Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Địa chất dầu khí vùng bồn trũng Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.09 KB, 58 trang )

GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG I
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU
ĐỊA CHẤT VÙNG
Bồn trũng Cửu Long nằm phía Đông Bắc thềm lục đòa Nam Việt Nam,
với tọa độ đòa lý : nằm giữa 9
0
-11
0
vó độ Bắc, 106
0
30’-109
0
kinh độ Đông, kéo
dài theo phương Đông Bắc – Tây Nam. Bồn trũng Cửu Long có diện tích
56.000 km
2
, phía Đông Nam được ngăn cách với trũng Nam Côn Sơn bởi khối
nâng Côn Sơn, phía Tây Nam được ngăn cách với bồn trũng vònh Thái Lan bởi
khối nâng Korat, phía Tây Bắc nằm trên phần rìa của đòa khối Kontum.
Bồn trũng Cửu Long được các nhà đòa chất nghiên cứu từ lâu. Công tác
nghiên cứu đòa chất, đòa vật lý ở đây khá tỉ mỉ và thu được nhiều kết quả tốt,
cùng với việc tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí được tiến hành mạnh mẽ
ở các mỏ Bạch Hổ, mỏ Rồng và đã đạt được kết quả có giá trò kinh tế lớn lao.
(HÌNH 1)
Nhìn chung lòch sử nghiên cứu bồn trũng Cửu Long có thể chia làm ba
giai đoạn :
I.GIAI ĐOẠN TRƯỚC NĂM 1975.
Vào đầu những năm 60 đã có những dự đoán về tiềm năng dầu khí ở
bồn trũng, nó trở thàng đối tượng tìm kiếm dầu khí của một số công ty nước
ngoài.


Trong những năm 1960_1970,công ty ManDrel đã đo đòa vật lý khu
vực toàn thềm lục đòa phía Nam với mạng lưới tuyến khảo sát 39km50km.
Năm 1969, công ty Mobil Oil đã phủ mạng lưới tuyến khảo sát đòa vật
lý 8km8km và 4km  4km trên khu vực lô 09 và lô 16.
Trang1
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
Năm 1974, công ty Petty Ray đã tiến hành nghiên cứu đòa vật lý với
mạng lưới tuyến 2km2km trên khu vực lô 09.
Đầu năm 1975, công ty Mobil Oil đã khoan thăm dò giếng BH-1X ở
vùng mỏ Bạch Hổ, khi thử vỉa tầng Mioxen hạ đã thu được dòng dầu công
nghiệp đầu tiên với lưu lượng 2400 thùng/ngày đêm.
II.GIAI ĐOẠN 1975_1980.
Năm 1976, công ty CGS của Pháp đã tiến hành đo đòa vật lý theo mạng
lưới tuyến khu vực và liên kết đòa chất ở tất cả các lô 09, 16, 17 vào các khu
vực đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 1978, công ty Geco của NaUy đã tiến hành đo mạng lưới đòa vật
lý 8km8km, 4km4km và khảo sát chi tiết mạng lưới 2km2km, 1km1km
trên khu vực lô 09, lô 16. Sau đó Tổng Cục Dầu Khí cho tiến hành khảo sát
đòa chấn 2D (mạng lưới 1km1km) với 731 km trên các lô 09 và 16.
Năm 1979, công ty Deminex đo đòa vật lý lô 15 với mạng lưới 3,5 km
3,5 km là tiến hành khoan thăm dò 4 giếng 15A-1X, 15B-1X, 15C-1X, 5G-
1X. Chỉ riêng giếng 15A-1X gặp dầu nhưng không có giá trò công nghiệp.
Trong những năm 1978-1980, các công ty dầu khí Deminex (CHLB
Đức (cũ), Bow Valley(Mỹ) và Agip(Ý) thực hiện khoan tìm kiếm ở các lô 04,
12, 20, 21 thuộc thềm lục đòa phía nam Việt Nam đã phát hiện ra dầu nhưng
trữ lượng ít.
III.GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1980 ĐẾN NAY.
Năm 1980, liên doanh dầu khí giữa Việt Nam và Liên Xô_XNLD
Vietsovpetro được thành lập và tiến hành thăm dò, khai thác dầu khí rộng rãi
trên toàn bồn trũng.

Năm 1984, Liên Đoàn Đòa Vật Lý Thái Bình Dương của Liên Xô đã
tiến hành khảo sát khu vực một cách chi tiết với các mạng lưới sau:
Mạng lưới tuyến 2km  2km ở các cấu tạo Bạch Hổ, Rồng, Tam Đảo.
Trang2
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
Mạng lưới tuyến 1km  1km ở các cấu tạo Rồng, Tam Đảo, khu vực lô
15.
Mạng lưới tuyến 0,5km  0,5km ở cấu tạo Bạch Hổ.
Năm 1991 công ty Geco thực hiện công tác khảo sát đòa chấn 3D ở mỏ
Bạch Hổ.
Từ tháng 9/1991 công ty Petronas Carigali(Việt Nam)Snd.Bhd khoan
thăm dò các lô 01, 02 với các giếng Ruby-1, Jade-1, Emerald-1, Diamon-1,
Topaz-1…
Cho đến nay có tất cả khoảng trên 70.000 km tuyến đòa chấn 2 chiều, 3
chiều đã thực hiện trên diện tích bồn trũng với mật độ trung bình 1,5km /
1km
2
, đã khoan hơn 100 giếng tìm kiếm, thăm dò khai thác trên 7 cấu tạo với
hàng trăm nghìn m khoan, phát hiện nhiều mỏ dầu khí với các đối tượng sản
phẩm là trầm tích Mioxen, Oligoxen và đặc biệt là đá móng kết tinh (granit,
granodiorit). Khai thác dầu được thực hiện đầu tiên ở mỏ Bạch Hổ từ
26/06/1996, cho đến nay đã có thêm 3 mỏ dầu được đưa vào khai thác là mỏ
Rồng(12/1994), Rạng Đông(08/1998), Ruby(10/1998). Tổng sản lượng đã khai
thác tới ngày 31/12/1999 là 78,3 triệu tấn và đưa khí đồng hành mỏ Bạch Hổ
vào bờ sử dụng cho phát điện khoảng 3,5 tỷ m
3
.
Với khoảng 100 giếng khai thác dầu từ đá móng mỏ Bạch Hổ, Rồng,
Rạng Đông và Ruby cho lưu lượng hàng trăm tấn ngày đêm, có giếng đạt tới
trên 1000 tấn /ngày đêm đã và đang khẳng đònh đá móng phong hoá nứt nẻ có

