Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Đặc điểm và khả năng sinh dầu của tầng đá mẹ Mioxen_hạ bồn trũng Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 68 trang )

Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
Đề Tài :
Đặc điểm và khả năng sinh dầu của tầng đá mẹ
Mioxen _hạ bồn trũng Cửu Long.
+ MỞ ĐẦU
PHẦN 1:
KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ – ĐỊA CHẤT BỒN
TRŨNG CỬU LONG…………………………………Trang 3
CHƯƠNG I:VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT BỒN
TRŨNG CỬU LONG…………………….………….……Trang3
CHƯƠNG II:CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT VÀ TIỀM NĂNG DẦU
KHÍ………………………………………………….………………….Trang 21.
PHẦN 2:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGHIÊN CỨU ĐỊA HOÁ
CHƯƠNGIII : ĐÁ MẸ, CÁC CƠ SỞ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC CHỈ
TIÊU NGHIÊN CỨU TẦNG ĐÁ MẸ……………..Trang 30.
.CHƯƠNG IV: DỰA VÀO CHỈ SỐ ĐỊA HOÁ ĐÁNH GIÁ KHẢ
NĂNG SINH DẦU CỦA TẬP ĐÁ MIOXEN HẠ……….…… Trang 47



KẾT LUẬN………….……….………….. Trang 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 1 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
MỞ ĐẦU
Dầu khí và các sản phẩm chế biến từ dầu đã được biết đến từ xa xưa.
Lúc đầu con người đã dùng nó để thắp sáng hoặc chữa bệnh. Nhu cầu về dầu
khí và các sản phẩm chế biến từ dầu gia tăng đột ngột vào đầu thế kỉ XX do
sự xuất hiện của động cơ đốt trong cũng như do sự phát triển nhanh chóng


của các ngành công nghiệp. Do vậy dầu mỏ và khí đốt tự nhiên ngày càng
đóng vai trò quan trong trong cuộc sống con người.
Hiện nay, dầu khí cũng như các sản phẩm của nó được sử dụng trong
tất cả các ngành kinh tế trên thế giới. Dầu khí không chỉ được sử dụng như
một chất đốt truyền thống mà còn như một dạng nguyên liệu qúi giá cho công
nghiệp hóa học. Từ dầu khí đã điều chế được một lượng rất lớn các sản phẩm
để dùng trong công nghiệp, nông nghiệp và trong cuộc sống hàng ngày như:
sợi tổng hợp, chất dẻo, cao su nhân tạo, phân bón…
Với những lợi ích vô cùng to lớn như vậy cùng với việc giá dầu thế giới
đang tăng cao, công tác tìm kiếm - thăm dò các mỏ dầu mới và khai thác các
mỏ dầu cũ một cách hiệu quả nhất trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Ở Việt
Nam, bồn trũng Cửu Long là khu vực được thăm dò chi tiết và có những hoạt
động khai thác mạnh mẽ nhất.. Khoá luận này với đề tài “ Đặc điểm và khả
năng sinh dầu của tầng đá mẹ Mioxen_hạ bồn trũng Cửu Long.” giúp em có thể
tìm hiểu một cách khái trong khu vực mỏ,khả năng sinh dâù , một vấn đề cơ
bản khi nghiên cứu giếng khoan.
Em xin cảm ơn thầy cô trong khoa Đòa Chất đã trang bò cho em những
kiến thức cơ bản của ngành học, em xin cảm ơn cô Bùi Thò Luận đã tận tình
hướng dẫn giúp em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp. Xin gởi lời cám ơn đến
các bạn cùng khoá đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học.
TP. Hồ Chí Minh, tháng7năm 2007
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Mai Hùng
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 2 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
PHẦN 1:
KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ -
ĐỊACHẤT BỒN TRŨNG CỬU LONG
CHƯƠNG I:
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT

BỒN TRŨNG CỬU LONG
I.1. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ:
Bồn trũng Cửu Long là một vùng trũng đứt gãy sâu và lớn vào Đệ
Tam sớm thuộc thềm lục đòa Việt Nam, có tọa độ đòa lý khoảng 9
0
- 11
0

Bắc và 106
0
30’ - 109
0
kinh Đông kéo dài theo phương Đông Bắc - Tây Nam.
( hình 1)
Bồn trũng gồm các lô 01, 02, 09, 15.1, 15.2, 16 và 17 với diện tích gần
56.000 km
2
. Bồn trũng Cửu Long có dạng bầu dục kéo dài theo phương
Đông Bắc - Tây Nam; giới hạn: phía Đông là biển Đông Việt Nam, phía
Nam là khối nâng Côn Sơn, phía Tây là châu thổ Mê Kông, phía Bắc là đới
cao của đòa khối Đà Lạt.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 3 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
Hình 1: Vò trí bồn trũng Cửu Long
I.2 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU:
Lòch sử nghiên cứu đòa chất, tìm kiếm và thăm dò dầu khí tầng
mioxen sớm gắn liền với lòch sử nghiên cứu đòa chất dầu khí bồn trũng Cửu
Long. Gồm ba giai đoạn:
I.2.1. GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1975:
Là thời kì điều tra, tìm kiếm ban đầu do các công ty nước ngoài tiến

