ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
PHẦN I : VĂN BẢN
o
A. VĂN BẢN NHẨT DỤNG :
Câu 1 : Bài văn “Cổng trường mở ra” của tác giả Lí Lan muốn gởi gắm chúng ta điều gì ?
-Trả lời : Như những dòng nhật kí tâm tình, nhỏ nhẹ và sâu lắng, bài văn giúp ta hiểu thêm
tấm lòng thương yêu, tình cảm sâu nặng của người mẹ đối với con và vai trò to lớn của nhà
trường đối với cuộc sống mỗi con người.
Câu 2 : Bài văn “Mẹ Tôi” của Ét-môn-đô đơ A-mi-xi đọng lại trong em điều gì quan trọng
?
- Trả lời : “Con hãy nhớ rằng, tình yêu thương, kính trọng cha mẹ là tình cảm thiêng liêng
hơn cả. Thật đáng xấu hổ và nhục nhã cho kẻ nào chà đạp lên tình thương yêu đó” ( A-mi-xi ).
Câu 3 : Viết một đoạn văn ngắn tóm tắt truyện “Cuộc chia tay của những con búp bê” của
tác giả Khánh Hoài. Qua câu chuyện này, theo em, tác giả muốn gửi gắm đến mọi người điều
gì ?
- Trả lời : Vì cha mẹ chia tay nên Thành và Thủy cũng phải xa nhau. Trước lúc chia tay,
hai anh em cũng phải chia nhau đồ chơi. Trong cuộc chia đồ chơi ấy Thành và Thủy đã khó
giải quyết việc chia cặp búp bê ( Vệ Sĩ – Em Nhỏ ). Hai bạn đã dắt tay nhau đến lớp học để
chia tay bạn bè và cô giáo lần cuối cùng. Trong buổi chia tay ấy, Thủy đã làm cho cô giáo
xúc động là từ chối quà cô tặng ( cây viết vàng và cuốn sổ ) vì không được tiếp tục đi học.Lúc
ra về, Thành cảm thấy bàng hoàng đau đớn vì cuộc đời bất hạnh của mình với em. Đến nhà,
mọi việc đâu vào đấy và đó cũng là lúc xúc động và đau đớn nhất của cuộc chia tay : Thủy đã
quyết định tặng lại cặp búp bê cho anh ( Thành ) trong nghẹn ngào.
Qua câu chuyện muốn nhắn gởi đến mọi người : Tổ ấm gia đình là vô cùng quí giá
và quan trọng. Mọi người hãy cố gắng bảo vệ và gìn giữ, không nên vì bất cứ lí do gì làm tổn
hại đến tình cảm tự nhiên trong sáng ấy.
B. CA DAO, DÂN CA :
1. Khái niệm : Ca dao, dân ca chỉ các thể loại trữ tình dân gian, kết hợp lời và nhạc, diễn
tả đời sống nội tâm của con người.
2. Những câu hát về tình cảm gia đình :
a. Bài 1 : Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi !
Nội dung : Nhắc nhở công lao to lớn của cha mẹ đối với con cái và bổn phận, trách
nhiệm của con cái đối với công lao to lớn ấy.
b. Bài 4 : Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.
Nội dung : Tiếng hát về tình cảm anh em thân thương, ruột thịt nhằm nhắc nhở anh em
hòa thuận, nượng tựa lẫn nhau để cha mẹ được vui lòng.
3. Những câu hát về tình yêu quê hương, đất nước, con người :
a. Bài 1, SGK trang 37, 38.
1
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
Nội dung : Ca ngợi những địa danh với những đặc sắc về hình thể, văn hóa, lịch sử. Đây
là hình thức thử tài nhau, thể hiện sự lịch lãm, tế nhị.
b. Bài 4 : Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát,
Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng,
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
Nội dung : Chàng trai ngợi ca cánh đồng trù phú, đầy sức sống và ngợi ca vẻ đẹp duyên
dáng của cô gái, một cách bày tỏ tình cảm tế nhị, kín đáo.
4. Những câu hát than thân :
a. Bài 2 : Thương thay thân phận con tằm,
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ.
Thương thay lũ kiến li ti,
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi.
Thương thay hạc lánh đường mây,
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời,
Dầu kêu ra máu có người nào nghe.
Nội dung : Nỗi oan trái của người lao động không được lẽ công bằng soi tỏ.
b. Bài 3 : Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.
Nội dung : Thân phận chìm nổi, lênh đênh vô định không được làm chủ bản thân của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
5. Những câu hát châm biếm :
a. Bài 1, SGK, trang 51
Nội dung : Chế giễu những kẻ nghiện ngập, lười biếng bằng hình thức nói ngược để
giễu cợt, châm biếm.
b. Bài 2, SGK, trang 51
Nội dung : Phê phán những kẻ hành nghề mê tín, dốt nát, lừa bịp, lợi dụng lòng tin của
người khác để kiếm tiền. Đồng thời phê phán những kẻ mê tín mù quáng.
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CA DAO :
- Ca dao trữ tình là một kiểu văn bản biểu cảm ;
- Khác với tác phẩm của các cá nhân, ca dao trữ tình là những bài thơ, câu thơ có tính
chất tập thể và truyền miệng ;
- Một số thủ pháp nghệ thuật thường gặp trong ca dao trữ tình : ẩn dụ, so sánh, tượng
trưng, …
C. THƠ :
I. Thơ Việt Nam : ( Trung đại và hiện đại )
STT TÊN VĂN
BẢN
TÁC
GIẢ
THỂ
THƠ
NỘI DUNG CHÍNH NGHỆ
THUẬT
1 Sông núi nước
Nam
Lí
Thường
Kiệt
Thất ngôn
Tứ tuyệt
Bản Tuyên ngôn Độc lập
đầu tiên khẳng định chủ
quyền về lãnh thổ của đất
nước và nêu cao ý chí
Giọng thơ dõng
dạc, đanh thép
2
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
quyết tâm bảo vệ chủ
quyền đó trước mọi kẻ
thù xâm lược.
2 Phò giá về
kinh
Trần
Quang
Khải
Ngũ ngôn
tứ tuyệt
Hào khí chiến thắng và
khát vọng thái bình thịnh
trị của dân tộc ta ở thời
đại nhà Trần.
Hình thức diễn
đạt cô đúc, dồn
nén cảm xúc
vào bên trong ý
tưởng
3 Bánh trôi
nước
Hồ Xuân
Hương
Thất ngôn
tứ tuyệt
Vẻ đẹp, phẩm chất trong
trắng, son sắt của người
phụ nứ Việt Nam ngày
xưa vừa được trân trọng
vừa cảm thương sâu sắc
Ngôn ngữ bình
dị, nhiều lớp
nghĩa
4 Qua Đèo
Ngang
Bà Huyện
Thanh
Quan
Thất ngôn
bát cú
Đường luật
Cảnh Đèo Ngang thoáng
đãng mà heo hút thấp
thoáng có sự sống con
người nhưng còn hoang
sơ, đồng thời thể hiện nỗi
nhớ nước thương nhà, nỗi
buồn thầm lặng cô đơn
của tác giả.
Phong cách thơ
trang nhã
5 Bạn đến chơi
nhà
Nguyễn
Khuyến
Thất ngôn
bát cú
Đường luật
Ý nghĩa tình bạn thiêng
liêng, thắm thiết vượt lên
trên cả vật chất.
Giọng thơ hóm
hỉnh chứa đựng
tình bạn đậm
đà,
6 Cảnh khuya,
Rằm tháng
giêng
Hồ Chí
Minh
Thất ngôn
tứ tuyệt
Hai bài thơ miêu tả cảnh
trăng ở chiến khu Việt
Bắc, thể hiện tình cảm
với thiên nhiên, tâm hồn
nhạy cảm, lòng yêu nước
sâu nặng và phong thái
ung dung, lạc quan của
Bác Hồ.
Hai bài thơ có
nhiều hình ảnh
thiên nhiên đẹp,
có màu sắc cổ
điển mà bình dị,
tự nhiên.
7 Tiếng gà trưa Xuân
Quỳnh
Ngũ ngôn Tiếng gà trưa đã gọi về
những kỉ niệm đẹp đẽ của
tuổi thơ và tình bà cháu.
Tình cảm gia đình đã làm
sâu sắc thêm tình quê
hương đất nước
Thơ 5 tiếng có
cách diễn đạt
tình cảm tự
nhiên và nhiều
hình ảnh bình
dị, chân thực.
MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐỌC THÊM : ( Tham Khảo )
1. Bài ca Côn Sơn ( Nguyễn Trãi )
2. Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra ( Trần Nhân Tông )
3. Sau phút chia li ( Đoàn Thị Điểm )
II. Thơ nước ngoài : ( Trung Quốc )
3
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
STT TÊN VĂN
BẢN
TÁC
GIẢ
THỂ
THƠ
NỘI DUNG CHÍNH NGHỆ
THUẬT
1 Cảm nghĩ
trong đêm
thanh tĩnh
Lí Bạch Ngũ ngôn
tứ tuyệt
Tình quê hương của một
người sống xa nhà trong
đêm trăng thanh tĩnh.
Từ ngữ giản dị
mà tinh luyện,
cảm xúc nhẹ
nhàng mà thấm
thía
2 Ngẫu nhiên
viết nhân buổi
mới về quê
Hạ Tri
Chương
Thất ngôn
tứ tuyệt
Tình yêu quê hương
thắm thiết của một người
sống xa quê lâu ngày,
trong khoảnh khắc vừa
mới đặt chân trở về quê
cũ.
Giọng thơ chân
thực mà sâu sắc,
hóm hỉnh mà
ngậm ngùi.
MỘT SỐ TÁC PHẨM ĐỌC THÊM : ( Tham Khảo )
1. Bài ca nhà tranh bị gió thu phá ( Mao ốc vị thu phong sở phá ca ) ( Đỗ Phủ )
2. Xa ngắm thác núi Lư ( Vọng Lư sơn bộc bố )( Lí Bạch )
D. TÙY BÚT :
STT TÊN VĂN
BẢN
TÁC
GIẢ
XUẤT
XỨ
NỘI DUNG CHÍNH NGHỆ
THUẬT
1 Một thứ quà
của lúa non :
cốm
Thạch
Lam
Trích từ
tập Hà Nội
băm sáu
phố
phường
“Cốm là thức quà riêng
biệt của đất nước, là thức
dâng của những cánh
đồng lúa bát ngát xanh,
mang trong hương vị tất
cả cái mộc mạc, giản dị
và thanh khiết của đồng
quê nội cỏ”
Ngòi bút tinh
tế, nhạy cảm và
tấm lòng trân
trọng, thể hiện
được nét đẹp
văn hóa.