tiềm năng dầu khí lớn (60% trữ lượng là tiềm năng của bồn trũng), là đối
tượng chính cần được quan tâm hơn nữa trong công tác tìm kiếm thăm dò dầu
khí trong tương lai ở bồn trũng Cửu Long và vùng kế cận.
Trang3
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG II
ĐỊA TẦNG
Đòa tầng của bồn trũng Cửu Long được thành lập dựa vào kết quả phân
tích mẫu vụn, mẫu lõi, tài liệu carota và các tài liệu phân tích cổ sinh từ các
giếng khoan đã khoan trong phạm vi bồn trũng, bao gồm các thành tạo móng
trước Kainozoi và các trầm tích Kainozoi. (HÌNH 2)
1. Phần đá móng trước Kainozoi :
Các mẫu lõi lấy được từ giếng khoan vào móng cho thấy đá móng ở
bồn trũng Cửu Long khá đồng nhất so với các bể trầm tích khác ở thềm lục
đòa Việt Nam. Hầu hết các giếng khoan ở các lô cho thấy chủ yếu là các đá
magma axit thuộc nhóm Granitoid có tuổi từ T
3
đến K
1
(theo kết quả nghiên
cứu của Vietsovpetro, Liên đoàn Đòa chất 6 và các nhà thầu đã và đang tìm
kiếm thăm dò ở bể trầm tích này). Các đá này tương đương với một số phức
hệ đá xâm nhập của lục đòa, như phức hệ Hòn Khoai γ(T)hk, phức hệ Đònh
Quán γδ(J
3
)đq, phức hệ Cà Ná γ(K
2
)cn. Do các hoạt động kiến tạo mạnh mẽ
trong Kainozoi sớm các đá này bò phá hủy mạnh mẽ bởi các đứt gãy, kèm
theo nứt nẻ, đồng thời với các hoạt động phun trào đưa lên thâm nhập vào

một số các đứt gãy và nứt nẻ Anđezit, Bazan. Tùy theo từng khu vực khác
nhau mà các đá bò nứt nẻ, phong hóa ở các mức độ khác nhau.
Đá móng cũng bò biến đổi bởi các quá trình biến đổi thứ sinh ở những
mức độ khác nhau. Trong số những khoáng vật biến đổi thứ sinh thì phát triển
nhất là Canxit, Zeolit và Kaolinit.
Tới nay các thành tạo móng được khoan với chiều dày hơn1600m (GK
404 mỏ Bạch Hổ) và mức độ biến đổi của đá có xu thế giảm theo chiều sâu,
đặc biệt ở chiều sâu hơn 4500m thì quá trình biến đổi giảm rõ rệt.
Trang4
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
2. Các trầm tích Kainozoi :
Theo tài liệu của Vietsovpetro “Thống nhất đòa tầng trầm tích Kainozoi
trũng Cửu Long” – 1987, các thành tạo trầm tích Kainozoi có những đặc điểm
chính như sau :
- Các thành tạo trầm tích theo bình đồ cũng như theo mặt cắt khá phức
tạp, bao gồm các loại đá lục nguyên tướng châu thổ và ven biển.
- Trầm tích Kainozoi phủ bất chỉnh hợp trên móng trước Kainozoi với
độ dày từ 3-8 km, càng đi về trung tâm bồn trũng độ dày càng tăng, chỗ sâu
nhất lớn hơn 8 km.
- Các trầm tích Kainozoi ở bồn Cửu Long có mặt các phân vò đòa tầng
có các hóa thạch đặc trưng được xác đònh bởi các bào tử phấn và vi cổ sinh.
Từ dưới lên bao gồm :
 Các thành tạo trầm tích Paleogen
♦ Trầm tích Eoxen P2:
Cho đến nay trầm tích cổ nhất ở trũng Cửu Long được coi là tương ứng
với tầng cuội, sạn sỏi, cát, xen lẫn với những lớp sét dày được thấy ở giếng
khoan Cửu Long 1 (Phụng Hiệp_ Cần Thơ), ở độ sâu 550m_2110m cuội có
kích thước lớn hơn 10cm. Thành phần của cuội bao gồm: granit, andersit,
gabro, tẩm sét đen, màu xanh , nâu , đỏ thẩm. Chúng đặc trưng cho trầm tích
molas, được tích tụ trong điều kiện dòng chảy mạnh, đôi chỗ rất cần nguồn

cung cấp. Trong trầm tích này nghèo hoá thạch, tuổi được xác đònh theo tài
liệu về cổ sinh.
Các thành tạo này chỉ gặp ở một ít giếng khoan ngoài biển khơi bể Cửu
Long, tuy nhiên có sự chuyển tướng cũng như trong môi trường thành tạo
(Nguyễn Giao, Lê Trọng Cán và nnk, 1987).