hành. Trong các năm 1967 - 1968, công ty Alpail tiến hành đo 19.000 km
tuyến đòa chấn khu vực thềm lục đòa Nam Việt Nam. Từ những năm 1969 -
1970, công ty đòa vật lý Mandrel tiến hành khảo sát đòa chấn với mạng lưới
tuyến 30×50 km trong phạm vi bồn trũng Cửu Long. Sau đó, công ty Mobil
tiếp tục đan đầy mạng lưới tuyến đòa chấn 8×8 km và 4×4 km trong phạm vi
các lô 09 và 16. Năm 1973, công ty Mobil đã phát hiện dòng dầu công
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 4 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
nghiệp tại giếng khoan đầu tiên trên cấu tạo Bạch Hổ. Các vỉa dầu thô nằm
trong trầm tích tuổi Mioxen sớm, thử vỉa cho lưu lượng 2.400 thùng/ngày.
I.2.2. GIAI ĐOẠN 1976 – 1990:
Là thời kì đẩy mạnh thăm dò, tiến tới khai thác mỏ Bạch Hổ với sự
hợp tác giữa Việt Nam và Liên Xô. Công ty Deminex (Tây Đức) đã phủ
mạng lưới tuyến đòa chấn 3,5×3,5 km và đã khoan tìm kiếm trên các cấu tạo
Trà Tân, Sông Ba, Cửu Long và Đồng Nai trong năm 1979. Ở đây, dầu khí
đã được phát hiện trong trầm tích tại giếng khoan 15-A-1X ở độ sâu 2307-
2313m, nhưng được đánh giá là không có giá trò công nghiệp nên công ty
Deminex đã không tiếp tục tìm kiếm thăm dò và rút khỏi Việt Nam năm
1981. Nổi bật trong giai đoạn này là sự ra đời của liên doanh Vietsovpetro
gắn liền với việc tìm kiếm thăm dò và khai thác mỏ Bạch Hổ và mỏ Rồng.
I.2.3. GIAI ĐOẠN 1990 ĐẾN NAY:
Đây là thời kì mở rộng phạm vi và đối tượng tìm kiếm thăm dò, khai
thác dầu khí trong bồn trũng Cửu Long. Sự kiện quan trọng là Vietsovpetro
đã phát hiện dầu trong đá móng phong hóa nứt nẻ loại granitoid trên cấu tạo
Bạch Hổ và trong đá phun trào trên cấu tạo Rồng. Tại phía Tây Bắc của bồn
trũng Cửu Long, từ nửa cuối thập niên 90 thế kỉ 20 đến nay, công ty JPVC
đã tiến hành khảo sát đòa chấn chi tiết với lưới tuyến 1×1 km và khoan tìm
kiếm thăm dò, khai thác dầu khí cả trong các đối tượng chứa là trầm tích
Oligocene - Miocene sớm và đá móng. Mỏ được phát hiện và đưa vào khai
thác thương mại là mỏ Rạng Đông (8-1998). Vào tháng 10 năm 1998, công

ty Cuulong JOC được thành lập và tiến hành các hoạt động tìm kiếm thăm
dò dầu khí. Một lưới tuyến đòa chấn 3D được thực hiện và đến 8-2000,
Cuulong JOC khoan giếng SĐ-1T trên cấu tạo Sói Đen đã phát hiện dòng
dầu công nghiệp trong các trầm tích Oligocene - Miocene sớm cũng như
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 5 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
trong tầng móng. Từ năm 2000 đến nay, hàng loạt giếng khoan tìm kiếm,
thẩm đònh, khai thác đã được khoan trên cấu tạo này. Đến 6-2003, mỏ Sói
Đen đã cho những thùng dầu thương phẩm đầu tiên. Trong các giếng khoan
SV-1T, ST-1T trên các cấu tạo Sư Tử Trắng và Sư Tử Vàng đều có phát
hiện dầu khí. Tiềm năng dầu khí được đánh giá là rất lớn, có thể so sánh với
mỏ Bạch Hổ.
I.3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT:
1) Đặc điểm cấu trúc
bồn trũng Cửu Long các tầng phản xạ đã được liên kết và vẽ bản
đồ, đặc điểm cấu trúc của khu vực của bồn trũng được thể hiện rõ trên các
bản đồ này đặc biệt là bản đồ nóc mặt móng. Có thể phân chia các cấu trúc
đòa chất chính của bồn trũng Cửu Long như sau:
Võng trung tâm Cửu Long chiếm một diện tích khá lớn ở phía Tây
Bắc lô 09. móng sụt tới độ sâu 6.5 – 7 km. Trục của võng kéo dài phương vó
tuyến sang lô 16.
Võng Nam Cửu Long nằm giữa lô 09. móng sụt tới độ sâu 8 km. võng
có hình Ovan, trục của nó kéo dài theo phương Đông Bắc.
Ngăn giữa võng trung tâm và võng Nam Cửu Long ở gờ nâng trung
tâm. Gờ nâng được nâng cao với độ sâu của móng khoảng 3 km. Gờ nâng
chạy theo phương Đông Bắc – Tây Nam, đặc trưng cho phương phát triển
chung của bình đồ cấu trúc bồn trũng. Tại đây tập trung các mỏ dầu quan
trọng như Bạch Hổ, Rồng, Sói…
Nhìn chung cấu trúc bồn trũng Cửu Long là một cấu trúc sụt võng
không đối xứng có phương Đông Bắc – Tây Nam. Đại hình của đá móng có