2 Mùa xuân của
tôi
Vũ Bằng Trích từ
Tháng
giêng mơ
về trăng
non rét
ngọt trong
tập
Thương
nhớ mười
hai
Cảnh sắc thiên nhiên,
không khí mùa xuân ở
Hà Nội và miền Bắc
được cảm nhận, tái hiện
trong nỗi nhớ thương da
diết của một người xa
quê
Bài tùy bút đã
biểu lộ chân
thực và cụ thể
tình quê hương,
đất nước, lòng
yêu cuộc sống
và tâm hồn tinh
tế, nhạy cảm,
ngòi bút tài hoa
của tác giả.
MỘT SỐ HÌNH THỨC ÔN TẬP KHÁC :
1.Xem vài đặc điểm thơ trung đại ( SGK/63 )
2. Đặc điểm tùy bút ( SGK/161 )
- Tùy bút không có cốt truyện và có thể không có nhân vật ;
4
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
- Tùy bút sử dụng nhiều phương thức biểu đạt nhưng biểu cảm là phương thức chủ yếu ;
- Tùy bút có những yếu tố gần với tự sự nhưng chủ yếu thuộc loại trữ tình.
3. So sánh tình huống thể hiện tình yêu quê hương và cách thể hiện tình cảm qua hai bài
thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh và Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê.
Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh.
- Tình cảm quê hương biểu hiện lúc ở xa
quê
- Tình cảm biểu hiện trực tiếp
- Tình cảm biểu hiện nhẹ nhàng, sâu lắng
Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
- Tình cảm được biểu hiện lúc mới đặt chân
về quê
- Tình cảm biểu hiện gián tiếp
- Tình cảm biểu hiện đượm màu sắc hóm
hỉnh mà ngậm ngùi.
PHẦN II : TIẾNG VIỆT
o
I. TỪ GHÉP :
1. Có những loại từ ghép nào ? Cho ví dụ.
→ Trả lời : Có hai loại từ ghép
- Từ ghép chính phụ có tiếng chính và tiếng phụ bổ sung nghĩa cho tiếng chính. Tiếng
chính đứng trước, tiếng phụ dứng sau. ( ví dụ : lâu đời, nhà máy , cười nụ, … )
- Từ ghép đẳng lập có các tiếng bình đẳng về mặt ngữ pháp ( không phân ra tiếng chính,
tiếng phụ ). ( ví dụ : suy nghĩ, chài lưới, cây cỏ, … )
2. Nghĩa của từ ghép như thế nào ? ( Trình bày nghĩa của từ ghép )
→ Trả lời : - Từ ghép chính phụ có tính chất phân nghĩa. Nghĩa của từ ghép chính phụ
hẹp hơn nghĩa của tiếng chính.
- Từ ghép đẳng lập có tính chất hợp nghĩa. Nghĩa của từ ghép đẳng lập khái quát
hơn nghĩa của các tiếng tạo nên nó.
3. Bài tập :
3.1 Điền thêm tiếng để tạo từ ghép chính phụ : bút ……; thước …. ….; làm … …; vui…
…
3.2 Điền thêm tiếng để tạo từ ghép đẳng lập : ham… …; xinh……. ; học ……;
tươi………
II. TỪ LÁY :
1. Vẽ sơ đồ các loại từ láy :
2. Bài tập : ( SGK / 43 )
2.1 Xác định từ láy trong đoạn văn cho sẵn.
2.2 Đặt câu với từ láy : nhỏ nhắn, nhỏ nhặt, nhỏ nhẻ, nhỏ nhen, nhỏ nhoi.
- VD : Bàn tay nhỏ nhắn của em tôi nắn nót từng nét chữ rất dễ thương.
2.3 Phân biệt từ láy với từ ghép đẳng lập : máu mủ, tóc tai, khuôn khổ, …( từ ghép )
III. ĐẠI TỪ :
5
Từ láy
Từ láy toàn bộ : đo đỏ, đăm
đăm, bần bật, …
Từ láy bộ phận : mếu máo,
liêu xiêu, …
Láy âm : mếu máo, … Láy vần : liêu xiêu, …
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
1. Thế nào là đại từ ? ( Đặc điểm của đại từ )
→ Trả lời : - Đại từ dùng để trỏ người, sự vật, hoạt động, tính chất, …được nói đến trong
một ngữ cảnh nhất định của lời nói hoặc dùng để hỏi.
- Đại từ có thể đảm nhiệm các vai trò ngữ pháp như chủ ngữ, vị ngữ trong câu
hay phụ ngữ của danh từ, động từ, tính từ, …
2. Trình bày các loại đại từ :
→ Trả lời :
• Đại từ dùng để trỏ : - Trỏ người, sự vật ( gọi là đại từ xưng hô ) : tôi, tao, chúng tôi, nó,
họ,…
- Trỏ số lượng : bấy, bấy nhiêu, …
- Trỏ hoạt động, tính chất, sự việc : vậy, thế, …
• Đại từ để hỏi : - Hỏi về người, sự vật : ai, gì,
- Hỏi về số lượng : bao nhiêu, mấy, …
- Hỏi về hoạt động, tính chất, sự việc : sao, thế nào …
3. Bài tập : trang 56,57
IV. TỪ HÁN VIỆT :
1. Phân biệt từ ghép Hán Việt với từ ghép thuần Việt :
→ Trả lời :
- Cũng như từ ghép thuần Việt, từ ghép Hán Việt gồm từ ghép đẳng lập và từ ghép chính
phụ
- Trật tự các yếu tố trong từ ghép chính phụ Hán Việt :
+ Yếu tố chính đứng trước, yếu tố phụ đứng sau : VD : ái quốc, thủ môn, chiến thắng,
… ( giống từ ghép chính phụ thuần Việt )
+ Yếu tố phụ đứng trước, yếu tố chính đứng sau : VD : thiên thư, thạch mã, tái phạm, …
2. Cần chú ý sử dụng từ Hán Việt như thế nào ?
→ Trả lời : - Sử dụng từ Hán Việt để tạo sắc thái biểu cảm trang trọng, thể hiện thái độ
tôn kính ; tạo sắc thái tao nhã, tránh gây cảm giác thô tục, ghê sợ ; tạo sắc thái cổ, phù hợp với
bầu không khí xã hội xa xưa.
- Không nên lạm dụng từ Hán Việt : làm cho lời nói thiếu tự nhiên, thiếu trong
sáng, không phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp.
3. Bài tập : ( SGK Tr70, 71, 83, 84 )
3.1 Phân biệt nghĩa của các yếu tố Hán Việt đồng âm.
3.2 Phân biệt các loại từ ghép chính phụ ( tiếng chính đứng trước – sau )
3.3 Tìm 5 từ ghép chính phụ có :
- Yếu tố chính đứng trước :
……………………………………………………………………
- Yếu tố phụ đứng trước :
………………………………………………………………………
3.4 Chú ý các bài tập 1/Tr 83, 4/Tr 84.
V. QUAN HỆ TỪ :
1. Thế nào là quan hệ từ ?
→ Trả lời : Quan hệ từ dùng để biểu thị các ý nghĩa quan hệ như sở hữu, so sánh, nhân
quả, … giữa các bộ phận của câu hay giữa câu với câu trong đoạn văn.
2. Các lỗi thường gặp về quan hệ từ là gì ?
→ Trả lời : - Thiếu quan hệ từ ;
6
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
- Dùng quan hệ từ không thích hợp về nghĩa ;
- Thừa quan hệ từ ;
- Dùng quan hệ từ mà không có tác dụng liên kết.
3. Bài tập :
3.1 Các bài tập Tr 98, 99
3.2 Các bài tập 1,2,3,4 Tr 107, 108
VI. TỪ ĐỒNG NGHĨA :
1. Thế nào là từ đồng nghĩa ?
→ Trả lời : Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau. Một từ
nhiều nghĩa có thể thuộc vào nhiều nhóm từ đồng nghĩa khác nhau.
2. Có những loại từ đồng nghĩa nào ?
→ Trả lời : Từ đồng nghĩa có hai loại : những từ đồng nghĩa hoàn toàn ( không phân biệt
nhau về sắc thái nghĩa ) và những từ đồng nghĩa không hoàn toàn ( có sắc thái nghĩa khác
nhau ).
3. Bài tập : trang 115,116, 117
VII. TỪ TRÁI NGHĨA :
1. Thế nào là từ trái nghĩa ?
→ Trả lời : Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau. Một từ nhiều nghĩa có thể
thuộc nhiều cặp từ trái nghĩa khác nhau.
2. Bài tập : Tr 129.
VIII. TỪ ĐỒNG ÂM :
1. Thế nào là từ đồng âm ?
→ Trả lời : Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh những nghĩa khác xa nhau,
không liên quan gì với nhau.
2. Nhờ đâu phân biệt nghĩa của các từ đồng âm ?
→ Trả lời : Trong giao tiếp phải chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ
hoặc dùng từ với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm.
3. Phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa :
- Từ đồng âm : âm giống nhau, nghĩa khác xa nhau ( không có liên hệ với nhau về nghĩa )
♣ Ví dụ : ( bức ) tranh, (cỏ ) tranh,…
- Từ nhiều nghĩa : các từ có liên hệ với nghĩa gốc.
♣ Ví dụ : cổ ( cò ), cổ ( chai ), …
4. Bài tập : 1, 2, 3 Tr136 – Chú ý Bài tập 3.
IX. THÀNH NGỮ :
1. Thế nào là thành ngữ ? Cho ví dụ.
→ Trả lời : Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh.
Ví dụ : Lên thác xuống ghềnh, Bảy nổi ba chìm, Tắt lửa tối đèn, …
2. Thành ngữ được sử dụng như thế nào ?
→ Trả lời : Thành ngữ có thể làm chủ ngữ, vị ngữ trong câu hay làm phụ ngữ trong cụm
danh từ, cụm động từ,…
Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao.