Trang5
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
♦ Trầm tích Oligocen (P
3
) :
Theo kết quả nghiên cứu đòa chấn, thạch học, đòa tầng cho thấy trầm
tích Oligocen của bồn trũng Cửu Long được thành tạo bởi sự lấp đầy đòa hình
cổ, bao gồm các tập trầm tích lục nguyên gồm các loại trầm tích sông hồ, đầm
lầy, trầm tích ven biển, chúng phủ bất chỉnh hợp lên móng trước Kainozoi. Ở
khu vực trung tâm của bồn trũng có thể trầm tích Oligoxen được phủ bất chỉnh
hợp lên các loạt trầm tích lót đáy tuổi Eoxen.
Theo kết quả phân chia phân vò đòa tầng đòa phương, trầm tích Oligocen
được chia thành : điệp Trà Cú – Oligocen hạ và điệp Trà Tân – Oligocen
thượng.
+ Trầm tích Oligocen hạ – điệp Trà Cú (P
3
1
tr.c) :
Bao gồm các tập sét kết màu đen, xám xen kẽ với các lớp cát hạt từ
mòn đến trung bình, độ lựa chọn tốt, gắn kết chủ yếu bởi xi măng Kaolinit,
lắng đọng trong môi trường sông hồ, đầm lầy hoặc châu thổ. Phần bên trên
của trầm tích Oligocen hạ là lớp sét dày. Trên các đòa hình nâng cổ ở đỉnh
thường không gặp hoặc gặp các lớp sét Oligocen hạ mỏng. Chiều dày của
điệp thay đổi từ 0 _ 3500m.

+ Trầm tích Oligocen thượng – điệp Trà Tân (P
3
2
tt) :
Gồm các trầm tích sông hồ, đầm lầy và trầm tích biển nông. Ngoài ra
trầm tích Oligocen thượng còn chòu ảnh hưởng của các pha hoạt động magma
vì thế còn tìm thấy ở đây các thân đá phun trào như Bazan, Anđezit, … Trầm
tích Oligocen thượng có thể chia thành hai phần theo đặc trưng thạch học của
chúng. Phần dưới bao gồm xen kẽ các lớp cát kết hạt mòn – trung, các lớp sét
và các tập đá phun trào. Phần trên đặc trưng bằng các lớp sét đen dày. Ở khu
vực đới nâng Côn Sơn, phần trên của mặt cắt tỉ lệ cát nhiều hơn. Ở một vài
nơi tầng trầm tích Oligocen thượng có dò thường áp suất cao. Chiều dày của
điệp thay đổi từ 100 _1000m.
Trang6
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
 Các thành tạo trầm tích Neogen :
♦ Trầm tích Miocen hạ – điệp Bạch Hổ (N
1
1
bh) :
Trầm tích điệp Bạch Hổ bắt gặp ở hầu hết các giếng khoan đã được
khoan ở bồn trũng Cửu Long. Trầm tích điệp này nằm bất chỉnh hợp trên các
trầm tích dưới, bề mặt của bất chỉnh hợp được phản xạ khá tốt trên mặt cắt
đòa chấn. Đây là bề mặt chỉnh hợp quan trọng nhất trong đòa tầng Kainozoi.
Dựa trên tài liệu thạch học, cổ sinh, đòa vật lý, điệp này được chia thành hai
phụ điệp :
• Phụ điệp Bạch Hổ dưới (N
1
1
bh

1
) :
Trầm tích của phụ điệp này là các lớp cát kết lẫn với các lớp sét kết và
bột kết. Càng gần với phần trên của phụ điệp khuynh hướng cát hạt thô càng
rõ. Cát kết thạch anh màu xám sáng, hạt độ từ nhỏ đến trung bình, độ lựa
chọn trung bình, được gắn kết chủ yếu bằng xi măng sét, Kaolinit, lẫn với ít
Cacbonat. Bột kết màu từ xám đến nâu, xanh đến xanh tối, trong phần dưới
chứa nhiều sét. Trong phần rìa của bồn trũng Cửu Long, cát chiếm một phần
lớn (60%) và giảm dần ở trung tâm bồn trũng.
• Phụ điệp Bạch Hổ trên (N
1
1
bh
2
) :
Phần dưới của phụ điệp này là những lớp cát hạt nhỏ lẫn với những lớp
bột rất mỏng. Phần trên chủ yếu là sét kết và bột kết, đôi chỗ gặp những vết
than và glauconit. Đây là tầng sét Rotalit có chiều dày 30_ 300m, chủ yếu
trong khoảng 50 _100m là tầng chắn khu vực tuyệt vời cho toàn bể.
Trong trầm tích điệp Bạch Hổ rất giàu bào tử Magnastriatites howardi
và phấn Shorae. Trầm tích của điệp có chiều dày thay đổi từ 500 _1250m
dược thành tạo trong điều kiện biển nông và ven bờ.
Trang7
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
♦ Trầm tích Miocen trung – điệp Côn Sơn (N
1
2
cs) :
Trầm tích điệp này phủ bất chỉnh hợp trên trầm tích Miocen hạ, bao
gồm: sự xen kẽ giữa các tập cát dày gắn kết kém với các lớp sét vôi màu

xanh thẫm, đôi chỗ gặp các lớp than.
♦ Trầm tích Miocen thượng – điệp Đồng Nai (N
1
3
đn) :
Trầm tích được phân bố rộng rãi trên toàn bộ bồn trũng Cửu Long và
một phần của đồng bằng sông Cửu Long trong giếng khoan Cửu Long 1. Trầm
tích của điệp này nằm chỉnh hợp trên trầm tích điệp Côn Sơn. Trầm tích phần
dưới gồm những lớp cát xen lẫn những lớp sét mỏng, đôi chỗ lẫn với cuội, sạn
kích thước nhỏ, Các thành phần chủ yếu là thạch anh, một ít những mảnh đá
biến chất, tuff. Trong sét đôi chỗ gặp than nâu hoặc bột màu xám sáng. Phần
trên là cát thạch anh với kích thước lớn, độ lựa chọn kém, hạt sắc cạnh. Trong
cát gặp nhiều mảnh hóa thạch sinh vật, glauconit, than và đôi khi cả tuff.
♦ Trầm tích Pliocen – Đệ Tứ – điệp Biển Đông (N
2
-Qbđ) :
Trầm tích của điệp này phủ bất chỉnh hợp lên trầm tích Miocen. Trầm
tích của điệp này đánh dấu một giai đoạn mới của một sự phát triển trên toàn
bộ trũng Cửu Long, tất cả bồn trũng được bao phủ bởi biển. Điệp này được
đặc trưng chủ yếu là cát màu xanh, trắng, có độ mài tròn trung bình, độ lựa
chọn kém, có nhiều glauconit. Trong cát có cuội thạch anh hạt nhỏ. Phần trên
các hóa thạch giảm, cát trở nên thô hơn, trong cát có lẫn bột, cát có màu hồng
chứa glauconit.
Trang8
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 3
KIẾN TẠO
Ởû bồn trũng Cửu Long, các tầng phản xạ đòa chấn chính đã được liên
kết và vẽ bản đồ, đặc điểm cấu trúc khu vực của bồn trũng được thể hiện rõ
trên các bản đồ này đặc biệt là bản đồ nóc mặt móng. Có thể phân chia các