dạng bậc thang và thoải dần về phía lục đòa. Sườn Đông Nam của võng sụt
có độ dốc lớn đến 40
0
– 50
0
, đá móng được nhô cao đến độ sâu 1.500m.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 6 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
Bồn trũng Cửu Long trải qua các hình thái phát triển bồn khác nhau
như: bồn trũng giữa núi (trước Oligoxen), bồn trũng kiểu rift (trong
Oligoxen), bồn trũng oằn võng (trong Mioxen), bồn trũng kiểu thềm lục đòa
(từ Plioxen tới nay). Các hình thái bồn này tương ứng với các ứng suất căng
giãn vì vậy các đứt gẫy trong bồn chủ yếu là các đứt gãy thuận và có sự
thành tạo của dạng đòa luỹ, đòa hào: đây chính là tâm điểm của sự dòch
chuyển dầu khí từ dưới sâu lên.
Thật vậy, phần lớn các đứt gãy quan trọng trong bồn trũng Cửu Long
là đứt gãy thuận kế thừa từ móng và phát triển đồng sinh với quá trình lắng
đọng tầm tích. Các đứt gãy nghòch hiện diện ít do sự nén ép đòa phương hay
nén ép đòa tầng. Chúng bao gồm hai hệ thống đứt gãy sâu:
1. Hệ thống theo phương Tây Bắc – Đông Nam bao gồm các đứt gãy lớn
2. Hệ thống đứt gãy sâu Đông Bắc – Tây Nam tồn tại ở phần biển của
bồn trũng, gồm hai đứt gãy chạy song song. Đứt gãy thứ nhất chạy dọc theo rìa
biển, đứt gãy thứ hai chạy dọc theo rìa Tây Bắc khối nâng Côn Sơn. Các đứt
gãy này có góc cắm 10 – 15
0
so với phương thẳng đứng, cắm sâu tới phần dưới
lớp bazan, hướng cắm về trung tâm bồn trũng. Hai đứt gãy này khống chế
phương của bồn trũng Cửu Long trong quá trình phát triển của mình. Ngoài hệ
thống đứt gãy sâu khu vực trong bồn trũng Cửu Long còn tồn tại các đứt gãy có
độ kéo dài nhỏ hơn. Cấu trúc khu vực bồn trũng Cửu Long được chia làm bốn

yếu tố cấu trúc chính :
• Phụ bồn trũng Bắc Cửu Long có cấu tạo phức tạp hơn cả, bao gồm
các lô 15 – 1, 15 – 2 và phần phía Tây lô 01, 02. Các yêú tố cấu trúc chính
theo phương Đông Bắc – Tây Nam, còn phương Đông Tây thì ít nổi bật hơn.
• Phụ bồn trũng Tây Nam Cửu Long với các yếu tố cấu trúc chính theo
hướng Đông Tây và tiến dần về phía Đông.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 7 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
• Phụ bồn trũng Đông Nam Cửu Long được đặc trưng bởi một máng sâu
có ranh giới phía Bắc là hệ thống đứt gãy Nam Rạng Đông, ranh giới phía
Tây là hệ thống đứt gãy Bạch Hổ, phía Đông tiếp giáp với một sườn dốc của
khối nâng Côn Sơn. Tại đây hệ thống đứt gãy phương Đông – Tây và
phương Bắc – Nam chiếm ưu thế .
• Đới cao trung tâm (hay đới Rồng – Bạch Hổ) ngăn cách phụ bồn Tây
Bạch Hổ và Đông Bạch Hổ. Đới cao này gắn với đới nâng Côn Sơn ở phía
Nam, phát triển theo hướng Bắc – Đông Bắc và kết thúc ở Bắc mỏ Bạch Hổ.
Các đứt gãy chính có hướng Đông – Tây và Bắc – Nam ở khu vực mỏ Rồng,
hướng Đông Bắc – Tây Nam và Đông – Tây ở khu vực Bạch Hổ.
Từ Mioxen sớm đến Mioxen giữa, bồn trũng Cửu Long là một bồn
trũng đơn giản. Nhưng từ Mioxen muộn đến nay, bồn trũng Cửu Long hoàn
toàn nối với bồn trũng Nam Côn Sơn tạo thành một bồn trũng duy nhất ngoài
khơi Việt Nam.


Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 8 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
Hình 2: bản đồ cấu trúc bồn trũng Cửu Long

2) Đặc điểm kiến tạo
Theo Ngô Trường San và Trần Lê Đông (hội nghò KHĐCVN – 1995)

đặc điểm cấu trúc chung của thềm lục đòa phía Nam Việt Nam như sau:
Thềm lục đòa Nam Việt Nam và vùng kế cận hợp thành đơn vò cấu
trúc kiểu vỏ lục đòa (mảng Kontum – Borneo) được gắn kết từ cuối Mezozoi
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 9 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
đầu Đệ Tam cùng với sự mở rộng của biển rìa “Biển Đông” có kiểu vỏ
chuyển tiếp đại dương, tạo thành khung kiến tạo chung của Đông Nam . Sự
tách mảng và va chạm giữa các mảng lớn u – , n – Úc và Thái Bình
Dương mang tính nhòp điệu và đều được phản ánh trong lòch sử phát triển
của vỏ lục đòa Kontum – Borneo thời kỳ Triat và sự nhấn chìm của vỏ đại
dương (Thái Bình Dương và n Độ Dương) bên dưới lục đòa dẫn đến sự phá
vỡ, tách giãn, lún chìm của vỏ lục đòa u – tạo ra biển rìa “Biển Đông”
và thềm lục đòa rộng lớn Nam Việt Nam và Sunda, hình thành các đai tạo
núi – uốn nếp trẻ và cung đảo núi lửa.
Bên trong mảng Kontum – Borneo xẩy ra hiện tượng gia tăng dòng
nhiệt và dâng lên các khu vực. Dọc theo các đứt gẫy lớn, phát triển các hoạt
động xâm nhập của magma Granitoid, phun trào núi lửa axít và kiềm kể cả
Bazan lục đòa. Sự chuyển động phân dò kèm theo các tách giãn tạo các rift,
khai sinh đầu tiên các trũng Molat giữa núi cuối Mezozoi – đầu Paleozoi dần
dần mở rộng và phát triển thành các bể trầm tích có tiềm năng về dầu khí
trên thềm và sườn lục đòa Nam Việt Nam. Những va chạm giữa các mảng
gây nên những chuyển động kiến tạo lớn Mezozoi – Kainozoi trong mảng
Kontum – Borneo được ghi nhận vào cuối Triat. Giai đoạn thành tạo chia
làm ba thời kỳ:
 Thời kỳ Jura – Kreta: là thời kỳ rift với sự tách giãn và sự lún phân
dò theo các đứt gãy lớn bên trong mảng Kontum – Borneo để hình thành
trũng kiểu giữa núi như : Phú Quốc, Vònh Thái Lan. Quá trình này đi kèm
theo hoạt động magma xâm nhập Granitoid và phun trào axit dạng ryolit và
andesit, bazan và các hoạt động nhiệt dòch, các chuyển động nứt bên trong
khối magma tạo ra các khe nứt đồng sinh và các hang hốc khác nhau.

 Thời kỳ Eoxen – Oligoxen sớm: là thời kỳ phát triển rift tới các thành
hệ lục đòa, molat phủ không bất chỉnh hợp trên các trầm tích Mezozoi ở
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 10 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
trung tâm trũng hoặc trên các đá cổ hơn ở ven rìa. Sự chuyển động dâng lên
mạnh ở các khối và quá trình phong hoá xẩy ra vào đầu Paleogen tạo ra lớp
phong hoá có bề dầy khác nhau trên đỉnh các khối nâng granit. Đó là điều
kiện hết sức thuận lợi để tích tụ Hydrocacbon và cũng là tầng sản phẩm
quan trọng đang khai thác hiện nay ở bồn trũng Cửu Long.
 Thời kỳ Oligxen – Đệ Tứ: là thời kỳ mở rộng các vùng trũng do sự
lún chìm khu vực ở rìa Nam đòa khối Kontum – Borneo, có liên quan trực
tiếp với sự phát triển của biển Đông. Trầm tích biển lan dần từ Đông sang
Tây.
Trên cơ sở số liệu đòa vật lý giếng khoan ở thềm lục đòa Nam Việt
Nam, đòa tầng Đệ Tam sớm nhất được khoan qua có tuổi xác đònh Oligoxen.
Các trầm tích molat giữa núi dự kiến tuổi Eoxen và sớm hơn chỉ phổ biến ở
trung tâm các đòa hào, ở đây chiều dài các trầm tích Đệ Tam đạt 8 – 10 km.
Sự va chạm các mảng cuối Oligoxen đã ảnh hưởng tới sự phát triển
của rìa Nam mảng Kontum – Borneo, gây ra hiện tượng biển lùi và bất chỉnh
hợp khu vực giữa phức hệ Oligoxen và các trầm tích phủ lên chúng. Các
chuyển động khối theo các đứt gãy đồng sinh cùng quá trình trầm tích thứa
kế bình đồ cấu tạo của móng trước Đệ Tam đã tạo ra những cấu tạo đòa
phương. Sự nâng lên làm đa số các cấu tạo bò bào mòn ở đỉnh hoặc vát mỏng
chiều dày. Các trầm tích sét cuối Oligoxen là lớp chắn quan trọng phủ lên
các bẫy chứa dầu Oligoxen và móng trước Đệ Tam.
Thời kỳ Mioxen bắt đầu bằng đợt biển tiến và kết thúc bằng sự nâng
lên, bất chỉnh hợp khu vực với sự gián đoạn trầm tích Mioxen giữa.
 Thời kỳ Mioxen muộn – Plioxen – Pleistoxen đến nay: đặc trưng cho
thời kỳ biển nông. Diện tích các bồn trũng biến đổi theo các chu kỳ dao
động của mực nước biển. Thành phần sét chiếm ưu thế. Vào thời kỳ này

Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 11 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
bình đồ cấu tạo hoàn toàn bò san phẳng do không còn các chuyển động phân
dò trên các đới cấu tạo thứ cấp.
Có thể nói quy luật phân đới cấu tạo cũng như thành phần phủ
Kainozoi trong các bồn trũng Đệ Tam được khống chế bằng sự chuyển động
của móng và các đứt gãy xuyên móng tiếp tục hoạt động trở lại về sau. Sự
chuyển động khối – đứt gãy và sự phát triển của các cấu tạo đòa phương tập
chung chủ yếu vào Oligoxen, Mioxen sớm, yếu dần vào Mioxen giữa và
mất hẳn vào Mioxen muộn.
Bồn trũng Cửu Long có bề dày trầm tích Kainozoi lấp đầy bồn trũng
khá lớn, tại trung tâm bồn trũng > 8 km. chúng được phát sinh phát triển trên
vỏ lục đòa được hình thành trên các giai đoạn kiến tạo khác nhau.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 12 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
Hình 3: Bản đồ kiến tạo bồn trũng Cửu Long
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 13 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
3) Đặc điểm đòa tầng
Giai đoạn từ năm 1980 đến nay, với số lượng giếng khoan ngày càng
tăng nên cho biết ngày càng nhiều hơn về đòa tầng và cấu trúc của bồn trũng
này.
Đòa tầng bồn trũng Cửu Long đã thành lập dựa trên kết quả phân tích
mẫu vụn, mẫu lõi, tài liệu, carota và các tài liệu cổ sinh phân tích từ các
giếng khoan trong phạm vi bồn trũng bao gồm các thành tạo móng trước
Kainozoi và các trầm tích Kainozoi.
a) Phần móng trước Kainozoi :
Đá móng là đá toàn tinh với các đai mạch Diabaz và Pocphia Bazan
Trachit được đặc trưng bởi mức độ không đồng nhất cao về tính chất vật lý
thạch học như đã phát hiện ở các giếng khoan lô 09 và lô 16. đá móng ở đây

bao gồm các loại Granit Biotit thông thường, Granodiorit, và Alamelit màu
sáng, ngoài ra còn có Monzonit thạch anh, Mozodiorit thạch anh và Diorit á
kiềm. Các đá này tương đương một số phức hệ của lục đòa như :
 Phức hệ Hòn Khoai: được phân bố phía Bắc mỏ Bạch Hổ và dự đoán
có khả năng phân bố rộng rãi ở rìa Đông Nam của gờ nâng trung tâm. Thành
phần thạch học bao gồm Granodiorit Biotit, Granit Biotit.
 Phức hệ Đònh Quán: phân bố rộng rãi ở khu vực trung tâm mỏ Bạch
Hổ và có khả năng phân bố ở đòa hình nâng cao nhất thuộc gờ nâng trung
tân của bồn trũng Cửu Long. Các phức hệ có sự phân dò chuyển tiếp thành
phần từ Diorit – Diorit thạch anh tới Granodiorit và Granit, trong đó các đá
có thành phần là Granodiorit chiếm phần lớn khối lượng của phức hệ.
 Phức hệ Cà Ná: cũng tương tự như phức hệ Đònh Quán, phân bố rộng
rãi ở gờ trung tâm và sườn Tây Bắc của gờ. Thành phần thạch học bao gồm:
Granit sáng màu, Granit hai mica, Granit biotit.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 14 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
Do các hoạt động kiến tạo mạnh mẽ trước và trong Kainozoi, các cấu
tạo bò phá huỷ bởi các đứt gãy, kèm theo nứt nẻ, đồng thời các hoạt động
phun trào Andesit, Bazan đưa lên thâm nhập vào một số đứt gãy, nứt nẻ.
Tuỳ theo các khu vực các đá khác nhau mà chúng bò nứt nẻ, phong hoá ở các
mức độ khác nhau.
Đá móng bò biến đổi bởi quá trình biến đổi thứ sinh ở những mức độ
khác nhau. Trong một số những khoáng vật biến đổi thứ sinh thì phát triển
nhất là Canxit, Zeolit và Kaolinit.
Tuổi tuyệt đối của đá móng kết tinh thay đổi từ 245 triệu năm đến 89
triệu năm. Granit tuổi Kreta có hang hốc và nứt nẻ cao, góp phần thuận lợi
cho việc dòch chuyển và tích tụ dầu trong đá móng.
Tới nay các thành tạo móng được khoan với chiều dày hơn 1.600m
(giếng khoan 404 mỏ Bạch Hổ) và mức độ biến đổi của đá có xu thếù giảm
theo chiều sâu, đặc biệt là chiều sâu hơn 4.500m thì quá trình biến đổi giảm