3. Bài tập :
3.1. Tìm thành ngữ và giải thích. ( BT1/145 )
a. Sơn hào hải vị, Nem công chả phượng : chỉ những đồ ăn, thức ăn quí hiếm
b. - Khỏe như voi : sức mạnh ( rất khỏe )
7
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
- Tứ cố vô thân : không có ai họ hàng gần gũi
c. Da mồi tóc sương : người già
3.2. Điền thêm từ để làm thành ngữ ( BT3/145 )
- Lời ăn tiếng nói, - Một nắng hai sương, - Ngày lành tháng tốt, - No cơm ấm cật ( áo ), -
Bách chiến bách thắng,…
3.3 Sưu tầm thành ngữ và giải thích nghĩa của các thành ngữ sưu tầm. ( BT4/145 )
X. ĐIỆP NGỮ :
1. Thế nào là điệp ngữ ?
→ Trả lời : Khi nói hoặc viết, người ta có thể dùng biện pháp lặp lại từ ngữ ( hoặc cả một
câu ) để làm nổi bật ý, gây cảm xúc mạnh gọi là điệp ngữ.
2. Có các dạng điệp ngữ nào ?
→ Trả lời : Điệp ngữ có nhiều dạng : điệp ngữ cách quãng, điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ
chuyển tiếp (điệp ngữ vòng ) 3. Bài tập :
Tìm điệp ngữ và cho biết tác giả muốn nhấn mạnh điều gì ? ( BT1,SGK/153 )
a. Một dân tộc đã gan góc ( 2 lần )
Dân tộc đó ( 2 lần )
b. Đi cấy ( 2 lần )
Trông ( 9 lần )
3.2. Tìm điệp ngữ và cho biết dạng điệp ngữ gì ? ( BT2, SGK/153 )
- Xa nhau : cách quãng
- Một giấc mơ : điệp ngữ chuyển tiếp ( điệp ngữ vòng )
3. 3 Viết đoạn văn có sử dụng điệp ngữ.
ĐOẠN VĂN THAM KHẢO
Trăng là người bạn muôn đời của thi sỹ. Với Hồ Chí Minh cũng vậy, trăng từ lâu đã trở
thành người bạn tri âm, tri kỉ của Người. Mỗi đêm trăng Người lại gửi gắm tâm sự qua những
vần thơ. Cũng bởi yêu trăng nên trăng trong thơ Bác rất đẹp. Trăng rằm tròn vằng vặc,
trăng mùa xuân lung linh dát bạc tô điểm cho sức sống mùa xuân.
XI. CHƠI CHỮ :
1. Thế nào là chơi chữ ? Cho ví dụ.
→ Trả lời : Chơi chữ là lợi dụng đặc sắc về âm, về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí
dỏm, hài hước, … làm câu văn hấp dẫn và thú vị.
Ví dụ : Bà già đi chợ cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng ?
Thầy bói xem quẻ nói rằng :
Lợi thì có lợi nhưng răng không còn.
2. Có những lối chơi chữ nào ?
→ Trả lời : Các lối chơi chữ thường gặp là : Dùng từ ngữ đồng âm ; Dùng lối nói trại âm (
gần âm ); Dùng cách điệp âm ; Dùng từ ngữ trái nghĩa, đồng nghĩa, gần nghĩa.
3. Bài tập :
3.1 Xác định từ ngữ dùng để chơi chữ trong đoạn thơ :
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học chẳng ai tha.
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
8
Nhấn mạnh sự quyết tâm, bền bỉ đấu tranh của dân tộc ta
Nỗi mong mỏi của người nông dân về thời tiết thuận hòa để làm ăn thuận lợi.
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,
Lằn lưng cam chịu dấu roi tra.
Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học,
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
( Lê Quí Đôn )
→ Trả lời : Các từ dùng để chơi chữ : liu điu, rắn, hổ lửa, mai gầm, ráo, lằn, trâu lỗ, hổ
mang ( đồng âm )
3.2 Xác định cách chơi chữ
- Trời mưa đất thịt trơn như mỡ, dò đến hàng nem chả muốn ăn
→ thịt, mỡ, dò, nem, chả : các từ gần nghĩa
- Bà đồ Nứa, đi võng đòn tre, đến khóm trúc, thở dài hi hóp.
→ nứa, tre, trúc, hóp : các từ gần nghĩa
3.3. Sưu tầm một số cách chơi chữ :
Ví dụ : - Đi tu Phật bắt ăn chay
Thịt chó ăn được thịt cầy thì không
- Chị hươu đi chợ Đồng Nai
Bước qua Bến Nghé ngồi nhai thịt bò
XII. CHUẨN MỰC SỬ DỤNG TỪ : ( Xem Bài tập SGK/166,167 )
PHẦN III : LÀM VĂN
I. Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học
1. Thế nào gọi là văn biểu cảm về tác phẩm văn học ?
Văn biểu cảm về tác phẩm văn học còn gọi là văn phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn
học.Qua bài văn ta nói lên những cảm xúc, ý nghĩ của mình về cái hay ,cái đẹp của một tác
phẩm văn học cụ thể, đã làm cho ta rung động, xúc động.
Tác phẩm văn học mà ta nêu cảm nghĩ có thể là một bài ca dao, một bài thơ, một bài văn.
Phải phân tích nội dung và nghệ thuật tác phẩm văn học có chọn lọc mới trình bày được
cảm xúc, ý nghĩ của mình về tác phẩm đó. Không thể viết chung chung hời hợt.
2. Các bước làm bài văn phát biểu cảm nghĩvề tác phẩm văn học
a. Chuẩn bị
- Đọc bài văn, bài thơ …một vài lần, rút ra ấn tượng ban đầu. Đọc lần nữa để phát hiện
ra giọng điệu, chủ đề, những tư tưởng tình cảm cao đẹp, ngôn ngữ nghệ thuật …mà tác giả đã
diễn tả rất hay, gây cho mình nhiều ấn tượng.
- Gạch chân hoặc đánh dấu các chi tiết nghệ thuật, các hình ảnh các câu thơ, câu văn
hay nhất mà mình yêu thích nhất.
- Làm dàn bài dựng đoạn
- Nháp bài văn, đi từ mở bài đến kết bài, viết xong phần nào nên đọc lại phần ấy, sửa
chữa rồi viết tiếp phần sau. Nháp bài văn xong, đọc lại, sửa chữa, bổ sung rồi mới chép vào vở
hoặc viết vào tờ giấy thi.
- Văn phát biểu cảm nghĩ thuộc nghị luận văn chương
b. Bố cục một bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học
9
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
- Phần mở bài : Có thể giới thiệu một vài nét về tác phẩm ; nêu lên ấn tượng sâu sắc
nhất, khái quát nhất của mình khi đọc, khi xem tác phẩm ấy. Mở bài hay nhất là đạt được hai
yêu cầu sau : tính khái quát và tính định hướng.
- Phần thân bài : lần lượt nêu lên những tình cảm của riêng mình về những khía cạnh
của tác phẩm. Không lan man dài dòng mà nên xoáy sâu vào các trọng tâm trọng điểm. Phải
đi lần lượt, nhớ liên kết đoạn.
- Phần kết bài : Nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Tránh dài dòng,
trùng lặp và đơn điệu, vô vị.
c. Thao tác cơ bản :
Phát biểu cảm nghĩ không thể nói chung chung mà phải rất cụ thể, phải chỉ ra được yêu
thích, thú vị …ở chỗ nào, tại sao lại yêu thích thú vị ? Nghĩa là phải phân tích và trích dẫn. Vì
vậy phân tích và trích dẫn là thao tác cơ bản nhất để phát biểu cảm nghĩ.
Có lúc phải khen, chê chính là viết lời bình khen chê phải chính xác. Lúc nào viết được
lời bình hay, sâu sắc thì bài phát biểu cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ.
Có lúc phải biết liên tưởng so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ đến hiện tượng
văn học khác, tức là liên tưởng ; từ trái đào vườn mẹ mà so sánh với đào Sa Pa, từ câu thơ này
mà so sánh với câu thơ khác, để rút ra cái hay riêng làm cho bài viết vừa rộng vừa sâu là so
sánh
Viết lời bình, liên tưởng, so sánh là thao tác nên có. Cái gì cũng cần có ở mức độ hợp
lí.
II. LUYỆN LÀM VĂN BIỂU CẢM VỀ TÁC PHẨM VĂN HỌC :
BÀI 1
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước Nam của Lí Thường Kiệt
Lí Thường Kiệt là một vị tướng tài ba thời Lí, ông đồng thời là một nhà thơ nổi tiếng. Tương
truyền bài Sông núi nước Nam được ông sáng tác vào khoảng cuối năm 1076 trong 1 trận
chiến đấu ác liệt chống quân Tống xâm lược. Bài thơ vừa động viên tướng sĩ ta hăng hái giết
giặc vừa đanh thép cảnh cáo làm lung lay ý chí của kẻ thù :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Tiệt nhiên phận tại thiên thư Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
( Phiên âm ) ( Theo lê Thước – Nam Trân
dịch )
Cuối năm 1076 mấy chục vạn quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết cầm đầu sang cướp
nước ta.Quân ta dưới sự chỉ huy của Lí Thường Kiệt đã chiến đấu dũng cảm, chặn chân
chúng lại ở phòng tuyến bên sông Như Nguyệt.Truyền thuyết kể rằng một đêm nọ quân sĩ
nghe văng vẳng trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát có tiếng ngâm bài thơ này. Điều đó
ý nói thần linh và tổ tiên phù hộ cho quân ta. Bài thơ đã góp phần khích lệ binh sĩ quyết tâm
đánh tan quân giặc, buộc chúng phải rút lui nhục nhã vào tháng 3 năm 1077.
Câu thứ nhất nêu lên chân lí : Sông núi nước Nam vua Nam ở. Lẽ ra phải nói là dân Nam ở
thì đúng hơn nhưng thời bấy giờ, vua đại diện cho quốc gia dân tộc. Chân lí ấy thật đơn sơ,
hiển nhiên nhưng nhân dân ta phải gian khổ đấu tranh bao đời chống ngoại xâm mới đạt
được.Tác giả xưng danh là nước Nam với chủ ý gạt bỏ thái độ khinh miệt coi nước ta là quận
10
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
huyện tồn tại trong đầu óc lũ cướp nước bấy lâu nay. Đặt nước mình ngang hàng với Bắc
quốc. Xưng vua Nam cũng là bác bỏ thái độ ngông nghênh của bọn vua chúa phương Bắc hay
tự xưng là thiên tử coi thường vua các nước chư hầu và gọi họ là vương. Các từ nước Nam,
vua Nam vang lên đầy kiêu hãnh thể hiện thái độ tự hào, tự tôn cùng tư thế hiên ngang làm
chủ đất nước của dân tộc Việt.
