Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

SIÊU ÂM TỤY VÀ LÁCH – PHẦN 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (588.41 KB, 27 trang )

SIÊU ÂM TỤY VÀ LÁCH – PHẦN 2

3. Lách
3.1. Mở đầu
Lách là đơn vị bạch huyết lớn nhất cơ thể, là một cơ quan đặc của ống tiêu hoá nằm ở
phần sau ngoài phía trên trái ổ bụng.
Siêu âm cho phép:
- thể hiện tổn thương của lách.
- xác định rõ các đặc điểm hình ảnh.
- xác định rõ các tổn thương phối hợp nếu có.
Đây là một khám xét nhậy, có thể làm lại, phụ thuộc người làm.
Được thực hiện bởi các mặt cắt liên sườn, dưới sườn quặt ngược; từ trước, bên hay sau;
khi hít vào bình thường và khi hít sâu. Thông thường lách được thấy rõ nhất ở mặt phẳng
đứng ngang bệnh nhân nằm nghiêng sang phải.
Bình thường đậm độ âm của lách là đồng đều với các âm nhỏ (mịn) và phân bố đều, đậm
độ âm này tương đương hoặc thấp hơn đậm độ âm của gan một chút, giảm âm hơn so với
tụy (trừ trẻ em) và tăng âm hơn so với thận.
Khám siêu âm rất đáng tin cậy để xác định kích thước của lách (Hình 3.1), kích thước
này thay đổi theo tuổi và giới cũng như theo từng cá nhân:
- trên mặt cắt dọc theo trục lớn, chiều dài lách đo được 13cm.
- trên mặt cắt vuông góc, chiều rộng là 8cm và chiều dày là 5cm.
Hình 3.1. Đo lách. 5 = đường kính ngang
của lách ; 6 = đường kính dọc của lách ; 7
= đường kính chéo của lách



Hơn nữa siêu âm còn hướng dẫn chọc hút áp xe hay dẫn lưu qua da.
Siêu âm Doppler được sử dụng khi người ta nghi ngờ bệnh lý về mạch máu, tăng áp lực
tĩnh mạch cửa hay một khối u có mạch. Bình thường, dòng động mạch là hai pha; dòng
tĩnh mạch là liên tục, nó thay đổi theo hô hấp, hoạt động tim và tăng lên sau sự tiêu hóa.


Bản chất của lách: nụ mạch của trung mô phát triển trong thành trái của mạc treo dạ dày
(giai đoạn phôi), lách thuộc hệ thống lưới nội mô. Bản chất mạch máu của nó, các chức
năng của nó đồng thời tạo huyết và tiêu huyết, và là một nhánh của hệ thống tĩnh mạch
cửa đã giải thích rất nhiều tình trạng bệnh lý lách.
3.2. Các thay đổi giải phẫu và dị tật.
3.2.1. Các thay đổi giải phẫu.
- Củ lách (phần nhu mô bình thường nhô ra ở mặt trong, trên bờ thận, nó kéo theo một
biến dạng sau rốn lách.)
- Tồn tại các rãnh có độ sâu thay đổi làm khuyết bề mặt lách tạo ra vẻ giả tiểu thùy.
 khi có chấn thương cần chẩn đoán phân biệt với các tổn thương lách
- Lách có hình đĩa: đó là bất thường quay lách trong thời kỳ phôi thai.
3.2.2 Các thay đổi về vị trí.
Lách di động hay lách lang thang.
Đó là một thực thể hiếm. Lách có thể ở mức hố chậu trái, phải, ở quanh rốn hay tiểu
khung.
Các nguyên nhân được gợi lên:
- nguồn gốc bẩm sinh: không có dây chằng lách-thận hay dây chằng vị-lách do thiếu sự
hợp nhất mạc treo dạ dày sau với phúc mạc.
- nguồn gốc loạn dưỡng: sự quá nhão (chùng) của dây chằng.
- nguồn gốc hóc môn: chửa đa thai là một yếu tố thuận lợi.
- nguồn gốc cơ học: sự nhỏ đi rất nhiều ở một lách vốn rất lớn.
- Hội chứng Prune-Belly.
Sự phát hiện đôi khi là tình cờ, trước một bệnh nhân đau và có khối u ở bụng xuất hiện
từng đợt, di động theo tư thế. Chẩn đoán được gợi lên bởi chụp bụng không chuẩn bị và
siêu âm Doppler với sự không có lách vị trí bình thường và được xác định bởi
scintigraphie.
Nguy cơ chính là sự xoắn của cuống lách với sự xoắn bán cấp hay mạn tính có thể tiềm
ẩn và sự nhồi máu.
Cuống lách theo sự di động của lách và kéo theo đuôi tụy. Đó là một biến chứng hiếm
(100 trường hợp trong y văn), với một nguy cơ lớn là đứt tụy.