rõ rệt.
b) Các trầm tích Kainozoi :
Việc phân chia các thành tạo trầm tích Kainozoi không thống nhất
giữa các nhà đòa chất, do đó có sự khác biệt trong sự phân chia các thành tạo
này. Theo tài liệu Vietsopetro “Thống nhất đòa chất tầng trầm tích Kainozoi
bồn trũng Cửu Long” – 1987, các thành tạo trầm tích Kainozoi có những đặc
điểm sau:
 Các thành tạo trầm tích theo bình đồ cũng như theo mặt cắt khá phức tạp, bao
gồm các loại đá lục nguyên tướng châu thổ ven biển.
 Trầm tích Kainozoi phủ bất chỉnh hợp trên đá móng Kainozoi với độ dày 3 –
8km, càng về trung tâm bồn độ dầy càng tăng.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 15 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
 Các trầm tích Kainozoi ở bồn trũng Cửu Long bao gồm các phân vò đòa tầng có
các hoá thạch đặc trưng được xác đònh bởi các bào tử phấn và vi cổ sinh từ dưới
lên gồm:
Các thành tạo trầm tích Paleogene:
 Trầm tích Eoxene (P
2
):
Cho tới nay trầm tích cổ nhất ở bồn trũng Cửu Long được coi là tương
ứng với tầng cuội, sạn sỏi, cát xen lẫn với những lớp sét dày được thấy ở
giếng khoan Cửu Long. Cuội có kích thước hơn 10 cm. thành phần cuội bao
gồm: Granit, Andesit, Gabro, tẩm sét đen. Chúng đặc trưng cho trầm tích
Molat được tích tụ trong điều kiện dòng chảy mạnh, đôi chỗ rất gần nguồn
cung cấp. Trong trầm tích này nghèo hoá thạch. Các thành tạo này chỉ gặp ở
một số giếng khoan ở ngoài khơi bể Cửu Long, tuy nhiên có sự chuyển
hướng cũng như môi trường thành tạo.
 Trầm tích Oligoxen(P
3

):
Theo kết quả nghiên cứu đòa chấn, thạch học, đòa tầng cho thấy trầm
tích Oligoxen của bồn trũng Cửu Long được thành tạo bởi sự lấp đầy đòa
hình cổ, bao gồm các tập trầm tích lục nguyên sông hồ, đầm lầy, trầm tích
ven biển, chúng phủ bất chỉnh hợp nên móng trước Kainozoi, ở khu vực
trung tâm của bồn trũng có trầm tích Oligoxen được phủ bất chỉnh hợp trên
các loạt trầm tích Eoxen.
Trầm tích Oligoxen được chia thành hai: điệp Trà Cú – Oligoxen hạ
và điệp Trà Tân - Oligoxen thượng.
 Trầm tích Oligoxen hạ – điệp Trà Cú (P
1
3
tr.c):
 Bao gồm các tập sét kết màu đen, xám xen kẽ với các lớp cát mòn đến trung
bình, độ lựa chọn tốt gắn kết chủ yếu bằng xi măng kaolinit, lắng đọng trong
môi trường đầm hồ, đầm lầy hoặc châu thổ. Phần trên của trầm tích Oligoxen
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 16 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
hạ là lớp sét dày. Trên các đòa hình nâng cổ thường không gặp hoặc chỉ gặp các
lớp sét mỏng thuộc phần mềm trên của Oligoxen hạ. Chiều dày của điệp thay
đổi từ 0 – 3.500 m.
 Trầm tích Oligoxen thượng – điệp Trà Tân (P
2
3
tr.t):
 Gồm các trầm tích sông hồ, đầm lầy và biển nông. Ngoài ra vào Oligoxen
thượng, bồn trũng Cửu Long còn chòu ảnh hưởng của các pha hoạt động magma
với sự có mặt ở đây các thân đá phun trào như Bazan, Andesit. Phần bên dưới
trầm tích Oligoxen thượng bao gồm xen kẽ các lớp cát kết hạt mòn và trung, các
lớp sét và các tập đá phun trào. Lên trên đặc trưng bằng các lớp sét đen dày.

khu vực đới nâng Côn Sơn, phần trên của mặt cắ tỷ lệ cát nhiều hơn. một vài
nơi, tầng trầm tích Oligoxen thượng có dò thường áp suất cao. Chiều dày của
điệp thay đổi từ 100 – 1000 m.
Các thành tạo trầm tích Neogene:
 Trầm tích Mioxen hạ điệp Bạch Hổ (N
1
bh):
Trần tích điệp Bạch Hổ bắt gặp trong hầu hết giếng khoan đã được
khoan ở bồn trũng Cửu Long. Trầm tích điệp này bất chỉnh hợp trên các
trầm tích cổ hơn. Bề mặt của bất chỉnh hợp quan trọng nhất trong đòa tầng
Kainozoi. Dựa trên tài liệu thạch học cổ sinh, đòa vật lý, điệp này được chia
thành 3 phụ điệp:
 Phụ điệp Bạch Hổ dưới (N
1
1
bh
1
): trầm tích của phụ điệp này gồm các lớp cát kết
lẫn với các lớp sét kết và bột kết. Càng gần với phần trên của phụ điệp khuynh
hương cát hạt thô càng rõ. Cát kết thạch anh màu xám sáng, hạt độ từ nhỏ đến
trung bình, được gắn kết chủ yếu bằng xi măng sét, kaolinit lẫn với ít cacbonat.
Bột kết màu từ xám đến nâu, xanh đến xanh tối, trong phần dưới chứa nhiều
sét. Trong phần rìa của bồn trũng Cửu Long, cát chiếm một phần lớn (60%) và
giảm dần ở trung tâm bồn trũng.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 17 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
 Phụ điệp Bạch Hổ giữa (N
1
1
bh