Câu thơ thứ 2 :Tiệt nhiên định phận tại thiên thư khẳng định chủ quyền của đất nước ta đã
được ghi rõ trên sách trời. Sách trời đã chia cho vua Nam có riêng bờ cõi. Người xưa quan
niệm rằng các vùng đất đai dưới mặt đất ứng với các vùng sao trên trời. Nước nào có vua
nước đó. Điều đó là do trời định nên thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Câu thơ nhuốm màu
sắc thần linh khiến cho chân lí nêu ở câu trên càng tăng thêm giá trị.
Câu thơ thứ 3 : Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm là câu hỏi đối với binh tướng giặc. Chủ
quyền độc lập của nước Nam không chỉ là chuyện của con người mà còn là chuyện rõ ràng,
minh bạch trên sách trời, không thể chối cãi, ai cũng phải biết, phải tôn trọng. Vậy cớ sao
quân giặc kia lại dám xâm phạm tới ? Câu hỏi thể hiện thái độ vừa bực tức, vừa khinh bỉ của
tác giả. Tác giả khẳng định cho chân lí hiển nhiên đã nêu ở trên bằng nghệ thuật đối lập giữa
cái phi nghĩa của lũ giặc dữ với cái chính nghĩa của nước Nam và sự phân chia minh bạch ở
sách trời.
Câu thơ thứ 4 : Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư, ý thơ vẫn tiếp tục thể hiện thái độ khinh bỉ
quân giặc và thể hiện niềm tin sắt đá vào chiến thắng tất yếu của quân ta.Ở trên tác giả gọi
quân xâm lược là giặc thì đến câu này ông đích danh như có chúng trước mặt : “chúng mày”
Cách xưng hô không khác gì người trên với kẻ dưới hàm ý coi thường, đồng thời nghiêm khắc
cảnh cáo chúng : nhất định phải tan vỡ.Y như là sự việc đã sắp đặt trước, chỉ chờ kết quả. Đó
là chúng mày thua to, thất bại thảm hại. Ngoài ý cảnh cáo giặc câu thơ còn thể hiện niềm tin
mãnh liệt vào sức mạnh quân ta trên dưới đồng lòng và niềm tự hào cao.
Bài thơ thần ra đời trong một hoàn cảnh cụ thể và nhằm vào một mục đích cụ thể. Cuộc đối
đầu giữa quân ta và quân địch trước phòng tuyến sông Như Nguyệt đang ở thế gay go ác liệt,
bài thơ ấy đã vang lên đúng lúc và được lan truyền nhanh chóng. Có thể tưởng tượng rằng lúc
ấy quân ta như được hun đúc trong ánh lửa thiêng, máu sôi lên và khí thế giết giặc ngùn ngụt
ngất trời. Tính chân lí của bài thơ có giá trị vĩnh hằng bởi nó khẳng định chủ quyền độc lập
của nước Nam là bất khả xâm phạm. Tác dung to lớn, mạnh mẽ của bài thơ không chỉ bó hẹp
trong hoàn cảnh lúc bấy giờ mà còn kéo dài vô tận.
Chỉ bằng 4 câu thơ ngắn gọn, tác giả đã khẳng định một cách đanh thép chân lí độc lập tự
do, đồng thời lên án tính chất phi nghĩa của hành động xâm lược cùng sự bại vong tất yếu của
kẻ dám ngang ngược xâm phạm chân lí đó. Sông núi nước Nam của ra đời đã gần ngàn năm
nhưng ý nghĩa to lớn sâu sắc của nó vẫn còn nguyên vẹn, xứng đáng là bản tuyên ngôn độc
lập đầu tiện của nước ta
Bài 2
Phò giá về kinh của Trần Quang Khải ( bản dịch thơ của Trần Trọng Kim )
Trần Quang Khải ( 1241-1294 ) là con thứ 3 của vua Trần Thánh Tông, ông có công rất
lớn trong 2 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông ( 1284-1287).Ông không những là 1 võ
tướng mà ông còn là một thi sĩ tài hoa. Bài Phò giá về kinh được ông sáng tác trong hoàn
cảnh thượng tướng cùng đoàn tuỳ tùng đi đón vua cha Trần Thánh Tông và vua con Trần
Nhân Tông về Thăng Long sau khi kinh đô được giải phóng. Bài thơ thể hiện hào khí chiến
thắng ngút trời và khát vọng độc lập tự do mãnh liệt của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần :
11
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu.
Hai câu thơ đầu tác giả ghi lại hai chiến công vang dội của quân và dân Đại Việt vào xuân
–hè năm 1285. Đây là những trận thuỷ chiến dữ dội nổ ra trên sông Hồng.Trận Hàm Tử diễn
ra vào tháng 4, tướng Trần Nhật Duật chém được Toa Đô. Hai tháng sau, Trần Quang Khải
đại thắng giặc Nguyên Mông tại Chương Dương. Hai cụm từ đoạt sáo ( cướp giáo ) và cầm
Hồ ( bắt giặc ) được đặt ở đầu mỗi câu thơ giống như những nốt nhấn trong khúc ca đại
thắng.Giọng thơ sảng khoái, hào hùng phản ánh khí thế bừng bừng của dân tộc ta thời ấy. Từ
vua quan tướng sĩ đến dân chúng ai cũng hả hê, sung sướng tự hào. Nhịp thơ nhanh, gấp và
các động từ biểu thị động tác mạnh mẽ dứt khoát ( đoạt, cầm ) thể hiện nhịp độ sôi động,
quyết liệt của trận chiến. Tác giả không nói nhiều về những chiến công và cũng không tỏ ra
say sưa với chiến thắng nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được niềm phấn khởi, kiêu hãnh toát
lên từ âm hưởng của bài thơ. Trần Quang Khải là nhà thơ đầu tiên đã đưa địa danh sông núi
Đại Việt thân yêu vào thơ ca. Chương Dương và Hàm Tử đã in đậm vào lịch sử chống ngoại
xâm, vào lịch sử văn chương như một dấu son chói lọi. Phải là người trong cuộc, tha thiết yêu
non sông gấm vóc của nước mình, Trần Quang Khải mới viết được những câu thơ hào hùng
như thế.
Hai câu thơ sau :
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy ngàn thu .
Đây là lời vị thượng tướng động viên dân chúng hãy bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước trong hoà bình và tin tưởng sắt đá vào sự bền vững muôn đời của Tổ quốc.
Vừa từ chiến trường trở về chưa kịp nghỉ ngơi đã lo ngay đến nhiệm vụ trước mắt cũng như
kế sách lâu dài cho quốc gia, dân tộc chứng tỏ ông vừa là một chiến tướng vừa là một vị đại
thần luôn đặt trách nhiệm với dân với nước lên hàng đầu. Ngôn ngữ bài thơ Phò giá về kinh
rất giản dị nhưng ý tưởng chứa đựng bên trong thật lớn lao cho thấy tầm nhìn xa rộng và sáng
suốt của Trần Quang Khải. Bài thơ ra đời cách đây đã 800 năm nhưng đến nay ý nghiã của nó
vẫn còn nguyên vẹn. Bài học rút ra từ bài thơ là nếu chúng ta không chăm lo xây dựng đất
nước hùng mạnh, dân trí mở mang thì làm sao chống lại được ý đồ xâm lược đồng hoá của các
thế lực phản động nước ngoài đang rình rập nhòm ngó đất nước ta ? Cũng giống như bài
Sông núi nước Nam, bài Phò giá về kinh cũng thể hiện lòng yêu nước theo kiểu mộc mạc tự
nhiên nhưng mạnh mẽ, hào hùng. Hai bài thơ đều phản ánh bản lĩnh vững vàng, khí phách
hiên ngang của dân tộc ta. Một bài nêu cao chủ quyền độc lập thiêng liêng, khẳng định nước
Nam là của vua Nam, không kẻ nào được phép xâm phạm, nếu cố tình xâm phạm sẽ chuốc lấy
thất bại. Một bài thể hiện khí thế hào hùng và bày tỏ khát vọng xây dựng, phát triển đất nước
trong hoà bình với niềm tin đất nước sẽ bền vững nghìn thu.
Phò giá về kinh là một kiệt tác trong văn học cổ của nước ta. Ý thơ hàm súc, cô đọng, ngôn
ngữ giản di, gợi cảm, thể hiện niềm tự hào về sức mạnh chính nghĩa to lớn của dân tộc ta
trong các cuộc chiến tranh giữ nước, chống xâm lược Nguyên Mông. Đồng thời nhắc nhở
mỗi người Việt Nam phải biết nâng cao ý thức trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ và xây
dựng đất nước thanh bình giàu đẹp và bền vững muôn đời.
12
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
Bài 3
PBCN về bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương, chưa rõ lai lịch, sống ở nửa đầu thế kỉ 18, là người có học, có tài văn thơ
nhưng cuộc đời riêng của bà có nhiều bi kịch. Bà là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc.
Thơ của bà sắc sảo, trào phúng thì sắc nhọn, trữ tình thì tê tái đau xót, có giá trị nhân đạo sâu
sắc. Bà được coi là bà chúa thơ Nôm. Bánh trôi nước là một bài thơ đặc sắc của bà, bài thơ
cho thấy tác giả rất trân trọng vẻ đẹp, phẩm chất trong trắng, sắt son của người phụ nữ Việt
Nam ngày xưa, vừa cảm thương cho thân phận chìm nổi của họ.
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà en vẫn giữ tấm lòng son.
Bánh trôi nước là bài thơ đa nghĩa. Tác giả tả thực cái bánh trôi nước, làm bằng bột nếp
nhân bằng đường phên và qua đó mang hàm nghĩa độc đáo.
Câu 1 có 2 vế tiểu đối : Thân em vừa trắng lại vừa tròn gợi tả chất bánh ngon lành, tinh
khiết, chiếc bánh xinh xinh, dân dã bình dị đáng yêu, hàm ẩn sự duyên dáng trinh trắng, vẻ
đẹp xinh xắn của người thiếu nữ Việt Nam. Hai tiếng thân em không chỉ nhân hoá chiếc bánh
trôi nước, thể hiện một cách nói đậm đà màu sắc dân gian mà còn ngợi ca đức tính khiêm
nhường, kín đáo duyên dáng của người con gái làng quê.