Siêu âm Doppler khẳng định không có luồng chảy trong nhu mô và đánh giá chỉ số kháng
trong thân động mạch chính trong 84% các trường hợp. Tĩnh mạch lách tiếp nhận một
luồng từ gan. Tuy nhiên luồng này có thể bình thường nếu xoắn ở xa, sự cấp máu thực
hiện bởị trung gian của các động mạch tụy và các động mạch vị ngắn.
Lách lạc chỗ
Đó là vấn đề của sự hợp nhất không hoàn toàn của mạc treo dạ dày sau. Có sự trội lên rõ
ràng ở giới nữ: tỷ lệ là 20/1 ở các bà mẹ đã sinh con nhiều lần. Lách lạc chỗ thường nhất
là tiềm ẩn hay tăng lên bởi sự ép của các cơ quan kề cận.
Vị trí có thể ở khắp nơi, thường là khung chậu, đôi khi ở sau tim do sự thoát vị hoành
cạnh thực quản.
3.2.3 Sự biến đổi số lượng.
Không có lách hay giảm chức năng lách (asplénie ou hypo-splénie)
Hội chứng Ivemark là một thực thể hiếm, kết hợp với nhiều dị tật: sự đảo lộn phủ tạng,
bệnh tim bẩm sinh phức tạp, không có lách.
Sự giảm chức năng lách được thấy trong một số bệnh di truyền.
Cần phải loại trừ:
- một lách đã cắt.
- không có lách chức năng do sự teo xơ gặp ở các bệnh nhân hồng cầu hình liềm, tiểu
cầu-huyết hay các bệnh tự miễn có đông máu rải rác trong lòng mạch.
Đa lách
Chỉ có 5 – 10% tật nhiều lách không kết hợp với các dị tật khác, không triệu chứng, được
phát hiện ở tuổi trưởng thành. Thực tế, tật nhiều lách thường kết hợp với các dị tật khác
và biểu hiện ở tuổi thiếu nhi: dị tật tim, đảo ngược phủ tạng, phổi hai thùy mỗi bên, bất
thường hệ tiêu hóa (tịt đường mật; tụy ngắn, tròn do ngừng phát triển của tụy lưng) và bất
thường mạch máu (hai tĩnh mạch chủ dưới và trên, tĩnh mạch cửa trước tá tràng). Số
lượng của lách rất thay đổi (có thể tới 17); chúng ở mức bờ cong lớn và mạc treo dạ dày
sau, mỗi lách nhỏ là độc lập. Thể tích chung của chúng bằng với thể tích của lách bình
thường.
Hình. Hội chứng tim-lách ở một trẻ với nhiều
lách và các bất thường tim bẩm sinh phức tạp.

Siêu âm đứng dọc cạnh đường giữa dưới sườn
trái thấy hai khối tròn, đường kính 5-6 cm (dấu
hoa thị) ở mặt trước thận. Lách thứ ba được phát
hiện ở phía cao hơn, nhưng không có kích thước
bình thường.