2
): phần dưới của phụ điệp này là những lớp cát
hạt nhỏ lẫn với những lớp bột rất mỏng. Phần trên chủ yếu là sét kết và bột kết,
đôi chỗ gặp lớp than và glauconit.
 Phụ điệp Bạch Hổ trên (N
1
1
bh
3
): nằn chỉnh hợp trên các trầm tích phụ điệp Bạch
Hổ giữa. Chủ yếu là sét kết xám xanh, xám sáng. Phần trên cùng của mặt cắt là
tầng sét kết Rotalit có chiều dày 30 – 300 m, chủ yếu trong khoảng 50 – 100 m,
là tầng chắn khu vực tuyệt vời cho toàn bể.
Trong trầm tích điệp Bạch Hổ rất giàu bào tử Magnastriatites howardi
và phấn Shorae. Trầm tích của điệp có chiều dày thay đổi từ 50 – 1250 m,
được thành tạo trong điều kiện biển nông và ven bờ.
 Trầm tích Mioxen trung – điệp Côn Sơn (N
1
2
cs):
Trầm tích điệp này phủ bất chỉnh hợp trên trầm tích Mioxen hạ, bao
gồm sự xen kẽ giữa các tập cát dày gắn kết kém với các lớp sét vôi màu
xanh thẫm, đôi chỗ gặp các lớp than.
 Trầm tích Mioxen thượng – điệp Đồng Nai (N
1
3
đn):
Trầm tích được phân bố rộng rãi trên toàn bộ bồn Cửu Long và một
phần của đồng bằng sông Cửu Long trong giếng khoan Cửu Long 1. Trầm
tích của điệp này nằm bất chỉnh hợp trên trầm tích điệp Côn Sơn. Trầm tích

phần dưới gồm những lớp cát xen lẫn những lớp sét mỏng, đôi chỗ lẫn với
cuội, sạn kích thước nhỏ. Các thành phần chủ yếu là thạch anh, một ít những
mảnh đá biến chất, tuff và những thể pyrit. Trong sét đôi chỗ gặp than nâu
hoặc bột xám sáng. Phần trên là cát thạch anh với kích thước lớn, độ lựa
chọn kém, hạt sắc cạnh. Trong cát gặp nhiều mảnh hoá thạch sinh vật,
glauconit, than.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 18 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
 Trầm tích Plioxen – Đệ Tứ – điệp Biển Đông (N
2
– Q bđ):
Trầm tích của điệp này phủ bất chỉnh hợp lên trầm tích Mioxen. Trầm
tích của điệp này đánh dấu một giai đoạn mới của sự phát triển trên toàn bộ
bồn trũng Cửu Long, tất cả bồn được bao phủ bởi biển. Điệp này đặc trưng
chủ yếu là cát màu xanh, trắng, độ mài tròn trung bình, độ lựa chọn kém, có
nhiều glauconit. Trong cát có cuội thạch anh hạt nhỏ. Phần trên các hoá
thạch giảm, cát trở nên thô hơn, trong cát có lẫn bột, chứa glauconit.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 19 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
Hình 4 Cột đòa tầng tổng hợp bồn trũng Cửu Long
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 20 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
CHƯƠNG II:
CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT VÀ TIỀM NĂNG DẦU KHÍ
II.1. CÁC YẾU TỐ CẤU TRÚC CHÍNH:
Các đặc điểm cấu trúc khu vực bồn trũng Cửu Long (được hình thành từ
Eocene đến Oligocene) có thể được chia thành 4 yếu tố cấu trúc chính:
Phụ bồn trũng Bắc Cửu Long: có cấu trúc phức tạp hơn cả, bao gồm các lô
15.1, 15.2 và phần phía Tây lô 01 và 02. Các yếu tố cấu trúc chính theo phương
Đông Bắc - Tây Nam, còn phương Đông - Tây thì ít nổi bật hơn, đặc biệt là khu