Hai câu 2, 3 ngôn ngữ tương phản : rắn với nát, nghĩa đen là bánh ngon hay bánh không
ngon ; nghĩa bóng là hạnh phúc hay bất hạnh đều tùy thuộc vào tay kẻ nặn, vào người cha,
người chồng …vào lễ giáo phong kiến, vào số phận.Thành ngữ bảy nổi ba chìm được vận
dụng tài tình nhằm gợi tả số phận người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến trọng nam
khinh nữ
Hai câu 3, 4 cấu trúc mặc dù mà vẫn nhằm khẳng định 1 tâm thế :
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Vẫn giữ biểu thị một thái độ kiên trinh, bền vững. Tấm lòng son tượng trưng cho phẩm chất
sắt son thuỷ chung, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam trong cuộc đời. Câu thơ
thể hiện niềm tự hào và biểu lộ khá đậm tính cách hồ Xuân Hương. Bài thơ nói về bánh trôi
nước, một món ăn dân tộc bằng một ngôn ngữ bình dị, dân gian.Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt
được Việt hoá hoàn toàn. Thơ hàm súc đa nhĩa giàu bản sắc Xuân Hương.
Bánh trôI nước là 1 bài thơ hay, có giá trị sâu sắc. Bài thơ biểu lộ niềm cảm thông và tự
hào đối với số phận, thân phận và phẩm chất của người phụ nữ việt Nam.
Bài 4
Phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan
Bà Huyện Thanh quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh sống trong nửa đầu thế kỉ 19, là 1 trong
số nữ sĩ tài danh hiếm có, bà để lại 6 bài thơ Nôm.Thơ bà hay nói đến hoàng hôn, man mác
buồn, giọng điệu du dương, ngôn ngữ trang nhã, hồn thơ đẹp, điêu luyện. Xuất thân trong 1
gia đình quan lại, có nhan sắc, có học, có tài thơ Nôm, giỏi nữ công gia chánh, Bà Huyện
Thanh Quan được vua Minh Mệnh vời vào kinh đô Phú Xuân làm quan nữ “Cung trung giáo
tập”. Trên đường vào Phú Xuân, bước tới Đèo Ngang lúc chiều tà, cảm xúc dâng trào lòng
13
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
người bà sáng tác bài Qua đèo Ngang. Bài thơ tả cảnh đèo Ngang lúc xế tà và nói lên nỗi buồn
cô đơn, nỗi nhớ nhà của người lữ khách –nữ sĩ .
Lần đầu nữ sĩ bước tới đèo Ngang, đứng dưới chân đèo đệ nhất hùng quang này, địa giới
tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình, vào thời điểm bóng xế tà, lúc mặt trời đã nằm
ngang sườn núi, ánh mặt trời đã tà, đã nghiêng, đã chênh chếch. Trời sắp tối. Âm tà cũng gợi
buồn thắm thía. Câu 2 tả cảnh sắc : cỏ, cây, hoa, lá, đá. Hai vế tiểu đối, điệp ngữ chen, vần
lưng đá -lá, vần chân tà-hoa, thơ giàu âm điệu, réo rắt như một tiếng lòng, biểu lộ sự ngạc
nhiên và xúc động về cảnh sắc hoang vắng nơi Đèo Ngang 200 năm về trước :
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Chỉ có hoa rừng, hoa dại, hoa sim, hoa mua. Cỏ, cây, hoa, lá phải chen với đá mới tồn tại
được. Cảnh vật hoang sơ, đến nao lòng.
Nữ sĩ sử dụng phép đối và đảo ngữ trong miêu tả đầy ấn tượng. Âm điệu thơ trầm bổng du
dương, đọc lên nghe rất thú vị
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Điểm nhìn đã thay đổi : đứng cao nhìn xuống dưới và nhìn xa. Thế giới con người là tiều
phu, nhưng chỉ có vài chú. Hoạt động lom khom vất vả dang gánh củi xuống núi. Một nét vẽ
ước lệ trong thơ cổ, nhưng rất thần tình tinh tế trong cảm nhận. Mấy nhà chợ bên sông thưa
thớt lác đác. Chỉ mấy cái lều chợ miền núi. Cũng là cảnh hoang vắng heo hút, buồn hoang sơ
nơi con đèo xa xôi lúc bóng xế tà.
Tiếp theo nữ sĩ tả âm thanh tiếng chim rừng, chim gia gia, chim quốc gọi bầy lúc hoàng hôn.
Điệp âm con cuốc cuốc và cái gia gia tạo nên âm hưởng du dương của khúc nhạc rừng, của
khúc nhạc lòng người lữ khách. Lấy cái động để làm nổi bật cái tĩnh, cái vắng lặng im lìm trên
đỉnh đèo Ngang trong khoảnh khắc hoàng hôn, đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh trong thi pháp
cổ. Phép đối và đảo ngữ được vận dụng rất tài tình
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Nghe tiếng chim rừng mà nhớ nước đau lòng mà thương nhà mỏi miệng nỗi buồn thấm
thía vào cõi lòng, toả rộng trong không gian từ con đèo tới miền quê thân thương. Sắc điệu trữ
tình dào dạt, thiết tha trầm lắng. Lữ khách là một nữ sĩ nên nỗi nhớ nước nhớ kinh kì Thăng
Long, nhớ nhà, nhớ chồng con, nhớ làng Nghi Tàm thân thuộc không thể nào kể xiết
Bốn chữ dừng chân đứng lại thể hiện một nỗi niềm xúc động đến bồn chồn. Một cái nhìn
mênh mang. Trời non nước ; nhìn xa, nhìn gần, nhìn sâu, nhìn bốn phía rồi nữ sĩ thấy vô
cùng buồn đau, như tan nát cả tâm hồn, chỉ còn lại một mảnh tình riêng. Lấy cái bao la, mênh
mông, vô tận của vũ trụ, của trời non nước tương phản với cái nhỏ bé của mảnh tình riêng của
ta với ta đã cực tả nỗi buồn cô đơn xa vắng của người lữ khách khi đứng trên đỉnh Đèo Ngang
lúc ngày tàn. Đó là tâm trạng nhớ quê nhớ nhà, buồn mà đẹp.
Qua đèo Ngang là bài thơ thất ngôn bát cú đường luật tuyệt bút, thế giới thiên nhiên kì thú
của đèo Ngang như hiện qua dòng thơ. Cảnh sắc hữu tình thấm một nỗi buồn man mác.Giọng
thơ du dương réo rắt. Phép đối và đảo ngữ có giá trị thẩm mĩ trong nét vẽ tạo hình đầy khám
phá.Cảm hứng thiên nhiên trữ tình chan hoà với tình yêu quê hương đất nước đậm đà qua một
hồn thơ trang nhã. Bài thơ Qua Đèo Ngang là tiếng nói của một người mà trở thành khúc tâm
tình của muôn triệu người, nó là bài thơ một thời mà mãi mãi,bài thơ non nước.
14
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
Bài 5
Cảm nghĩ của em về tình bạn trong bài thơ Bạn đến chơi nhà của nhà thơ Nguyễn
Khuyến
Nguyễn Khuyến ( 1835-1909 ) là nhà thơ Nôm kiệt xuất của dân tộc.Ông để lại nhiều bài
thơ nói về tình bạn.Bạn đến chơi nhà là một trong những bài thơ Nôm đặc sắc của ông nói lên
một tình bạn cao đẹp.
Câu nhập đề rất tự nhiên như một lời nói mộc mạc của nhà thơ sau bao tháng ngày mới gặp
lại bạn.Lời chào vồn vã, biểu lộ niềm vui mừng khôn xiết :
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Chữ bác gợi lên thái độ niềm nở, thân mật và kính trọng của nhà thơ đối với bạn tri âm, một
cách xưng hô thân tình. Đằng sau câu thơ -lời chào hỏi –có thể là những giọt lệ ứa ra ở khoé
mắt đôi bạn già. Đã bấy lâu nay là bao nhiêu năm tháng ? Tính thời gian không được xác định
cụ thể, nhưng chắc chắn là đã khá lâu, vì sức yếu tuổi già nên xiết bao đợi chờ mong nhớ. Bộ
phận trạng ngữ chỉ thời gian được đặt lên đầu câu thơ diễn tả sự xa cách nhớ mong, làm nổi
bật ý thơ : niềm xúc động và niềm vui sướng vô hạn khi gặp lại bạn. Chữ bác được nói đến
trong bài thơ là bạn chí thân, ở xa lâu ngày mới gặp nên tác giả rất mừng và cảm động.
Sáu câu thơ tiếp theo toát lên một nụ cười hóm hỉnh. Một ý thơ bao trùm : đã lâu ngày bạn
mới đến chơi, biết lấy gì đãi bạn đây ? Một tình thế khá éo le : trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Chữ thòi là một hư từ rất ít khi xuất hiện trong thơ vì dễ rơi vào sự tầm thường nhạt nhẽo.
Nhưng dưới ngòi bút của Tam Nguyên Yên Đỗ, nó trở nên thanh thoát tự nhiên vô cung
chứng tỏ ông có một bản lĩnh nghệ thuật điêu luyện.
Phần thực và luận, tính hệ thống của ngôn ngữ thơ rất chặt chẽ nhất quán ở một cách nói,
một lối biểu cảm: có tất cả mà cũng chẳng có gì để đãi bạn thân ! Có ao và cá, có vườn và gà,
có cà và cải, có mướp và bầu nhưng Bức tranh vườn Bùi hiện lên sống động, vui tươi. Một
nếp sống dân dã, chất phác, cần cù, bình dị đáng yêu. Một cuộc đời thanh bạch ấm áp và tình
người rất đáng tự hào. Chúng ta như cảm thấy Nguyễn Khuyến như dắt tay bạn ra thăm vườn
cây, ao cá, tận hưởng thú vui dân dã của một ông quan về quê ở ẩn. Phép đối chặt chẽ, phân
minh : cảnh với cảnh, tạo nên một giọng thơ nhẹ nhàng, vui tươi, lời thơ cân xứng.
Các tính từ sâu, cả, rộng, thưa ; các trạng từ chỉ tình trạng khôn, khó ; các trạng từ chỉ sự
tiếp diễn của hành động chửa, mới, vừa, đương hô ứng bổ trợ cho nhau, được sử dụng khéo
léo và tự nhiên. Những từ ấy được đặt bên cạnh những chi tiết miêu tả chấm phá đã làm hiện
lên khung cảnh vườn tược, cây cối đang đơm hoa kết trái, ẩn chứa một sức sống tiềm tàng,
gần gũi và mến yêu.