Bệnh lách màng bụng (Splénose péritonéale)
Nó thường gặp và được hình thành từ một ghép tự thân của mô lách do sự phá vỡ nhu mô
lách. Sự phát tán này dẫn tới sự hình thành các nốt trong ổ bụng, khung chậu, lồng ngực
và thậm chí dưới da. Các nốt này không có cuống riêng, không có vi tuần hoàn và các
mạch xâm nhập trực tiếp qua vỏ của nó.
Dị thuờng này gặp sau một chấn thương, một cắt lách sau chấn thương hay sau một thủ
thuật phẫu thuật khó.
Lách phụ hay lách dư
Nhiều thuyết đã được đề xuất:
- hợp nhất không hoàn toàn hay không có sự hợp nhất của nhiều khối lách.
- Tình trạng gần nhau của các đảo lách và các mào sinh dục, trong trường hợp hợp nhất
lách- sinh dục mà lách phụ ở bìu cắm vào hay bao quanh tinh hoàn trái (nó thường teo,
kết hợp với một tinh hoàn ẩn) hay buồng trứng.
- sự phân đoạn của mô do các nhánh của động mạch lách.
Chẩn đoán được đặt ra trong tuổi thơ ấu trước một tràn dịch tinh mạc, xoắn tinh hoàn,
viêm mào tinh hoàn một thoát vị bẹn hay tắc ruột. Có hai dạng:
- một dạng liên tục với một thừng có khẩu kính giảm dần nối từ cực trên của lách tới
ống bẹn, hoặc sau phúc mạc, hoặc ở trước đại tràng hay các quai ruột.
- Một dạng không liên tục không có sự hợp nhất giải phẫu thực sự.
Vị trí của lách phụ rất thay đổi: thường thấy nhất ở gần lách bình thường, rốn lách (60%
các trường hợp), trong đuôi tụy (theo Haymard), giữa các lá của mạc nối vị-lách, trong

mạc treo ruột, mạc nối lớn, dây chằng lách-đại tràng, cuối cùng hiếm hơn là ở bao gan
hay sau phúc mạc.
Lách phụ thường gặp ở trẻ em (50% các trường hợp) và 10-20% ở người trưởng thành.
Chúng thường là duy nhất (88% các trường hợp), hai lách phụ (9% các trường hợp), hiếm
khi có từ ba lách phụ trở lên (3%). Chúng tập hợp lại trong cùng một vị trí, có sự cấp máu
riêng và có hoạt động chức năng.
Hình. Hình cắt chếch theo rãnh liên sườn thấy toàn
bộ chiều dài lách. Lách phụ hình tròn nằm ở rốn
lách với cấu trúc âm giống lách.





3.3. Vôi hóa lách.
3.3.1 Nguyên nhân của vôi hóa lách
Có hai hoàn cảnh phát hiện :
- tìm kiếm một cách hệ thống trên phim chụp bụng không chuẩn bị, siêu âm hay chụp
CLVT.
- xuất hiện vôi hóa trên một tổn thương đã biết.
3.3.2 Đặc điểm của vôi hóa theo nguyên nhân
SIDA: vôi hóa có hình chấm hay hình vòng tròn, xuất hiện theo kiểu tăng dần, cần xét
đến viêm phổi kẽ do Pneumocystis carinii.
Bệnh lao: nốt vôi hóa nhỏ hay to, nhiều và rải rác.
Hình. Rất nhiều nốt vôi hóa nhỏ rải rác trong lách
bệnh nhân không triệu chứng. Các nốt vôi hóa là di
chứng của bệnh lao.

Bệnh Brucella: dạng hình bia bắn, dày đặc ở trung
tâm, dạng lá mỏng ở ngoại vi.

U nang: vôi hóa hình đường cong theo thành nang (Hình).
Hình. Nang lách vôi hóa. Thành bị vôi hóa và tạo
bóng cản âm. Đây là một dấu hiệu tình cờ được
phát hiện ở một bệnh nhân không triệu chứng.


Vôi hóa vòng quanh hình nhẫn, mở rộng trong vài tuần:
- bệnh hồng cầu hình liềm: do nhồi máu nhiều và lặp lại.
- bệnh u hạt (granulomatose)
- di căn của một ung thư biểu mô.
3.4. Nhiễm trùng và các bệnh toàn thân.
3.4.1 Lách to đồng nhất
Chẩn đoán xác định
Lách có thể sờ thấy ở 10% trẻ em và 3% người trưởng thành. Hiện nay chẩn đoán X-
quang lách to dựa trên siêu âm và chụp CLVT.
Siêu âm là khám xét nhậy nhất để phát hiện lách to, chẩn đoán được gợi ra khi:
- nếu có hai kích thước tăng.
- nếu bề mặt của lách lớn hơn bề mặt cắt của thận trái (trên cùng một mặt cắt)
- khi một bờ (lách) dưới cực dưới thận.
- hay trước sự mất đi tính lõm của các mặt của lách.
Chẩn đoán nguyên nhân
Lách to thuần nhất thường chỉ là một hiện tượng phụ của bệnh toàn thân.
Siêu âm không có gì đặc hiệu.
3.4.2 Lách to không đồng nhất
Sự phát hiện một lách to không thuần nhất có hình kê (lấm chấm) đặt ra vấn đề nguyên
nhân. Chỉ có bối cảnh lâm sàng và xét nghiệm mô học mới cho phép một chẩn đoán
chính xác.
Về siêu âm:
Trong các tổn thương nhiễm trùng siêu âm có nhiều vẻ:
- hoặc là bình thường trong giai đoạn trước khi làm mủ.

