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm
các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản cho vay để trang
trải các chi phí thông thường của đơì sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
Thuê mua và các loại khác.
2.2.2 . Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng
để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu ngắn

hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại tín dụng ngân hàng chiếm tỉ trọng
cao nhất.
Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước Việt Nam,
tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, còn đối với các ngân hàng
thương mại trên thế giới loại tín dụng có thời hạn đến 7 năm. Tín dụng trung hạn
chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công
nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời
gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Theo quy định ở Việt Nam loại tín dụng có thời hạn trên 3 năm,
còn trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn trên 7 năm.Tín dụng dài hạn là loại
tín dựng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị,
phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dung các xí nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền
thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70
trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một
trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỉ trọng cho vay trung và dài .
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại:
Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân

khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả
năng tài chính mạnh, quản trị tài chính hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ
sung.

Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có tài sản thế
chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo l•nh của người thứ ba. Đối với khách hàng không
có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này
là căn cứ pháp lý để ngân hàng có một nguồn thu thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ
nhất thiếu chắc chắn. Đồng thời tài sản thế chấp này bảo đảm khách hàng sử dụng
vốn đúng mục đích cam kết.
2.2.4 . Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
Theo căn cứ này tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại:
Tín dụng bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung cấp
bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện bằng
các kỷ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ, tín dụng
trả góp
Tín dụng bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng,
riêng đối với các ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến đó là tài
trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này ngân hàng hoặc các công ty thuê mua(
công ty con của ngân hàng)cung cấp trực tiếp tài sản cho người đi vay được gọi là
người đi thuê và theo định kỳ người đi thuê hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và
lãi.
2.2.5. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm hai loại:
Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những người có nhu cầu, đồng
thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.

Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các
khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các ngân

hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các loại sau: Chiết khấu thương mại, mua
các phiếu bán hàng, mua các khoản nợ của doanh nghiệp Ngoài các loại cho vay
trên đây, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy
tín của mình. Đối với nghiệp vụ này ngân hàng không phải cung cấp tiền, nhưng khi
người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh
phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Chính vì lý do trên đây, mà người ta
gọi hành vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng
chữ ký bao gồm các loại: Tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng
3. Tín dụng ngắn hạn.
3.1. Khái niệm.
Tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn nhỏ hơn một năm. NHTM
là nhà cung ứng phần lớn các khoản vay ngắn hạn cho các doanh nghiệp. Các khoản
vay này ít rủi ro về khả năng thanh toán cũng như về lãi suất so với vay trung và dài
hạn. Những khoản cho vay ngắn hạn thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ
mang tính thời vụ về vốn luân chuyển và tài trợ tạm thời cho các khoản chi phí sản
xuất.
3.2. Phân loại tín dụng ngắn hạn.
Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, thì đây là tín dụng tài trợ vốn lưu
động. Nếu như vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp không đủ trang trải về
loại vốn này, thì doanh nghiệp đó phải xin vay tín dụng ngân hàng. Nhu cầu về vốn
lưu động cao hay thấp tuỳ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng

quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhưng dù nhu cầu cao hay thấp, doanh
nghiệp luôn sử dụng tín dụng vốn lưu động với tư cách là các khoản vay ít hay
nhiều thường xuyên theo cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
Dưới góc độ kỹ thuật tín dụng, Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay ngắn hạn
theo các loại hình phổ biến sau đây:
3.2.1. Tín dụng ứng trước.
Các tín dụng ứng trước được gọi bằng các từ ngữ khác nhau. Các tên gọi của chúng
thường thể hiện những thực tế rất gần gũi như: Mở tín dụng khoản, thấu chi, tín