Dân gian có câu Khách đến chơi nhà không gà cũng vịt nhưng Nguyễn Khuyễn đã giãi bày
với bạn : Câu thơ thứ 7 tiếp nối và mở rộng ý thơ trên, khẳng định luôn cái không có
Đầu trò tiếp khách trầu không có
Phải chăng cái nghèo của cụ Tam Nguyên đã đến mức ấy ư ? Nhà thơ đã nói quá về cái
nghèo, thi vị hoá cái nghèo. Một ông quan triều Nguyễn về ở ẩn với một cơ ngơi 9 sào tư thổ
là nơi ở thì không thể miếng trầu là đầu câu chuyện cũng không có để tiếp bạn. Đây là một lời
thơ hóm hỉnh để bày tỏ một cuộc sống thanh bạch, một tâm hồn thanh cao của một nhà Nho
khước từ lương bổng của thực dân Pháp, lui về sống bình dị giữa xóm làng quê hương.
Câu kết là sự bùng nổ về ý và tình. Tiếp bạn chẳng cần có mâm cao cỗ đầy, mà chỉ có một
tấm lòng, một tình bạn chân thành thắm thiết :
15
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
Bác đến chơi đây ta với ta .
Lần thứ 2 chữ bác xuất hiện trong bài thơ, thể hiện một sự trìu mến kính trọng. Mọi cái đều
không có nhưng lại có tình bằng hữu thân thiết. Chữ ta là đại từ nhân xưng, trong bài thơ này
là tôi và bác. Cụm từ ta với ta biểu lộ một niềm vui trọn vẹn, tràn đầy và lắng đọng trong tâm
hồn, toả rộng trong không gian và thời gian. Với cụm từ ta với ta trong câu thơ Một mảnh tình
riêng ta với ta của Bà Huyện thanh Quan là nỗi buồn cô đơn của khách li hương, còn trong
thơ của Nguyễn Khuyến lại ấm áp tình người và sâu nặng tình bạn.
Bài thơ Nôm viết theo thể thất ngôn bát cú đường luật, bố cục đặc biệt 1 – 6 – 1 khó quên
này cho thấy một hồn thơ đẹp, một tình bạn chân tình, một tấm lòng hồn hậu đẹp đẽ. Tâm hồn
đó, tấm lòng đó ngày nay vẫn xứng đáng là tấm gương sáng để mọi người soi chung. Nguyễn
Khuyến không những là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam mà còn là nhà thơ của tình bạn trong
sáng thuỷ chung và cao đẹp rất đáng yêu, đáng kính.
Bài 6
Cảm nghĩ về bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh ( Tĩnh dạ tứ ) của Lí Bạch
Lí Bạch ( 701-762 ) là một trong những nhà thơ lớn đời Đường.Ông để lại trên 1000 bài
thơ. Thiên nhiên tráng lệ, trăng và rượu, tình bằng hữu, tình cố hương, lòng khát khao tự do
được diễn tả qua những vần thơ lãng mạn.Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh là nỗi buồn nhớ cố
hương sâu lắng của LB. Đây là bài thơ dịch :
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt, vẻn vẹn có 20 chữ nhưng đã tạo nên một bức
tranh thuỷ mặc về cảnh mộng đêm trăng gợi lên vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân với bút pháp
lãng mạn thần tình. Đêm về khuya càng trở nên thanh tĩnh. Không gian bốn bề vắng lặng.
Không một tiếng gió thổi, một tiếng côn trùng kêu, cũng chẳng có một tiếng chuông chùa
ngân buông. Nhà thơ chợt tỉnh giấc thấy mình nằm dưới trăng. Cả một không gian ngập tràn
ánh trăng. Ánh sáng rọi vào đầu giường. Thật cảm động, trăng đến khơi gợi một nguồn thơ và
trăng là chất liệu tạo nên vần thơ dào dạt. Ánh trăng sáng quá, tải khắp không gian bao phủ
khắp mặt đất.Câu thơ thư 2 biểu hiện một trạng thái ngỡ ngàng của thi nhân vừa tỉnh giấc vừa
nhìn trăng. Trăng đẹp và thơ mộng. Đêm đã sang canh, êm đềm thanh tĩnh. Chỉ có trăng và
nhà thơ. Thế rồi thi tiên LB ngẩng đầu ngắm trăng. Trăng với thi nhân như đôi bạn tri âm gặp
nhau, nhìn nhau cảm động không nói nên lời. Cả ba câu thơ đều tả ánh trăng trong đêm thanh
tĩnh với tâm trang ngỡ ngàng và bồi hồi của thi nhân. Câu 1 và câu 3 tả trăng bằng trực giác,
câu 2 tả trăng bằng cảm giác. Một không gian vừa thực vừa mộng, huyền ảo lung linh
Đầu giương ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương .
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Lí Bạch đang sống ở nơi đất khách quê người. Giữa đêm khuya thanh tĩnh chỉ có trăng và
thi nhân. Ba câu thơ đầu gợi tả một tâm trang : nỗi buồn cô đơn của khách xa quê
Hai câu 3 và 4 được cấu trúc theo phép đối :
16
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương
Hai tư thế ngẩng đầu và cúi đầu, hai tâm trạng : nhìn và nhớ ; hai đối tượng làm xúc động
và trĩu lòng kẻ xa quê : trăng sáng và cố hương. Hai hình ảnh trăng sáng và cố hương đi sóng
nhau biểu hiện một tâm hồn yêu thiên nhiên, một tấm lòng yêu quê hương thiết tha sâu nặng.
Cố hương là quê cũ thân yêu, nhớ cố hương là nhớ tới gia đình, nhớ tới người thân thương
ruột thịt, nhớ tới thời thơ ấu với bao mộng tưởng và kỉ niệm đẹp, nhớ lại những thăng trầm
một đời người. Ánh trăng và cố hương gắn bó với nhau trong mạch cảm hứng trữ tình, hoà
quyện thành một liên tưởng thấm thía, cảm động, nâng cánh cho hồn thơ bay lên. Trăng lênh
láng tràn ngập. Cảm xúc thơ dâng lên dào dạt.
Có thể nói Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh là một bài thơ trăng rất hay. LB rất tinh tế đã
lấy ngoại cảnh ánh trăng miền đất lạ để biểu hiện tâm tình nỗi buồn nhớ cố hương. Ngôn ngữ
thơ hàm xúc, hình tượng hoa lệ, cảm xúc mênh mang, gợi lên một nỗi buồn đẹp. Tất cả tạo
nên vẻ đẹp văn chương của bài thơ trăng này. LB đã để lại hàng trăm bài thơ trăng. Ai đã từng
trải qua nhiều năm tháng li hương, ai đã từng mang một tâm hồn yêu trăng chắc chắn sẽ bồi
hồi xúc động khi đọc bài thơ này của thi tiên Lí Bạch.
Bài 7
Chép thuộc lòng bài thơ Ngầu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương
( bản dịch của Phạm Sĩ Vĩ hoặc của Trần Trọng San )
Trong hai câu thơ cuối, tác giả gặp gỡ những ai ở quê ? Em thử hình dung tâm trạng của tác
giả khi “gặp nhau mà chẳng biết nhau” Đặc biệt là khi các em bé cười hỏi : “khách ở chốn nào
lại chơi”
- Hai câu cuối :
+ Tác giả gặp các em nhỏ của làng quê .
+ Tâm trạng của tác giả là tâm trạng buồn, lẽ ra gặp được người quen, người lớn thì thật vui,
nhưng chỉ gặp trẻ em “không biết nhau”.Tác giả còn buồn hơn khi những người làng trẻ tuổi
đã coi ông là một người xa lạ. Một người yêu quê tha thiết nhưng lại bị xem như là khách
ngay trên quê hương mình. Chính sự chạnh lòng của tác giả đã tạo nên cảm xúc viết bài thơ
này .
Bài 8
Phát biểu cảm nghĩ về bài Cảnh Khuya của Bác Hồ
Hồ Chí Minh không những là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già của dân tộc Việt Nam mà còn
là một thi sĩ nổi tiếng. Đọc bài Cảnh khuya mà em càng thấy rõ hơn tâm hồn thi sĩ và tấm lòng
của người chiến sĩ trong Bác. Em thấy say mê cảnh đẹp hùng vĩ nên thơ của núi rừng Việt Bắc
–cái nôi của Cách mạng. Em cũng rất khâm phục kính yêu lòng yêu nước vĩ đại của Bác.
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
17
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
Đầu tiên là âm thanh tiếng suối trong rừng đêm vắng Việt Bắc, nghe như tiếng hát của con
người từ xa vọng lại làm ấm lòng người. Bức tranh tươi đẹp của rừng Việt Bắc thể hiệm ở
ngay hai câu thơ đầu :
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên thơ mộng hơn, tươi đẹp hơn nhờ biện
pháp so sánh tài tình và độc đáo :Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Âm thanh mới trong trẻo, du dương ngân nga làm sao. Âm a ở cuối câu thơ gợi nên cung
bậc của tiếng suối, tiếng suối đều đặn, miên man mang lại cho tâm hồn em một âm hưởng
thiết tha ngọt ngào mà sâu lắng. Nghệ thuật so sánh còn tạo ra một vẻ đẹp mới cho hình ảnh
thơ : Bác biến dòng suối trở thành một con người có tâm hồn, có tình cảm, biến tiếng suối
bằng tiếng hát, một âm thanh trong trẻo, trẻ trung. Tiếng suối như có hồn của người nghệ sĩ.
Bác đứng dưới rừng Việt Bắc thưởng thức tiếng suối, thưởng thức cảnh thiên nhiên của núi
rừng khi đã về khuya. Phải rất say mê, hoà hợp thân thiết với thiên nhiên bác mới nhìn thấy vẻ
đẹp của thiên nhiên như thế. Thiên nhiên tạo ra vẻ đẹp trong tâm hồn Bác. Đọc đến đây dẫu
không phải là một nghệ sĩ, không thân thiết được với thiên nhiên như Bác em cũng thấy lòng
mình rung động mãnh liệt. Em thấy vô cùng sung sướng, xúc đông và em như thấy con suối
hiện ra trước mắt mình thật lung linh huyền ảo.