- giảm âm, ranh giới không rõ, dịch ở trung tâm.
- đôi khi có mức dịch hay nhồi máu.
- dạng tăng âm với bóng cản hay tăng âm của các bóng khí.
 trong các tổn thương do vi khuẩn, mầm bệnh thường là Gram +, Gram -, vi khuẩn
đường ruột là Salmonella.
 nhiễm vi rút thể hiện bằng lách to không đặc hiệu.
 Các áp xe do nấm gặp trong suy giảm miễm dịch trầm trọng. Một số có thể có một vẻ
rất gợi ý như áp xe do Candida albicans:
- type 1: “ wheel within wheel ”: ổ giảm âm trong một nốt tăng âm, được bao quanh bởi
một quầng sáng giảm âm.
- type 2: hình mắt bò hay hình bia bắn: nốt tăng âm có quầng giảm âm xung quanh. Mô
viêm được bao quanh bởi sự xơ hóa.
- type 3: nốt giảm âm.
- type 4: ổ tăng âm kích thước 2 đến 5 cm kết hợp với một bóng cản.
 trong giai đoạn SIDA tổn thương ngoài phổi là hiếm; tổn thương thường trong ổ bụng
và luôn có một tổn thương phổi phối hợp. Lách to với các tổn thương giảm âm cục bộ,
ranh giới không rõ, các tổn thương này to lên và vôi hóa dần dần hình vòng tròn hay theo
kiểu hình chấm.
Các bệnh cơ hội xuất hiện trong giai đoạn tiến triển;
- sarcome de Kaposi.
- lymphome (u lympho bào).
- nhiễm trùng do ngành vi khuẩn nấm.
- Nhiễm trùng do Pneumocystis carinii.
Bệnh ký sinh trùng do Shistosoma mansoni (sán máng gây bệnh chủ yếu ở ruột): lách
to do xơ hóa quanh tĩnh mạch cửa, tĩnh mạch quanh khoảng cửa và tĩnh mạch lách, thể
hiện dưới dạng “ống điếu”- “tuyau de pipe”. Tổn thương lách xảy ra do tăng áp lực tĩnh
mạch cửa và do tăng sinh hệ lưới nội mô.
 áp xe amíp là hiếm, nó phát triển do tình trạng tiếp cận với tổn thương amíp nguyên
phát ở đại tràng góc lách. Siêu âm, tổn thương có dạng “nửa rắn” “semi-solide”. Khi có
dạng dịch cần đặt ra chẩn đoán phân biệt với kén hydratique.

3.5. Các u lách.
Không có một phương tiện X-quang nào cho phép phân biệt một cách chắc chắn
một u lành tính với một u ác tính.
Nếu các khám xét X-quang đầu tiên định hướng tới một “vẻ ác tính”, chỉ có mô học mới
xác định rõ bản chất khối u. Các khối u ác tính, nổi trội là di căn và lymphome.
- hoặc tổn thương này xen vào trong một bệnh cảnh toàn thân và chẩn đoán có thể được
gợi ra.
- hoặc sự phát hiện là tình cờ và tổn thương u là đơn độc và một số luận cứ được đặt ra
để hướng tới nguyên nhân.
Trong thực tế một u đặc của lách có ranh giới rõ thường gặp nhất là di căn.
3.5.1 Di căn
Là các u ác tính của lách thường gặp nhất, chúng được tìm thấy khi đánh giá tổng kê sự
xâm lấn hay khi mổ xác. Gặp ở người 60 đến 70 tuổi. Sự ít gặp của chúng (3,4 đến 7%)
được giải thích do sự không có mạch bạch huyết dẫn vào (lách) và bởi vai trò miễn dịch
của lách.
Vấn đề là sự phát tán di căn trong 85% trường hợp do đường máu hay đường bạch huyết,
ngược đường tĩnh mạch cửa (TALTMC) hay bởi ung thư biểu mô phúc mạc.
Theo thứ tự thường gặp, người ta kể ra:
- nguồn gốc từ vú (21% các trường hợp).
- phế quản-phổi (18%).
- buồng trứng (8%).
- dạ dày (7%).
- u hắc tố (6%).
- nguồn gốc tử cung (6%).
- tiền liệt tuyến.
Mọi vẻ có thể gặp trên siêu âm: đôi khi là một tổn thương duy nhất, ranh giới rõ, có chiều
hướng như dịch. Các tổn thương này giảm âm.
3.5.2 Lymphome
Là một nguyên nhân lớn của lách to và 30% lách to xuất hiện tự phát có lẽ có nguồn gốc
lympho bào.