cấu trúc đòa chất chính của bồn trũng Cửu Long như sau:
Võng trung tâm Cửu Long chiếm một diện tích khá lớn ở phía Tây Bắc
lô 09. Móng sụt tới độ sâu 6.5 km_7.0 km.Trục của võng kéo dài theo phương
vó tuyến sang đến lô 16.
Võng Nam Cửu Long nằm ở giữa lô 09. Móng sụt tới độ sâu 8 km.
Võng có hình ovan, trục của nó kéo dài theo phương Đông Bắc.
Ngăn cách giữa võng trung tâm và võng Nam Cửu Long là gờ nâng
trung tâm. Gờ nâng được nâng cao với độ sâu của móng khoảng 3 km. Gờ
nâng chạy theo phương Đông Bắc _ Tây Nam, đặc trưng cho phương phát
triển chung của bình đồ cấu trúc bồn trũng. Tại đây tập trung các mỏ dầu
quan trọng như Bạch Hổ, Rồng, Sói…
Nhìn chung bồn trũng Cửu Long là một cấu trúc sụt võng không đối
xứng có phương Đông Bắc _ Tây Nam. Sườn Tây Bắc của bồn trũng có độ
dốc thoải(25
0
_ 30
0
), đòa hình của móng có dạng bậc thang và thoải dần về
phía lục đòa. Sườn Đông Nam của võng sụt có độ dốc lớn 40
0
_ 50
0
, đá móng
được nhô cao đến độ sâu 1500 m.
I. CÁC HỆ THỐNG ĐỨT GÃY
Ởû bồn trũng Cửu Long tồn tại các hệ thống đứt gãy:
Ởû vùng phía Tây Nam bồn trũng, kể cả cấu tạo Rồng, hệ thống đứt gãy
chủ yếu theo hướng Đông Tây và Á Đông Tây.
Trang9
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp

Ở vùng trung tâm bồn trũng hệ thống đứt gãy theo hướng Bắc Đông
Bắc _Nam Tây Nam với góc lệch 20
0
về phía đông so với cực Bắc.
Ởû vùng Đông Bắc bồn trũng : hệ thống đứt gãy theo hướng Đông Bắc _
Tây Nam.
Ngoài ra còn có hệ thống đứt gãy theo hướng Tây Bắc _Đông Nam và
Bắc Nam.
1.Hệ thống đứt gãy theo hướng Đông Bắc _Tây Nam
_ Phân bố tập trung ở lô 15 và đới nâng Rồng _ Bạch Hổ, ở rìa Nam và
Đông Nam của bồn trũng.
_Trong thời kì của loạt E biên độ dòch chuyển đứng của chúng thay đổi
trong khoảng 200 _ 1000 m, cá biệt có đứt gãy ở rìa Nam và Đông Nam bồn
trũng biên độ đứt gãy đạt tới 2000m.
_Trong thời kì của loạt D biên độ đứt gãy có tăng đôi chút, phổ biến từ
600 _ 800 m, có nơi đạt đến 1600m.
_Trong thời kì của loạt C biên độ đứt gãy giảm xuống rõ rệt trong
khoảng 100 _ 200 m.
2.Hệ thống đứt gãy theo hướng Đông Tây và Á Đông Tây
_Phát triển ở khu vực lô 16, 17 vùng các cấu tạo Tam Đảo, Bà Đen, Ba
Vì và một số phân bố ở phía Nam cấu tạo Cửu Long và cấu tạo 15G.
_Trong thời kì loạt E biên độ đứt gãy đạt từ 1000 _ 1200 m (phía Nam
cấu tạo Cửu Long) phổ biến là các đứt gãy có biên độ từ 200 _ 400 m.
_Trong thời kì loạt D biên độ đứt gãy tăng lên đến 1600 m, đứt gãy có
biên độ phổ biến từ 400 _ 600 m.
_Trong thời kì của loạt C cũng có nhiều đứt gãy biên độ lớn đạt từ 800
_ 1000m, phổ biến từ 200 _ 400 m.
_Trong thời kì loạt R hệ thống đứt gãy giảm nhiều, chỉ còn một số biểu
hiện hoạt động của hệ này ở khu vực Bắc Bạch Hổ _ Nam Cửu Long.
Trang10

GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
3.Hệ thống đứt gãy hướng Tây Bắc _ Đông Nam
_Tồn tại một số đứt gãy thuộc hệ thống này ở lô 15 với biên độ trung
bình.
_Trong thời kì của loạt E biên độ từ 200 _ 400m
_Trong thời kì của loạt D biên độ từ 400 _ 800m
_Trong thời kì loạt C ở phần nhô không có sự phát triển của đứt gãy.
4.Hệ thống đứt gãy theo hướng Bắc Nam
_Tồn tại một ít ở lô 15, phía Đông đới nâng Bạch Hổ. Biên độ của các
đứt gãy khoảng vài trăm m, chiều dài không vượt quá 10 km.
5.Hệ thống đứt gãy đồng trầm tích
_Các đứt gãy thuộc hệ thống này phát triển xuyên từ E lên trên, càng
lên trên số lượng đứt gãy đồng trầm tích càng giảm dần: Tầng E có 55_60 đứt
gãy thì đến tần R chỉ có 5 đứt gãy, trong đó đứt gãy đồng trầm tích trong loạt
E là 15, giữa E với D là 15 và trong D là 15. Chiều dài của các đứt gãy này là
4 _ 5 km.
Nhìn chung số lượng đứt gãy bắt đầu phát triển từ loạt E đến loạt D thì
phát triển rất nhiều, nhưng đến C và lên trên nửa thì có số lượng đứt gãy ngày
càng giảm, vào thời kì của loạt R còn tiếp tục phát triển thêm một số đứt gãy
(15 đứt gãy) và cũng mất đi một số đứt gãy phát triển trong thời kì của loạt E.
6.Hệ thống đứt gãy đồng trầm tích
_ Đây là hệ thống đứt gãy chiếm đa số trong bồn trũng Cửu Long
(khoảng 100 đứt gãy). Chúng có chiều dài lớn với biên độ từ vài trăm cho đến
2000m. Các đứt gãy này tập trung rất nhiều ở phía Tây bồn trũng CửuLong,
số lượng ít hơn ở phía Đông và Bắc. Đa số đứt gãy sau trầm tích này hoạt
động ở phần dưới của loạt E, chiều dài thường không lớn. Các đứt gãy lớùn
nhất thuộc hệ thống này là theo hướng Đông Tây, chúng chủ yếu tập trung ở
phần Tây đới nâng Bạch Hổ. Các đứt gãy sau trầm tích tập trung ở hướng
Trang11
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp

Đông Bắc _ Tây Nam phát triển tập trung ở lô 15 đới nâng Rồng, Bạch Hổ.
Các đứt gãy khác hướng phân bố tản mạn, chiều dài và biên độ không lớn.
Tóm lại qua nghiên cứu hoạt động của các hệ thống đứt gãy trong bồn
trũng Cửu Long thấy có những đặc điểm nổi bật sau:
Một số đứt gãy hoạt động trong thời kì của loạt E có biên độ trung bình
sau đó tắt dần trong thời kì của loạt D đến loạt C thì chính những đứt gãy này
tạo nên những hố sụt hẹp. Các trầm tích trong thời kì đầu tiên đã lấp đầy đòa
hình có sẵn này. Sau đó một số đứt gãy này hoạt động đồng trầm tích với loạt
trầm tích trẻ hơn, chủ yếu là loạt D. Làm cho biên độ của đứt gãy rất lớn,
nhiều nơi đạt đến 1200m như hệ thống đứt gãy số 1,4 trên cấu tạo Bạch Hổ
(theo kí hiệu Vietsopetro) hoặc ở Đông Bắc bồn trũng Cửu Long.
Hệ thống đứt gãy hướng Đông Bắc _ Tây Nam có thể tồn tại và phát
triển trước hệ thống đứt gãy Đông Tây.
Trong thời kì đầu của loạt E là thời kì lấp đầy đại hình sẵn có của trầm
tích. Sau đó nữa phần Đông _ Đông Bắc của bồn trũng Cửu Long (bao gồm
vòm Bắc cấu tạo Bạch Hổ) lún chìm rất nhanh để trầm đọng các trầm tích của
phần trên của loạt E (phần này không có mặt hoặc có khá mỏng ở vòm Nam
Bạch Hổ). Cuối thời kì của loạt E có vài chỗ nâng đòa phương và bóc mòn của
loạt E. Sau đó hầu như bồn trũng lún chìm tương đối mạnh hoặc do mực nước
biển dâng cao, tạo môi trường biển trong thời kì của loạt D với đặc trưng là
sét Oligocen (của loạt C). Phần Đông Bắc bồn trũng nâng lên mạnh (với độ
dày trầm tích 50m) trong khi đó phần Tây Nam bồn trũng giữa cấu tạo Bạch
Hổ, Tam Đảo, Ba Vì lún chìm tạo nên trầm tích dày hơn (1200m). Như vậy
vào cuối thời kì Oligocen tâm bồn trũng đã bò dòch chuyển về phía Tây Nam.
Trong thời kì Miocen trung và Miocen thượng bồn trũng oằn võng là chủ yếu,
sau đó toàn bồn trũng nghiêng về phía Đông tạo ra các tập trầm tích có tướng
thềm lục đòa.
Trang12
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
II. HOẠT ĐỘNG UỐN NẾP