Sau đó là hình ảnh lung linh của rừng Việt Bắc dưới ánh trăng đẹp. Trăng chiếu trên cây cổ
thụ, lồng vào các cành lá cổ thụ, in xuống mặt đất như dát hoa trên mặt đất )
“Trăng lồng cổ thụ bang lồng hoa”
Trăng tròn vành vạnh toả sáng xuống trần gian. Những lùm cây rậm rạp được trăng chiếu
xuống trông như những sợi kim tuyến lấp lánh trang điểm trên mái tóc bồng bềnh của người
thiếu nữ.Trăng soi qua kẽ lá, chiếu xuống đất tạo thành muôn vàn những đốm trắng nhỏ li ti
trên mặt đất lấm tấm như hoa gấm. Trăng, cây cổ thụ, bông hoa tuy ở tầng bậc khác nhau
nhưng chúng không cách biệt mà gắn bó, đan xen vào nhau, lồng vào nhau, tôn thêm vẻ đẹp
cho nhau.Chúng cũng sống động lên nhờ từ lồng.Trước mắt em là một bức tranh tươi đẹp, các
nét cảnh hoà quyện đan xen khiến cho bức tranh càng lung linh huyền ảo hơn. Bức tranh đó
làm em say mê ngây ngất.
Cảnh rừng Việt Bắc rất phong phú nhưng thơ Bác chỉ khắc hoạ một vài nét, ánh trăng,
tiếng suối.Tuy nhiên em vẫn hình dung thấy một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tâm hồn
tinh tế, nhạy cảm của Người. Thi sĩ HCM như thốt lên rung động cảnh khuya như vẽ. Làm sao
mà thi nhân ngủ được, bởi lòng Người đang rung động trước vẻ đẹp của đêm trăng trong rừng.
Phải chăng Bác thao thức chưa ngủ vì cảnh thiên nhiên quá đẹp ?
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Nghệ thuật so sánh này gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.Cảnh rừng Việt Bắc
tươi đẹp như một bức tranh hết sức hoàn hảo có trăng, có suối, có bông hoa, có cây cổ thụ.
Hai lần tác giả dùng biện pháp so sánh trong bài nhưng mỗi lần so sánh rừng Việt Bắc hiện ra
cụ thể hơn. Bác Hồ quả là một người có tâm hồn yêu thiên nhiên và yêu nước sâu sắc. Khác
với người xưa, Bác không những yêu thiên nhiên mà Bác còn lo lắng cho giang sơn tươi đẹp.
Thật là cảm động khi người đọc được tác giả lí giải đến bất ngờ : Bác chưa ngủ không chỉ vì
đêm trăng đẹp mà vì Bác còn lo việc nước nhà
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Cảm xúc khâm phục Bác càng dâng lên trong em, câu thơ đã lí giải toàn bộ nguyên do vì
sao Bác không ngủ, vì lo cho nước nhà. Nhờ câu thơ này em hiểu ra hoàn cảnh của Bác lúc
18
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
đó. Có lẽ đã bao đêm Bác thao thức không ngủ như thế này vì Bác lo cho dân cho nước. Rồi
đêm nay giữa núi rừng Việt Bắc, bất chợt gặp khung cảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, lòng
Bác tràn trề cảm xúc và đã bật ra ý thơ chứ không phải ngắm cảnh để làm thơ.Điều ấy càng
khiến em xúc động. Em càng kính yêu khâm phục vô bờ bến với tâm hồn, trái tim vĩ đại của
Bác
Đọc Cảnh khuya em vừa say mê với cảnh, vừa khâm phục phẩm chất và tâm hồn của
Bác. Đọc bài thơ em bắt gặp tâm hồn của người thi sĩ và tấm lòng của người chiến sĩ. Tâm
hồn ấy, tấm lòng ấy kết hợp hài hoà trong con người Bác, làm nên cái vĩ đại của Bác. Bác
không bao giờ sao nhãng việc nước, sao nhãng việc quân dù chỉ trong một chút thư giãn với
thiên nhiên hay một thoáng mơ màng sau một ngày làm việc vất vả .
Bài 9
Hãy phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Rằm tháng Giêng của chủ tịch Hồ Chí Minh
.
Dàn ý
1. Mở Bài :
Giới thiệu tác giả, hoàn cảnh ra đời ,nội dung bài thơ và cảm nghĩ chung của em .
2 Thân bài :
Nêu cảm nghĩ theo từng câu thơ ( vận dụng các biện pháp liên tưởng, tưởng tượng, so
sánh )
- Câu đầu gợi lên một không gian tràn đầy sức sống của mùa xuân.Vầng trăng đêm rằm ở độ
tròn đầy và toả sáng nhất. Câu thơ tả vầng trăng với thời gian, không gian cụ thể
- Câu thứ 2 : Cảm xúc mùa xuân dào dạt trong lòng nhà thơ, và cả trong lòng người đọc. Ba
chữ xuân ( Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên ) cùng với trăng rằm mùa xuân tạo nên 4 nét
vẽ, 4
thành viên của một bức tranh xuân độc lập nhưng hợp nhất trong sự mênh mông của trời
đất dưới ánh trăng.
- Câu 3 : Trên cái nền trăng là con người và chiếc thuyền trên dòng sông nước toả hơi mịt
mờ như khói. Con thuyền giữa dòng sông như ở giữa một vùng hư ảo. Bác làm việc quân
trong không gian và thời gian ấy. Cái mộng trở nên thực và cái thực cũng vì thế mà bay lên
đẹp hơn. Đàm quân sự là bàn việc đời sống, việc cứu nước cứu dân. Chuyện chính nghĩa nên
đẹp và thi vị.
- Câu 4 : Trăng không chỉ sáng trên trời, trên sông, trên nước mà đã tràn trề trong tâm hồn
nhà thơ.
+ Chuyện quân sự hẳn phải thú vị, thông suốt, sảng khoái, đầy lạc quan tin tưởng.
+ Hình ảnh Bác ung dung thanh thản giữa cảnh thiên nhiên tươi sáng.
3. Kết bài :
Em trân trọng, kính yêu hồn thơ của Bác và tinh thần yêu thiên nhiên đất nước, lòng lạc
quan cách mạng của Người.
Bài 10
Phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh
Xuân Quỳnh ( 1942-1988 )nổi tiếng với những bài thơ 5 chữ, một hồn thơ nồng nàn, đằm
thắm, dào dạt yêu thương. Bài Tiếng gà trưa được nữ sĩ viết vào những năm đầu của cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ Tiếng gà trưa được điệp lại 4 lần cứ ngân vang mãi trong tâm
19
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
hồn người lính trên đường hành quân ra trận như tiếng gọi của quê hương thân thương. Dòng
cảm xúc từ hiện tại man mác và bâng khuâng trỗi về những năm tháng tuổi thơ với bao kỉ
niệm cảm động về đàn gà và ổ trứng, về người bà đôn hậu đã làm sâu nặng tình yêu quê
hương đất nước. Tiếng gà trưa là một âm thanh đồng vọng của gia đình, của xóm làng quê, trở
thành hành trang của người lính trẻ.
Đoạn thơ đầu 7 câu nói về tâm trạng người chiến sĩ trên đường hành quân xa. Tiếng gà nhà
ai nhảy ổ : cục cục tác cục ta cất lên nơi xóm nhỏ. Tiếng gà nhà ai nhảy ổ là âm thanh bình dị,
thân thuộc của làng quê ta đã bao đời nay. Đối với người lính trẻ lại vô cùng xúc động. Tiếng
gà trưa đã xao động nắng trưa và cả hồn người. Như cho người lính thêm sức mạnh mới. Như
gợi nhớ tuổi thơ. Chữ nghe được điệp lại 3 lần đã làm cho giọng thơ thêm phần ngọt ngào, tha
thiết , bồi hồi :
“Cục cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ
Đoạn thơ thứ 2 có 26 câu thơ. Câu thơ Tiếng gà trưa được láy đi láy lại 3 lần, một âm thanh
hiện hữu đồng vọng gợi nhớ bao kỉ niệm sâu sắc một thời thơ bé. Nghe tiếng gà trưa, người
lính trẻ sống lại, nhớ lại màu hồng trứng gà trên ổ rơm, nhớ lại đàn gà đông đúc mà bà đã tần
tảo chắt chiu. Ta như được ngắm một bức tranh gà rất sống động, rất đẹp :
Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm nắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng .
Có màu hồng của trứng gà trong ổ rơm, có sắc đốm của gà mái hoa mơ, có lông óng như
màu nắng của con gà mái vàng. Cấu trúc song hành xứng đôi, chữ này điệp lại hai lần, ta cảm
thấy tay bà, tay cháu đang chỉ đang đếm những con gà mái đang tìm mồi trong sân nhà.
Nghe tiếng gà trưa cất lên nơi xóm nhỏ, người lính lại bồi hồi nhớ lại bao kỉ niệm về bà.
Quên sao được tiếng mắng của bà vì tội cháu nhìn gà đẻ. Sợ bị lang mặt cháu nhớ mãi hình
ảnh tay bà khum soi trứng, bà tần tảo chắt chiu từng quả trứng hồng cho con gà mái ấp. Là
cháu nhớ tới bao nỗi lo, niềm mong ước của bà với tình thương bao la. Cái hay của thơ Xuân
Quỳnh có lúc là ở những chi tiết nghệ thuật, tuy rất bình dị mà sống động nên thơ. Đó là cái ổ
rơm hồng những trứng, là hình ảnh tay bà khum soi trứng. Đó là tiếng sột soạt của bộ quần áo
mới.
Tục ngữ có câu : già được bát canh, trẻ được manh áo mới. Cháu có bao giờ quên được cái
quần chéo go,cái áo chúc bâu ngày xưa bà mua cho sau mỗi lần bán gà.Tình thương cháu của
bà đã tạo nên hạnh phúc tuổi thơ.
Từ liên tưởng tác giả chuyển sang suy tưởng. Lần thứ 4 câu thơ Tiếng gà trưa lại cất lên.
Tiếng gà gọi về những giấc mơ tuổi thơ của người lính trẻ. Tiếng gà trưa bình dị mà thiêng
liêng, nó nhắc nhở, nó lay gọi bao tình cảm đẹp dâng lên trong lòng người chiến sĩ trên đường
hành quân ra trận thời chống Mỹ cứu nước:
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
20
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
ổ trứng hồng tuổi thơ
Bài thơ có 3 câu thơ hay nhất, đẹp nhất : Ổ rơm hồng những trứng, Giấc ngủ hồng sắc
trắng, Ổ trứng hồng tuổi thơ.Tất cả đều nói về niềm vui hạnh phúc. Chữ hồng là tính từ làm
chức năng vị ngữ, hình tượng thơ vừa đẹp vừa biểu cảm. Nghe tiếng gà trưa, người chiến sĩ lại
nhớ bà, nhớ ổ trứng hồng tuổi thơ. Xuân Quỳnh đã tìm được một cách nói mới về kỉ niệm tuổi
thơ, về tình bà cháu chan hoà trong tình yêu quê hương, đất nước.