U lympho bào ác tính không Hodgkin thể hiện bởi một tổn thương lan tỏa và trong 30%
các trường hợp lách bị xâm lấn. Trái lại, u lympho bào nguyên phát của lách rất hiếm,
dưới 1%.
Về siêu âm
Không có tính chất đặc trưng và có nhiều vẻ: hình bình thường trong 30% các trường
hợp, lách to thuần nhất hay không thuần nhất, dạng kê (tổn thương có kích thước 1-
5mm), dạng nhiều nốt (2-10mm) hay khối đơn độc kích thước lớn, giảm âm (Hình).
Chẩn đoán được gợi ra trước một mớ các luận chứng, nhưng cần phải nghĩ tới một áp xe,
một di căn, một ung thư liên kết mạch (angio-sarcome), một u nang không điển hình hay
SIDA trong hình thái rất xâm lấn.
Chẩn đoán sẽ được khẳng định bởi mô học sau khi chọc hút. Siêu âm xác nhận các dạng
khác nhau với độ đặc hiệu tốt và độ nhậy thấp hơn (54%).
Hình. Rất nhiều khối giảm âm trong lách chỉ hơi to
ra. Các khối có cấu trúc phức hợp với trung tâm hơi
tăng âm (hình bia bắn). Đây là hình ảnh gợi ý của
lymphoma bậc cao.

3.5.3 Ung thư liên kết (sarcome)
Ung thư liên kết mạch (hémangio-sarcome: phát triển trên lớp áo ngoài cùng của mạch
máu).
Hiếm và gặp ở lứa tuổi 50. Bệnh căn chưa biết nhưng một vài yếu tố thuận lợi được tìm
thấy: bức xạ ion hóa, arsenic, Thorotrast, chấn thương. Là nguyên phát hay thứ phát do
sự thoái hóa của một u mạch máu.
Cách thức phát hiện rất thay đổi, đôi khi là một lách to và đau dưới sườn trái hay một tan
máu của bệnh vi mạch, một đông máu trong mạch lan tỏa (CIVD: coagulation
intravasculaire disséminée). Đôi khi đó là một vỡ tự phát trong ổ bụng.
Về siêu âm: đó à một khối u đặc, có ranh giới rõ, với các vùng tăng âm và không có âm.
Sarcome de Kaposi
Đó là tổn thương da ở đầu dưới chi dưới, tiến triển chậm. Phối hợp với SIDA, nó trở nên
xâm lấn và có tổn thương nội tạng: phổi, lách, ống tiêu hóa, các hạch bạch huyết. Tổn

thương ở lách gặp trong 5% các trường hợp. Là một khối thường nhiều nốt lan rộng trong
phúc mạc.
3.5.4 Các u ác tính nguyên phát.
(không đề cập vì hiếm)
3.5.5 Các u lành tính
Chúng là các khối đặc, giảm hay tăng âm.
U mạch máu (hémangiome)
Thường không có triệu chứng, được phát hiện khi mổ xác hay khi vỡ. Hay gặp ở phụ nữ
có thai và/hoặc dùng thuốc tránh thai (oestro-progestatifs).
Chúng giống u máu của gan:
Tăng âm (siêu âm), ngấm thuốc cản quang từ ngoại vi vào trung tâm chậm (chụp
CLVT).
Nhưng cũng có thể giảm âm hay ngấm thuốc mạnh (nhiều mạch máu).
Dạng điển hình là một khối giảm âm, khu trú hay lan tỏa, ranh giới rõ, hiếm khi có vôi
hóa.
Hình. Một tổn thương tăng âm, ranh giới rõ được
phát hiện tình cờ ở lách. Đây là hình ảnh điển hình
của u mạch máu.