dụng vãng lai(hay còn gọi là cho vay luân chuyển) Nhìn chung, các khoản tín dụng
ứng trước chủ yếu theo nhu cầu toàn bộ tài sản lưu động, nghĩa là không thực hiện
một tài sản xác định nào. Nói chung không có một đảm bảo riêng.
Tín dụng ứng trước bao gồm các loại sau đây:
3.2.1.1. Tín dụng thế chấp hoặc nghiệp vụ mở tín dụng khoản.
Loại tín dụng này là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín
dụng trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất
định.
Trong hình thức này, ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở cho họ một tín
dụng khoản. Khi mở tài khoản như vậy khách hàng không phải bỏ tiền vào đấy, mà
trái lại có thể lấy tiền ra, tiền đó là tiền ứng trước của ngân hàng vì vậy nghiệp vụ
này còn gọi là nghiệp vụ ứng trước. Khách hàng có thể sử dụng tài khoản này để
phát hành séc chi trả hoặc có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác.
Khi thực hiện một khoản tín dụng ứng trước tuỳ vào sự nhìn nhân của ngân hàng
đối với khách hàng mà có thể ngân hang đưa ra một trong hai hình thức sau:

Tín dụng ứng trước không bảo đảm:là việc cấp tín dụng không cần tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng.
Trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét, đánh giá, phân tích. Đánh giá khách
hàng dựa vào hang loạt chỉ tiêu như mức vốn, lợi nhuận hàng năm, uy tín của sản
phẩm trên thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, trình độ quản lý.
Tín dụng ứng trước có bảo đảm: là loại tín dụng được cấp phát trên cơ sở có tài sản
thế chấp(do đó có tên gọi là tín dụng thế chấp), cầm cố hay bảo l•nh của một hay
nhiều người khác.
3.2.1.2 . Thấu chi.
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hợp đồng tín dụng
hay còn gọi là tín dụng hạn mức, được thực hiện bằng cách cho phép khách hàng
được sử dụng kết số thiếu(dư nợ) trong một giới hạn nhất định. Thấu chi là kỹ thuật
cho vay đặc biềt mà trong đó xí nghiệp được sử dụng vốn một cách linh hoạt, các
đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, vì số nợ thường xuyên biến động không thể thực

hiện các đảm bảo trực tiếp. Thấu chi được xem là loại tín dụng không bảo chứng.
Thấu chi là một khoản tín dụng tổng hợp mà doanh nghiệp vay khi nhu cầu về vốn
lưu động của nó vượt khả năng của vốn lưu động. Khi cấp tín dụng thấu chi ngân
hàng không đòi hỏi việc nghiên cứu một nguyên nhân rất chính xác về sự phát sinh
và tìm sự hợp lý của nó trong cơ cấu tài chính của doanh nghiệp.
3.2.1.3. Tín dụng vãng lai.
Tín dụng vãng lai chưa được giới thiệu đầy đủ trên sách báo Việt Nam. Có rất nhiều
ý kiến khác nhau và đang còn có nhiều sự nhầm lẫn. Do vậy việc quy tụ những
thông tin, những tri thức về nội dung chủ yếu của tín dụng vãng lai, để hiểu thêm

những ưu điểm của nó trong nền kinh tế thị trường. Từ đó rút ra những thích ứng
với điều kiện Việt Nam đang trong quá trình đổi mới và phát triển đa dạng các loại
tín dụng của NHTM.
Tín dụng vãng lai được xem là hình thức tín dụng cổ điển nhất. Tín dụng vãng lai là
tín dụng ngân hàng do cơ quan tín dụng cấp cho khách hàng của mình : bằng bản tệ
hoặc ngoại tệ và theo nhu cầu khách hàng có thể được sử dụng với số lượng khác
nhau nhưng không vượt quá số tiền quy định trong hợp đồng. Việc tính số dư các
khoản nộp vào và rút ra khỏi tài khoản của khách hàng được tiến hành sau những
khoảng thời gian quy định trong hợp đồng, đồng thời với việc thanh toán các khoản
chi trả tín dụng trên tài khoản thống nhất của khách hàng .
3.2.1.4. Tín dụng thời vụ.
Hoạt động thời vụ là hoạt động sản xuất được thực hiện ở một thời điểm nào đó
trong năm trong khi việc tiêu thụ lại được thực hiện tại một thời điểm khác hoặc
ngược lại việc sản xuất được rải đêù trong cả năm để tránh chi phí đột biến và dàn
đều tổng chi phí trong khi việc tiêu thụ lại được tiến hành trong một thời gian rất
ngắn. Trong các trường hợp này doanh doanh nghiệp có nhu cầu thời vụ về tài trợ
vốn lưu động và nó được thoả mản bằng tín dụng thời vụ.
Doanh nghiệp yêu cầu ngân hàng phục vụ mình giúp đỡ tài chính ở các thời vụ. Dựa
vào điều tra nghiên cứu của mình, ngân hàng sẽ có kế hoạch tài trợ thời vụ cụ thể
của tong tháng, các nhu cầu và nguồn vốn dự kiến. Nói cách khác, khi có nhu cầu