Tiếng gà trưa là một bài thơ hay, thiết tha ngọt ngào. Tiếng gà trưa cũng là tiếng vọng
của quê hương, là tình yêu thương của anh bộ đội trong kháng chiến chống Mĩ rất thơ và rất
đẹp.
Bài 11
Cảm nhận cuả em về bài tuỳ bút Một thứ quà của lúa non : cốm
Năm 1942 nhà văn Thạch Lam qua đời ở tuổi 32, và trước đó mấy tháng, tập tuỳ bút Hà
Nội Băm sáu phố phường của ông đã ra mắt bạn đọc. Có thể nói đây là một tác phẩm xuất sắc
và độc đáo viết về văn hoá ẩm thực VN viết về nét đẹp của Hà Nội ngàn năm văn vật. Một thứ
quà của lúa non : cốm rút trong tập Hà Nội Băm sáu phố phường là một bài thơ trữ tình bằng
văn xuôi tuyệt tác, được tác giả viết với tất cả tấm lòng trân trọng, thành kính, thiêng liêng .
Phần đầu bài tuỳ bút nói về nguyên liệu làm ra cốm, một món quà thanh nhã và tinh khiết.
Hương vị cốm là sự nhuần thấm cái hương thơm của lá, của vừng sen trên hồ do cơn gió mùa
hạ đem lại. Là cái mùi thơm mát của bông lúa non ta ngửi thấy khi đi qua những cánh đồng
xanh khi hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi. Nguyên liệu làm ra cốm là cái chất
quý trong sạch của trời, được hình thành một cách linh diệu, lúc đầu là một giọt sữa trắng
thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ, về sau được nắng thu làm cho giọt sữa dần dần đông
lại Thạch Lam đã có một cách quan sát tinh tế, một sự cảm nhận tài hoa một cách viết nhẹ
nhàng biểu cảm và đầy chất thơ. Trái tim của ông tưởng như đang rung động trước màu xanh
và hương thơm dịu ngọt của bông lúa nếp non trên cánh đồng làng quê.
Lúa nếp non đến lúc nào được gặt đem về, cách chế biến cốm là một sự bí mật trân trọng và
khắt khe giữ gìn được truyền từ đời này sang đời khác.Và chỉ có cốm Vòng mới là đặc sản Hà
Nội do bàn tay những cô gái làng Vòng làm ra thứ cốm dẻo và thơm ấy. Cốm Vòng ngon nổi
tiếng khắp cả nước. Những người làm ra cốm và gánh cốm đi bán rất duyên dáng, đáng yêu.
Đó là các cô gái làng Vòng xinh xinh áo quần gọn ghẽ với cái đòn gánh hai đầu cong vút như
chiếc thuyền rồng được bà con phố phường ngóng trông khi mùa cốm đến. Cốm đã ngon
người bán cốm lại xinh dòn, cuộc sống thêm sắc màu ý vị.
Cốm là sự kết tinh mọi thứ quý báu nhất tốt đẹp nhất của quê hương, là thức quà riêng biệt
của đất nước, là thức dâng của những cánh đồng lúa bát ngát xanh. Là cái hương vị mộc mạc
giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ An Nam.Hương vị của cốm được Thạch Lam cảm
thụ với tất cả sự trân trong và tự hào.Cốm như một nhân chứng, một sứ giả của tình yêu, là thứ
quà sêu tết làm cho tình yêu đôi lứa thêm bền đẹp vướng vít của tơ hồng. Tình duyên bền đẹp
của đôi lứa cũng như hồng cốm tốt đôi vậy. Sắc màu, hương vị của hồng của cốm là một sự
hoà hợp tuyệt vời : màu xanh tươi của cốm như ngọc thạch quý, màu đỏ thắm của hồng như
21
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
ngọc lựu già. Một thứ thanh đạm, một thứ ngọt sắc, hai vị nâng đỡ nhau để hạnh phúc được
bền lâu.Cách so sánh của Thạch Lam không chỉ sắc sảo tài hoa mà còn thể hiện một phong
cách ẩm thực rất sành điệu.
Phần cuối bài tuỳ bút Thạch Lam nói về cách ăn cốm, ăn cốm không thể ăn vội mà phải ăn
từng chút ít thong thả và ngẫm nghĩ để tận hưởng cái mùi thơm phức của lúa mới của hoa cỏ
dại ven bờ, cảm thụ được trong màu xanh của cốm cái tươi mát của lá non và trong chất ngọt
của cốm cái dịu dàng thanh đạm của loài thảo mộc. Hương vị của cốm còn có mùi hơi ngát
của lá sen già ướp lấy từng hạt cốm một. Tác giả viết rất gợi cảm, dùng chữ bao bọc nằm ủ để
nói về mối quan hệ tự nhiên giữa lá sen và cốm.
Sự cầu kì về cách diễn đạt biểu cảm của Thạch Lam không hề gây cho người đọc khó chịu
mà đã tô đậm chất thơ. Giọng văn của ông nhẹ nhàng có lúc như tâm sự, có lúc như khẽ nhắc
rất ân tình và thân mật. Ngòi bút nghệ thuật của tác giả rất tài hoa, giàu có trong việc chọn lọc
ngôn từ, nhất là các tính từ, các so sánh ẩn dụ để ca ngợi sự ngon lành thanh quý của cốm.
Một thứ quà của lúa non : cốm là một đoạn tuyệt phẩm hay nó đã đem đến cho chúng ta
bao dư vị, đã để ta thêm yêu mến tự hào về hương vị của quê hương xứ sở.
Bài 12
Mùa xuân của tôi
Vũ Bằng sinh năm 1913 tại HN, ông là cây bút viết văn, làm báo có tiếng từ trước năm
1945 ở HN. Sau 1954 ông vào sống ở Sài Gòn và mất tại đó năm 1984. Mùa xuân của tôi là
đoạn đầu của thiên tuỳ bút Tháng giêng mơ về trăng non rét ngọt ,mở đầu cho nỗi Thương
nhớ suốt 12 tháng của tác giả. Bài tuỳ bút đã tái hiện cảnh sắc thên nhiên và và không khí mùa
xuân trong tháng giêng ở Hà Nội và miền Bắc qua nỗi nhớ thương da diết của một người xa
quê.
Mở đầu bài văn tác giả khẳng định tình cảm của con người với mùa xuân là một quy luật
tất yếu tự nhiên . Cách sử dụng điệp từ, điệp ngữ và điệp kiểu câu nhấn mạnh tình cảm của
con người đối với mùa xuân, thể hiện sự nâng niu trân trọng thương nhớ thuỷ chung với mùa
xuân.
Cảnh sắc và không khí mùa xuân ở đất trời và lòng người là nội dung của đoạn văn thứ 2.
Tác giả thể hiện sự cảm nhận chung về cảnh sắc và không khí mùa xuân đất Bắc cùng với
những cảm xúc dồi dào được khơi dậy trong lòng người khi xuân đến. Về cảnh sắc thiên
nhiên, tác giả đã gợi tả được thời tiết, khí hậu đặc biệt của mùa xuân, vừa có cái lạnh của mưa
riêu riêu gió lành lạnh như từ mùa đông còn vương lại, nhưng lại có cái ấm áp, nồng nàn của
khí xuân, hơi xuân tràn ngập trời đất và ngấm vào lòng người, những âm thanh tiếng nhạn
kêu, tiếng trống chèo, câu hát huê tình. Tình thương nhớ mùa xuân đất Bắc của Vũ Bằng rất
tha thiết nồng nàn cháy bỏng. Ta thấy tâm hồn ông trải khắp cảnh sắc và con người từ xóm
thôn đến bầu trời, từ lễ hội mùa xuân đến tiếng trống chèo đến câu tình ca thôn nữ. Không khí
mùa xuân còn được thể hiện trong khung cảnh gia đình với bàn thờ đèn nến hương trầm và
tình cảm gia đình yêu thương thắm thiết.Tác giả không dừng lại nhiều ở ngoại cảnh mà tập
trung thể hiện nổi bật sức sống của mùa xuân trong thiên nhiên và ở lòng người bằng nhiều
hình ảnh gợi cảm và so sánh cụ thể : Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên
trong lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra
22
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP NGỮ VĂN 7
thành những cái lá nhỏ ti ti. Giọng điệu vừa sôi nổi vừa tha thiết của tác giả đã góp phần quan
trọng tạo nên sức truyền cảm của đoạn văn.
Đoạn văn thứ 3 tác giả tập trung miêu tả nét riêng của trời đất thiên nhiên và không khí mùa
xuân trong thời điểm từ sau ngày rằm tháng giêng âm lịch.Ở đây đã bộc lộ sự quan sát và cảm
nhận rất tinh tế, nhạy cảm của tác giả trong từng chi tiết ngoại cảnh.Tác giả đã phát hiện và
miêu tả sự thay đổi chuyển biến của màu sắc và không khí bầu trời, mắt đất, cây cỏ trong một
khoảng thời gian ngắn ngủi từ đầu tháng qua rằm tháng giêng Qua đó cũng thấy rõ tác giả là
người không chỉ am hiểu kĩ càng mà còn rất yêu thiên nhiên, trân trọng sự sống và biết tận
hưởng những vẻ đẹp của cuộc sống.
Mùa xuân của tôi thể hiện phong cách của VB, một lối viết tài hoa, câu chữ mượt mà, lời
văn giàu hình ảnh, cảm xúc trong sáng đậm đà, giọng văn nhẹ nhàng mơn man như làn gió
xuân. Với Vũ Bằng tình yêu mùa xuân, yêu thiên nhiên Bắc Việt, yêu mùa xuân Hà Nội rất
nồng hậu đắm say, tình yêu ấy gắn bó với bao kỉ niệm, bao nỗi nhớ vơi đầy trong tâm hồn
khách xa quê. Trong hoàn cảnh đất nước bị quân thù chia cắt tác giả nhớ mùa xuân Hà Nội
cũng là nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình vợ con đã bao ngày tháng cách biệt.Tác giả đã kín
đáo gửi qua Thương nhớ 12 một niềm tin sắt son thuỷ chung về cội nguồn, về ý chí thống nhất
đất nước, về Bắc - Nam liền một dải, sum họp một nhà.
23