U loạn sản phôi hay loạn sản nốt (Hamartome ou Dysplasie nodulaire)
Thường không có triệu chứng và phát hiện tình cờ, đó là một khối tăng âm không đồng
đều, lách to (Hình). Trên siêu âm Doppler mầu thấy tăng sinh mạch trong khối.
Hình. U loạn sản phổi ở trẻ gái 4 tuổi đang được
đánh giá nhiễm khuẩn đường niệu. Siêu âm quét
ngang lách thấy khối tròn, hỗn hợp âm với ranh
giới rõ.
U bạch mạch (lymphangiome).
Hiếm. Có 3 dạng: dạng đơn thuần, dạng u nang, dạng hang (caverneux) và không vôi
hóa, liên quan đến toàn bộ lách.

Các viêm giả u (les pseudo-tumeurs inflammatoires)
Đó là các khối có vỏ, giới hạn rõ mà nguồn gốc chưa biết. Chúng được hình thành từ các
tế bào tương bào, lympho bào, mô bào và chất đệm liên kết. Hình thái của chúng, lách to
và đôi khi bị vôi hóa. Trên siêu âm chúng giảm âm.
Sự định vị ở lách là hiếm; người ta thường thấy các giả u này trong cây phế quản, tim,
dây tiêu hóa, mô mềm, màng não và các hạch bạch huyết. Người ta không thể phân biệt
chúng với các u lympho bào ở phương diện X-quang.
3.5.6 Các giả u
Lách phụ ở rốn lách, lạc chỗ của tụy, bọc máu tụ, nang giả tuỵ hoại tử, nang chảy máu, áp
xe và bệnh lý nhiễm trùng.
3.5.7 U nang
Siêu âm là khám xét được chỉ định đầu tiên và cho phép phân biệt các u nang với các
khối đặc.
Siêu âm, các u nang có hình tròn, thường là duy nhất, đôi khi nhiều, dịch trong, giới hạn
rõ với bờ mỏng đều đặn và có tăng âm phía sau. Đôi khi dịch trong nang không đồng âm
hay tăng âm do lắng đọng của cholestérol hay cặn.
Nguyên nhân được gợi ra tuỳ theo hình ảnh của nang, của bối cảnh lâm sàng, nhưng đôi
khi sự xác nhận của phẫu thuật là cần thiết.
3.5.8. U nang do ký sinh trùng (để tham khảo)
U nang sán, hay gặp bệnh sán Echinococcus có nguồn gốc ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Trung
Đông, Úc, chiếm 60% các nang lách. Sự định vị ở lách là hiếm (2%).
Về lâm sàng, bệnh nhân có sốt, lách to, đau bụng. Huyết thanh âm tính nếu nang được
vôi hoá hay không hoạt động.
Thành của nang được cấu tạo từ ngoài vào trong:
- quanh nang: vỏ viêm xơ cứng phản ứng.
- Tiểu bì: màng không được cấu tạo từ tế bào.
- Màng mầm với các túi nang.
Các giai đoạn của nang sán (theo Gharbi và cộng sự):
G/đ 1:
- sự tụ dịch trong.

- dày khu trú.
G/đ 2:
- thành nang tách đôi.
- màng di động gập lại.
- có hình đàn “lire”.
G/đ 3:
- nhiều nang hình tổ ong.
- hình nơ hoa hồng của các nang nhỏ (con).
G/đ 4:
- cấu trúc âm không đều.
G/đ 5:
- nang bị vôi hóa.
- hình vỏ trứng.
- tăng âm.
3.5.9 Các u nang không do ký sinh trùng
Hay gặp ở nữ, tuổi khá trẻ và kích thước nang thường trên 10 cm. Không có triệu chứng
trong 50% các trường hợp; các biến trứng theo kiểu nhiễm trùng, chảy máu, vỡ là tăng
lên khi có thai. Hình dạng của nang rất thay đổi, thường có một nang.
Các u nang thực sự hay nguyên phát
Chiếm 25% các nang không do ký sinh trùng. Chúng là bẩm sinh và có lớp áo biểu mô
hay nội mô. Người ta chia làm ba loại:
 Các u nang biểu mô (les kystes épitholiaux):
- các u nang dạng biểu bì-épidermoide (10% các trường hợp) gặp ở trẻ em và thiếu
niên. Thành của nang được hình thành từ cột vách tương tự các cột cơ tim (signe du
feston-dấu hiệu đường viền). Chúng không có triệu chứng, đôi khi có vôi hóa và rất to.
Siêu âm, nó có dạng một khối thuần nhất với các âm ở chỗ trũng hay một khối dịch có
tua vách ở chung quanh (Hình).
- các nang dạng da- dermoide rất hiếm.
- các nang nội mô- endotheliaux hết sức hiếm: các nang thanh dịch đơn độc hoặc trong
bệnh đa nang gan-thận.