_Các nếp uốn ở bồn trũng Cửu Long chỉ gắn với trầm tích Oligocen với
bốn cơ chế:
Nếp uốn gắn với đứt gãy căng giãn được phát triển ở cánh sụt của các
đứt gãy chính và được thấy ở phía Nam mỏ Rạng Đông, rìa Tây Bắc của bồn
trũng. Chúng thường liên quan đến móng và thuận lợi cho việc phát triển các
nứt nẻ phá hủy theo kiểu phá hủy trên cánh treo của đứt gãy.
Các nếp uốn nén ép _ cấu tạo hình hoa được thành tạo vào cuối
Oligocen và chỉ được phát hiện trong các đòa hào chính. Các cấu tạo Gió
Đông, Sông Ba là những ví dụ điển hình. Các nếp uốn này phân bố ở trong
hoặc gần với vùng tâm bồn trũng nơi mà móng trầm tích luôn chìm sâu.
Phủ chồm của trầm tích Oligocen lên trên các khối cao móng cổ là đặc
điểm phổ biến nhất ở bồn trũng Cửu Long, các cấu tạo Bạch Hổ, Rồng, Rạng
Đông, Ruby..thuộc kiểu này.
Các nếp lồi gắn với nghòch đảo trầm tích sẽ có thể được tìm thấy nếu
căn cứ vào lòch sử kiến tạo và sự có mặt của các cấu tạo hình hoa.
III. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN KIẾN TẠO(hình 3)
_Thềm lục đòa Việt Nam và vùng kế cận hợp thành đơn vò cấu trúc có
kiểu vỏ lục đòa (mảng Kontum _ Bomeo) được gắn kết từ cuối Mesozoi-đầu
Đệ Tam cùng với sự mở rộng của “ biển rìa “. Biển Đông có kiểu vỏ chuyển
tiếp đại dương, tạo thành khung kiến tạo chung của Đông Nam Á.
Bồn trũng Cửu Long nằm ở rìa Đông Nam của mảng Đông Nam Á :Về
phía Nam, mảng Đông Nam Á được phân tách với mảng Sunda qua hệ đứt
gãy trượt bằng lớn-đứt gãy three Pagoda và đới cắt ép Natuna. Về phía Đông
Bắc, nó được phân tách với mảng Trung Quốc qua hệ thống đứt gãy Sông
Hồng.Về phía Đông, nó được phân tách với biển Đông cổ bởi hệ đứt gãy
Đông Việt Nam và Tây Baram. Nhiều vi mảng phức tạp hơn hình thành do
Trang13
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
mảng Đông Nam Á bò đẩy trụt về phía Đông Nam trong quá trình va chạm
giữa mảng n Độ với mảng u-Á vào Đệ Tam sớm.

Theo Nguyễn Tiến Long và Sung Jin Chang, lòch sử kiến tạo từ Jura-
Hiện tại chia làm 3 giai đoạn:
 Giai đoạn hút chìm từ Jura muộn_ Kreta sớm
 Giai đoạn chuyển tiếp từ Kreta muộn _ Paleoxen.
 Giai đoạn căng giãn khu vực từ Eoxen tới hiện tại.
A.GIAI ĐOẠN HÚT CHÌM TỪ JURA MUỘN – KRETA SỚM
Giai đoạn này được đánh dấu bằng xâm nhập chủ yếu diorit th6c
phức hệ Đònh Quán trong miền vỏ lục đòa Paleo-Việt Nam. Thành phần hoá
học vôi kiềm của các xâm nhập này là điển hình cho đới hút chìm có liên
quan đến các quá trình nóng chảy vỏ.Với sự phân bố rộng khắp các đá phun
trào hệ tầng Bảo Lộc, vùng đèo Bảo Lộc là biểu hiện bề mặt đặc trưng của
đới hút chìm. Hệ thống cấu trúc này có thể đối sánh với hệ thống Andes Nam
Mỹ hiện tại thuộc kiểu hút chìm andean (Taylor và Hayes, 1983; Sanders
1999).Vành đai núi cực lớn được hình thành chủ yếu từ các phức hệ xâm nhập
và phun trào hoạt động trong thời kì lâu dài. Các cấu trúc nén ép thường được
phát triển cùng đứt gãy, khe nứt (hệ thống đứt gãy hướng Bắc-Nam và Đông
–Tây cũng có thể được thành tạo trong pha này).
B.GIAI ĐOẠN CHUYỂN TIẾP KERTA MUỘN-PALEOXEN.
B.1Kreta muộn
Các đá Granit, Microgranit và Granit poocphia giàu Kali của phức hệ
Đèo Cả, granit 2 Mica của phức hệ Cà Ná cùng với các đai mạch, phun trào
Riolit của hệ tầng Đơn Dương và hệ tầng Nha Trang đã phát triển rộng rãi.
Hoạt động macma thành phần kiềm chiếm ưu thế, cùng với sự giảm đáng kể
hoạt động macma vôi-kiềm chứng tỏ hoạt động hút chìm đã ngừng. Vào cuối
pha này, do vỏ trái đất có sức bền kém nên phần trung tâm đai núi bắt đầu sụt
Trang14
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
lún mạnh với sự thành tạo các đứt gãy căng giãn và các đứt gãy trượt bằng và
tạo nên các cao nguyên trong đai núi. Hướng của các hệ thống đứt gãy này
khó có thể dự đoán được (Sanders, 1999).

B.2 Paleoxen
Đới hút chìm ngừng hoạt động và dựng đứng dần vào Paleoxen làm
tăng cường quá trình tách giãn trên các rìa Nam Trung Quốc và Nam Việt
Nam, làm thay đội cân bằng lực của đai núi kiểu Andes này, lôi kéo quá trình
căng giãn khu vực. Đai núi sụt lún và các bể tách giãn được thành tạo. Hướng
giãn Tây Bắc-Đông Nam (vuông góc với đới hút chìm) có lẽ bắt đầu vào
Paleoxen và bằng chứng là sự có mặt phong phú các đai mạch thuộc phức hệ
Cù Mông và Phan Rang (hướng kéo dài 45
0
) ở Nam Việt Nam. Các trầm tích
ngoài khơi đã gặp có tuổi Eoxen nhưng chủ yếu là Oligoxen đã khẳng đònh sự
tách giãn đã bắt đầu từ Paleoxen.
Quá trình này là hệ quả trực tiếp của hệ thống kiến tạo trước đó và có
liên quan tới một đới hút chìm mới được thành tạo ở phía Nam biển Đông cổ.
Đới này cắt ngang vào mảng Thái Bình Dương và hút chìm phần vỏ Đại
Dương ở bể biển Đông cổ.
Trong thời kì này, hàng loạt đứt gãy hướng Đông Bắc – Tây Nam đã
được thành tạo ở phía Đông bò sụt lún mạnh và căng giãn. Do kết quả dòch
chuyển theo các đứt gãy này mà các khối thuộc cánh treo của chúng bò phá
hủy và xoay khối mạnh mẽ. Cường độ phá hủy (nứt nẻ) cũng tăng dần về phía
Đông Nam.
C.GIAI ĐOẠN EOXEN – HIỆN TẠI
C1.Eoxen
Eoxen là thời kì đầu quá trình thành tạo bồn trũng Cửu Long do tác
động của các biến cố kiến tạo trong giai đoạn trước với hướng căng giãn chính
là Tây Bắc –Đông Nam. Hướng này cũng bò phức tạp bởi các yếu tố kiến tạo
Trang15
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
khác. Khối Đông Nam Á bò đẩy trụt về phía Đông Nam tách khỏi mảng u Á
dọc theo đứt gãy Sông Hồng và bò xoay phải, do sự va chạm của lục đòa n