vượt quá nguồn vốn trong một thời kỳ nào đó người ta đưa ra nhu cầu đặc biệt về
thời vụ mà nếu như mọi việc diễn ra tốt đẹp, sẽ được san bằng ở thời kỳ bán hàng.
Vốn lưu động phải bù đắp một phần nhu cầu này. Một doanh nghiệp có khả năng

suốt năm đương đầu với thời kỳ mùa vụ mà không cần tới tín dụng bên ngoài, thì
chắc chắn là một doanh nghiệp quản lý chưa tốt nguồn vốn, bởi vì nó chứng tỏ việc
không tận dụng số tư bản thường có trong một thời kỳ của năm và mức sinh lợi của
vốn này do đó cũng phải gánh chịu những hậu quả.
3.2.2. Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền.
3.2.2.1. Chiết khấu thương phiếu.
Thương phiếu hay kỳ phiếu thương mại là một giấy nợ phát sinh trong quan hệ
thương mại và người hưởng thụ một trái quyền đối với người thụ trái khi giấy nợ
đến hạn. Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại.
Từ thời Trung cổ các thương phiếu đã trở thành phương tiện quan trong trong kinh
doanh ngân hàng. Ngày nay, có rất nhiều nghiệp vụ ngân hàng được thực hiện thông
qua việc chiết khấu thương phiếu:
-Ngân hàng tham gia vào việc thanh toán các phiếu khoán khi các thương phiếu đó
được chiết khấu tại ngân hàng của họ.
-Ngân hàng cũng thực hiện việc thu ngân các phiếu khoán giúp khách hàng.
Ngoài thanh toán và thực hiên thu ngân hộ khách hàng, ngân hàng có thể giữ các
phiếu khoán làm vật bảo đảm. Nhưng thông thường thì ngân hàng chiết khấu
thương các phiếu.
-Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cổ điển của ngân hàng, ra đời rất sớm và m•i
đến ngày nay vẫn được các ngân hàng áp dụng một cách phổ biến. Đây là một
nghiệp vụ ít rủi ro và không làm đóng băng vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay
ngắn tối đa là 90 ngày, điều này nâng cao tính thanh khoản trong quản lý tài sản có
của ngân hàng. Mặt khác hai hình thức cơ bản của thương phiếu là hối phiếu và lệnh

phiếu được lập trên cơ sở hàng hoá đã được chuyển giao cho người mua. Đây chính
là tiền đề để người mua thực hiện kinh doanh của mình, để có khả năng hoàn trả