Hình. U nang dạng biểu bì ở lách trẻ trai 5 tuổi
được phát hiện tình cờ. Hình siêu âm quét
ngang thấy một nang với các vách bên trong.


 U nang bạch mạch (lymhangiome kystiques)
Sự định vị ở lách là đặc biệt hiếm. Nói chung, nang thường ở dưới vỏ và có một ổ. Có
một tiền sử chấn thương hay can thiệp phẫu thuật là một lý do được xét đến. Nang là một
dị tật bẩm sinh mạch bạch huyết của lách, trong 20% trường hợp có kết hợp với nang ở
các vị trí khác (gan, thận, tuỵ, trung thất, bìu và mô dưới da, đặc biệt ở hố thượng đòn).
Cần phải tìm một phù bạch huyết của các dị tật ở da hay ở tạng: bệnh u xơ thần kinh và
bệnh u nội sụn xương.
Siêu âm, nang thường có vách chia thành các ổ nhỏ; đôi khi có dạng nang có một ổ.
 U nang dạng nhầy có lớp áo sinh nhầy (le kyste mucoide à revêtement mucipare)
- hoặc do di căn của ung thư biểu mô nang tuyến nhầy của buồn trứng hay của ruột.
- hoặc do sự lạc chỗ của buồng trứng trong lách với sự phát triển của một khối u dạng
ruột nguyên thuỷ.
Các u nang giả
Chúng không có lớp áo biểu mô.
 Các u nang sau chấn thương: trong 50% các trường hợp, chúng được chẩn đoán muộn
sau chấn thương. Được thấy ở mọi lứa tuổi. Một hay hai ổ khuyết, thường có vôi hoá.
 Các u nang do viêm: thường gặp sau viêm tuỵ.
 Các u nang thoái hoá: thường thứ phát sau nhồi máu hay cắt lách.
3.6. Bệnh lý mạch máu
3.6.1 Phình động mạch lách
Chúng thường gặp sau các phình mạch của ĐMCB dưới thận và của ĐM chậu.
Gặp ở phụ nữ trong 97% các trường hợp và chúng không có triệu chứng trong 80% các
trường hợp.
Người ta phân biệt:
Phình mạch thật (les vrais anévrysmes).

- Các phình mạch thứ phát do xơ cứng động mạch chiếm 60%.
- Các phình mạch do nấm.
- Các phình mạch do loạn sản: 10% các trường hợp.Đó là sự không có hay sự phát triển
không đầy đủ của lớp chun trong của màng trong với sự xơ hoá của lớp giữa thành mạch.
- Lách to sung huyết gặp trong sốt rét, bệnh Gaucher (bệnh ở nữ giới) hay TALTMC
- Có thai là một nguyên nhân của phình mạch lách và nhất là vỡ lách ở người đẻ nhiều
lần do sự biến chất (hỏng đi) của mô liên kết, tăng thể tích máu lưu chuyển, sung huyết
tĩnh mạch cửa và giảm sức bền mạch máu. Trong ba tháng cuối có sự giãn của động
mạch ở đoạn tận cùng.
Giả phình mạch (les faux anévrysmes).
- Có thể thứ phát sau viêm tuỵ cấp hay mạn do sự ăn mòn tự động thành động mạch.
Nguồn gốc chấn thương chiếm 3% các trường hợp.
Ba loại phình mạch: hình túi, hình thoi và phình tách.
3.6.2 Nhồi máu lách (infarctus splénique)
Thường tiềm tàng, nhồi máu lách là một trong các chẩn đoán được gợi ra trước một
thương tổn giảm âm đơn độc. Nhồi máu là kết quả của sự tắc cấp của động mạch hay các
nhánh của nó do huyết khối hay sự nghẽn mạch. Phần lớn các nhồi máu lách khỏi tự phát,
hiếm khi bội nhiễm, chảy máu nhu mô và vỡ lách.
Các nguyên nhân.

×