Độ với lục đòa u_Á (Tapponnier và nnk,1982). Các quá trình này gợi ý rằng
các hệ thống đứt gãy trong các bể trầm tích có hướng giữa Đông Bắc và
Đông-Tây. Các đứt gãy trượt bằng thường đồng hành với kiến tạo căng giãn
và chúng có thể hoạt động như những đứt gãy biến dạng được đònh hướng
vuông góc với các đứt gãy căng giãn.
C2.Oligoxen
Trong thời kì Oligoxen, đới hút chìm phía Nam biển Đông cổ tiếp tục
hoạt động. Ứng suất căng giãn ở phía trước đới hút chìm làm đáy biển ở bể
biển Đông cổ tách giãn theo hướng Bắc-Nam và tạo nên biển Đông (bắt đầu
từ 32tr.n trước). Trục tách giãn đáy biển lấn dần về phía Tây Nam và thay đổi
hướng từ Đông-Tây sang Tây Nam – Đông Bắc. Khối Đông Nam Á tiếp tục bò
đẩy trụt xuống Đông Nam và tiếp tục xoay phải. Các quá trình này đã làm
tăng cường các hoạt động tách giãn và đứt gãy ở bồn trũng Cửu Long.
Vào cuối Oligoxen, phần Bắc của bồn trũng bò nén ép và gây nên
nghòch đảo đòa phương trong các trầm tích Oligoxen cùng với một số cấu tạo
lồi hình hoa. Nguyên nhân của các quá trình này còn chưa được làm sáng tỏ
nhưng có lẽ do sự phát triển lấn xuống Tây Nam của trục tách giãn đáy biển
Đông vào thời gian này.
C3.Mioxen sớm
Quá trình tách giãn đáy biển tiếp tục tạo nên lớp vỏ mới ở biển Đông.
Trong khi đó phần vỏ biển Đông ở phía Nam lại bò hút chìm dưới cung đảo
Kalimantan. Quá trình tách giãn đáy biển theo phương Tây Bắc – Đông Nam
đã nhanh chóng mở rộng xuống Tây Nam và chấm dứt vào cuối Mioxen sớm
do bể biển Đông cổ ngừng hoạt động. Các quá trình này đã gây ra các hoạt
Trang16
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
động núi lửa ở một số nơi, tái căng giãn, lún chìm ở bồn trũng Cửu Long làm
cho biển tiến mạnh.
C4.Mioxen giữa
Lún chìm khu vực tăng cường và biển đã ảnh hưởng rộng lớn tới các

vùng biển Đông. Về cuối thời kì này có một pha nâng lên, đứt gãy xoay khối
và mực nước đẳng tỉnh toàn cầu thấp. Ở bồn trũng Cửu Long trong giai đoạn
này, điều kiện môi trường lòng sông đã tái thiết lập ở phần trũng Tây Nam,
còn phần trũng Đông Bắc là môi trường ven bờ.
C5.Mioxen muộn-hiện tại
Thời kì Mioxen muộn được đánh dấu bằng sự lún chìm mạnh ở biển
Đông và phần rìa của nó mà có lẽ do kết quả giải tỏa nhiệt. Các núi lửa vẫn
tiếp tục hoạt động ở phần Bắc bồn trũng Cửu Long. Plioxen là thời gian biển
tiến rộng lớn và có lẽ đây là lần đầu tiên toàn bộ vùng biển Đông hiện tại
nằm dưới mực nước biển. Từ Mioxen muộn đến hiện tại bồn trũng Cửu Long
hoàn toàn thông với bồn trũng Nam Côn Sơn.
Trang17
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 4
ĐẶC ĐIỂM THẠCH
HỌC,KHOÁNG VẬT CỦA
GIẾNG KHOAN 2X MỎ SƯ TỬ
ĐEN LÔ 15.1
I.Đặc điểm về thạch học
Thành phần thạch học của mỏ Sư Tử Đen bao gồm những loại đá chủ
yếu như: Granit, Granit_biotit, đá phun trào Bazan. Nhìn chung đá có cấu tạo
khối, kiến trúc nửa tự hình. Hầu hết các đá bò vỡ vụn và có nhiều đường nứt.
II.Đặc điểm về thành phần khoáng vật.
Thành phần khoáng vật của các mẫu bao gồm những khoáng vật như :
Plagioclas, Fenpat, Thạch Anh, Biotit, Hocblend, và một số khoáng vật phụ :
Apatit, Zircon, Sphen, quặng. Khoáng vật thứ sinh gồm : Clorit, Xerixit,
Epidot, Canxit…
Khoáng vật có các đặc điểm chính như sau:
1. PLAGIOCLAS(34_37%).
Là những tinh thể lăng trụ ngắn, đôi khi đẳng thước và khá tự hình,

kích thước hạt thay đổi từ 0.1  0.2_3.6  4.2mm. Hầu hết các hạt Plagioclas
đều có cấu tạo song tinh đa hợp nhưng số hiệu Plagioclas chỉ có thể đo được ở
một, hai tiết diện vì hầu hết các hạt bò biến đổi mạnh(xerixit hóa khoảng
60_70%) (xem ảnh 1), có hạt bò biến đổi gần như hoàn toàn. Thành phần
Plagioclas được xác đònh theo luật song tinh anbit trên tiết diện thẳng góc với
mặt (010) với góc tắt đối xứng cực đại Np^(010)=16
0
số hiệu Plagioclas