cho ngân hàng. Lại nữa nghiệp vụ chiết khấu lại ở NHTW khi ngân hàng ngặp khó
khăn về thanh khoản. Mặc dù chiết khấu thương phiếu mang lại nhiều lợi ích cho
khách hàng. Tuy nhiên vẫn có rủi ro xảy ra. Vì vậy trước khi chiết khấu thương
phiếu, ngân hàng phải xem xét kỷ khách hàng đến chiết khấu, xem xét kỷ các hối
phiếu và mối quan hệ của những người có liên quan đến hối phiếu.
Như vậy: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, được thực
hiện dưới hình thức khách hàng chuyển giao quyền sở hữu thương phiếu để đổi lấy
một số tiền bằng mệnh giá trái phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí.
Ngoài ra tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền còn gồm các loại:
Nghiệp vụ huy động các trái quyền thương mại, bao thanh toán hay mua uỷ nhiệm
thu
3.2.3. Tín dụng bằng chữ ký của ngân hàng.
Loại tín dụng này thực chất là một cam kết lãnh nợ do ngân hàng đưa ra bằng việc
phát hành các chứng thư bảo lãnh hoặc bảo chứng, cam kết trả thay cho người đi
vay nếu người đi vay không trả được nợ. Có trường hợp đó là sự xác nhận khoản
tín dụng đã cấp cho một thời hạn nhất định. Khi thực hiện cho vay qua cam kết
bằng chữ ký, ngân hàng không phải xuất quỹ đễ cho khách hàng sử dụng một khoản
tiền nhất định, mà chỉ đưa ra một cam kết bảo lãnh cho con nợ đối với chủ nợ. Như
vậy, chỉ khi nào con nợ không trả được nợ thì ngân hàng mới trả nợ hộ. Thông
thường để thực hiện nghiệp vụ này thì ngân hàng phải lập một quỹ bảo lãnh theo

một tỷ lệ so với vốn pháp định. Hiện nay ở Việt Nam số tiền bảo lãnh tín theo tỷ lệ
phần trăm trên tổng giá trị bảo lãnh.
3.3. Vai trò của tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
Tín dụng đã góp phần làm ổn định và phát triển sản xuất của nền kinh tế, các tổ
chức và mỗi cá nhân. Cũng như các loại tín dụng khác, tín dụng ngắn hạn có vai trò
cực kỳ quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là một nước trong giai đoạn
đang phát triển thì tín dụng ngắn hạn càng có vai trò quan trọng. Nó thể hiện:
3.3.1. Đối với nền kinh tến

Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, nó là kênh chuyển vốn từ những
nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt động hiệu quả trong nền kinh tế. Các
kênh truyền dẫn vốn có thể qua thị trường tài chính đó là các nghiệp vụ tín dụng
trung và dài hạn, nhưng nó đã bị cạnh tranh mạnh mãnh mẽ của các tổ chức tài
chính phi ngân hàng tham gia vào thị trường này như: Công ty Bảo hiểm, các quỹ
đầu tư, công ty tài chính Hoặc là thị trường tiền tệ là kênh dẫn và huy động những
ngồn vốn và các giấy tờ có giá ngắn hạn. Thị trường này hoạt động rất linh hoạt và
cung cấp một nguồn một nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Do đó tín dụng ngắn
hạn ngày càng phát triển mạnh mẽ.
3.3.2. Đối với các doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ sung vốn lưu động để bảo đảm hoạt động kinh
doanh được liên tục

Không có sự ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu và các khoản chi của một
doanh nghiệp nên tại một thời điểm nhất định, trong nền kinh tế có những thời điểm
trong nền kinh tế có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời và cần bổ sung ngay để
đảm bảo tính sản xuất được liên tục. Đối với các doanh nghiệp sản xuất mang tính
thời vụ như các doanh nghiệp bán lẻ, chế biến thực phẩm, các công ty chế biến nông
sản, các doanh nghiệp xây lắp hoặc các doanh nghiệp có vòng quay vốn lưu động
chậm thì các khoản tín dụng từ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giúp cho
quá trình sản xuất không bị gián đoạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn có ý nghĩa lớn
đối với các doanh nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp
doanh nghiệp tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất.
Tín dụng ngắn hạn tạo áp lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Một trong những nguyên tắc cơ bản là vay có hoàn trả ngốc lẫn lãi sau một thời
gian nhất định. Do vậy có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và tạo lập được uy tín
trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu
quả để trả nợ cho ngân hàng.
Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là một yếu tố kích thích sản xuất của doanh

nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm để có thể rút ngắn
chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, tạo lập chỗ đứng trên thị
trường.
Đối với các doanh nghiệp lớn, công việc sản xuất đang phát triển thì phần lớn vốn
lưu động đều vay ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp còn ký hợp đồng ứng trước để có
thể linh hoạt trong việc vay vốn, đáp ứng các cơ hội kinh doanh. Do tính chất của
tín dụng ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi kể cả trên phần dư nợ vay chưa sử

×