N
0
=
Trang18
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
28_là Oligoclas. Ngoài ra một số hạt Plagioclas vừa bò Xerixit hóa còn bò
Muscovit hoá và bò nứt nẻ nhiều (xem ảnh 2).
Một số hạt Plagioclas bò thạch anh thế hệ hai thay thế ở phần trung
tâm hạt. Các hạt Plagioclas, Fenpat, Thạch Anh mọc xen vào nhau tạo nên
kiến trúc cài răng lược. Hầu hết Plagioclas trong các mẫu đều bò nứt nẻ nhiều.
Ở một số mẫu thì Plagioclas có mạch Canxit cắt ngang qua.(xem ảnh 3)
nh 1 : đá Granit_biotit
Plagioclas bò biến đổi Xerixit, Kaolanh hoá
Số hiệu lát mỏng: 3803_ chụp dưới 2N+_ 3,34
Trang19
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
nh 2 : đá Granit_biotit
Plagioclas bò muscovit hóa, nứt nẻ
Số hiệu lát mỏng: 3803_ chụp dưới 2N+_3,34
nh 3: đá Granit_biotit
Mạch Canxit xuyên cắt Plagioclas

Số hiệu lát mỏng: 3803_ chụp dưới 2N+ 3,34
Trang20
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
2. FENPAT KALI (30_32%)
Gồm có 2 thế hệ :
Fenpat kali thế hệ 1 chiếm đa số khoảng 90% là Octhocla với hình
dạng tha hình, kích thước hạt thay đổi từ 0.2  0.3_ 3.2  3.6mm. Các hạt
thường mờ đục, bò lấm tấm đen dưới một nicol do bò kaolanh hoá mạnh
khoảng 60_70%, có hạt bò kaolanh hoá gần như hoàn toàn. Hầu hết các hạt
đều có đường nứt. Có hiện tượng Fenpat, Thạch Anh, Plagioclas mọc xen tạo
ra kiến trúc cài răng lược.
Fenpat Kali thế hệ 2 chiếm khoảng 10% là Microlin, hình dạng kết tinh
tương tự như Octhocla, có dạng song tinh mạng lưới nhưng rất yếu nhìn không
rõ ràng, nằm gần những hạt Plagioclas tự hình hơn.(xem ảnh 4 và 5)
nh 4 : Granit_biotit
Fenpat kali bò microlin hóa nhẹ, nằm gần Plagioclas tự hình hơn
Số hiệu lát mỏng: 3485_ chụp dưới 2N+ 3,34
Trang21
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
nh 5 : Granit_biotit
Fenpat kali bò microlin hoá yếu
Số hiệu lát mỏng: 3073_ chụp dưới 2N+ 3,34
THẠCH ANH(24_29%)
Gồm có hai thế hệ:
Thạch anh thế hệ một là những hạt có dạng tha hình, hơi méo mó, kích
thước hạt thay đổi từ 0.1  0.2_ 2.8  3.5mm. Các hạt thạch anh hầu hết bò cà
nát và nứt nẻ mạnh, tắt làn sóng mạnh. Hầu hết các đường nứt bò khoáng sét
lấp đầy. Một số hạt bò mạch Canxit cắt ngang qua. Thạch anh cũng tạo thành
dạng mạch xuyên cắt một số hạt Plagioclas (xem ảnh 6).
Thạch anh thế hệ hai chiếm khoảng 5_10% là những hạt tha hình, méo

mó, ranh giới các hạt không rõ ràng. Kích thước các hạt này nhỏ hơn nhiều so
với thạch anh thế hệ một. Hầu hết thạch anh thế hệ hai đều được hình thành ở
trung tâm các hạt Plagioclas bằng cách thay thế Plagioclas.
Trang22
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
nh 6 : Granit
Mạch thạch anh xuyên cắt Plagioclas
Số hiệu lát mỏng : 3687,9_ chụp dưới 2N+ 3,34
BIOTIT(4_8%)
Biotit có dạng hình tấm, que, các hạt bò uốn cong một cách mạnh mẽ.
Có hạt bò răng cưa hai đầu. Có hạt bò nứt do hoạt động kiến tạo của khu vực
xảy ra rất mạnh mẽ (xem hình 9 và 10). Kích thước hạt trung bình từ 0.1  0.2_
3.3  3.5mm. Hầu hết các hạt biotit bò biến đổi thứ sinh mạnh : bò Clorit hóa
khoảng 30_40%, bên cạnh đó còn bò epidot hoá (xem ảnh 7 và 8).
Các hạt biotit có màu nâu đỏ dưới một nicol và có đa sắc khá mạnh với
công thức đa sắc Ng (nâu đậm) >Np (nâu nhạt). Hầu hết các hạt biotit đều có
khoáng vật quặng phân bố kèm theo.
Trang23
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp

nh 7 : Granit
Biotit bò epidot hóa, clorit hóa
Số hiệu lát mỏng : 3687,9_ chụp dưới 2N+ 3,34
nh 8: Granit
Biotit bò epidot hoá, granit hóa
Số hiệu lát mỏng : 3687,9_ chụp dưới 1N- 3,34
Trang24
GVHD :Th.S BÙI THỊ LUẬN Khoá luận tốt nghiệp
nh 9 : Granit_Biotit
Cụm biotit bò nứt đi cùng với tập hợp quặng sphen kém tự hình

Số hiệu lát mỏng : 3073_ chụp dưới 2N+ 3,34
nh 10 : Granit_Biotit
Cụm biotit bò nứt đi cùng với tập hợp quặng sphen kém tự hình
Số hiệu lát mỏng : 3073_ chụp dưới 1N- 3,34
Trang25

×