vực phía Đông và Đông Bắc của phụ bồn.
Phụ bồn trũng Tây Nam Cửu Long: (hay phụ bồn Tây Bạch Hổ) với các yếu
tố cấu trúc chính có hướng Đông - Tây và sâu dần về phía Đông.
Phụ bồn trũng Đông Nam Cửu Long: (hay phụ bồn Đông Bạch Hổ) được đặc
trưng bởi một máng sâu có ranh giới phía Bắc là hệ thống đứt gãy Nam Rạng
Đông, ranh giới phía Tây là hệ thống đứt gãy Đông Bạch Hổ, ranh giới phía Đông
tiếp giáp với một sườn dốc của khối nâng Côn Sơn. Tại đây, hệ thống đứt gãy
phương Đông - Tây và Bắc - Nam chiếm ưu thế.
Đới cao trung tâm: (hay đới cao Rồng - Bạch Hổ) ngăn cách phụ bồn Tây
Bạch Hổ và Đông Bạch Hổ, đới cao này gắn với đới nâng Côn Sơn ở phía Nam,
phát triển theo hướng Bắc - Đông Bắc và kết thúc ở Bắc mỏ Bạch Hổ. Các đứt
gãy chính có hướng Đông - Tây và Bắc - Nam ở khu vực mỏ Rồng, hướng Đông
Bắc - Tây Nam và Đông - Tây ở khu vực Bạch Hổ.
Từ Miocene sớm đến Miocene giữa, bồn trũng Cửu Long là một bồn trũng
đơn giản. Nhưng từ Miocene muộn đến nay, bồn trũng Cửu Long hoàn toàn nối
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 21 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
với bồn trũng Nam Côn Sơn, tạo thành một bồn trũng duy nhất ngoài khơi Việt
Nam.
II.2. HỆ THỐNG ĐỨT GÃY:
Hệ thống đứt gãy của bồn trũng Cửu Long được chia thành bốn nhóm
chính, cơ bản theo các phương: Đông -Tây, Đông Bắc - Tây Nam, Bắc -
Nam và các đứt gãy khác (theo các phương khác nhau cùng các đứt gãy
nhỏ).
II.3. CÁC SỰ KIỆN KIẾN TẠO MẢNG:
Sự va chạm ở phía Bắc của Ấn Độ và châu Á xảy ra cách đây gần 53
triệu năm và hoạt động kiến tạo nâng lên kéo dài đến ngày nay.
Sự dòch chuyển kiến tạo của khối Indochina.
Sự hút chìm dọc máng sâu Phillipine.
Sự tách dãn biển Đông (từ Oligocene muộn đến Miocene sớm).

Sự va đụng ở phía Bắc của mảng Úc với thềm Nam Sunda.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 22 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận

II.4. KHỐI INDOCHINA VÀ CÁC BỒN TRŨNG NGOÀI KHƠI CỦA
KHỐI:
Sự tách dãn theo phương Tây Bắc - Đông Nam của bồn trũng Cửu
Long bắt đầu từ Eocene muộn đến Oligocene.
Sự tách dãn của bồn trũng Cửu Long có liên quan đến sự căng dãn
của vỏ Trái Đất gắn với sự dòch chuyển quay theo chiều kim đồng hồ của
khối Indochina.
Bồn trũng Cửu Long được hình thành ở phần đuôi của hệ thống đứt
gãy Wang Chao/sông Hậu, nó khống chế vò trí của châu thổ Mê Kông ngày
nay.
Bồn trũng Cửu Long và Nam Côn Sơn được phân cách bởi đới nâng
Côn Sơn. Sự xuất hiện của đới nâng này có khả năng liên quan đến “sự biến
đổi của Việt Nam” theo phương Bắc -Nam .
“Sự biến đổi của Việt Nam” được xác đònh bởi sự bẻ gãy sườn thềm ở
ngoài khơi Việt Nam ngày nay. Nó phù hợp với sự biến dạng dọc ranh giới
phía Đông của khối Indochina. Do đó, sự tách dãn theo phương Tây Bắc -
Đông Nam lúc ấy và sự toạc vỡ theo phương Bắc - Nam được cho rằng đã
xảy ra suốt quá trình thành tạo bồn trũng Cửu Long.
II.5 LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA CHẤT CỦA BỒN TRŨNG CỬU
LONG:
Bồn trũng Cửu Long hình thành do tạo rift. Sự phát triển của bồn liên
quan đến lòch sử kiến tạo khu vực, được chia làm ba thời kỳ chính:
Thời kỳ trước tạo rift: hình thành tầng móng trước Đệ Tam.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 23 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
Thời kỳ đồng tạo rift: từ Eocene đến Oligocene, các hoạt động đứt

gãy liên quan đến quá trình tách giãn tạo nên các khối đứt gãy (chủ yếu là
đứt gãy thuận) và các trũng trong bể. Các đứt gãy tạo ra nhiều bán đòa hào.
Qúa trình tăng cường các hoạt động tách giãn làm cho bể lún chìm sâu hơn
và tạo nên hồ sâu với sự tích tụ các tầng trầm tích sét hồ rộng lớn thuộc tập
D, các trầm tích giàu cát hơn thuộc tập C sau đó. Vùng trung tâm bồn trũng
chòu tải trọng của các tầng sét hồ dày, mặt cắt đứt gãy trở nên cong hơn và
kéo xoay các trầm tích Oligocene. Cuối Oligocene, ở phần Bắc của bồn
trũng, do sự nén ép của đòa phương hoặc đòa tầng đã xuất hiện sự nghòch đảo
một số nơi, tạo nên một số cấu tạo lồi hình hoa với sự bào mòn, vát mỏng
mạnh mẽ của lớp trầm tích thuộc tập C. Trầm tích Eocene - Oligocene trong
các trũng chính có thể đạt đến 5000m, thành tạo trong các môi trường trầm
tích hồ, lòng sông, châu thổ. Sự kết thúc hoạt động của phần lớn các đứt gãy
và bất chỉnh hợp ở nóc trầm tích Oligocene đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ
này.
Thời kỳ sau tạo rift: từ Miocene đến nay. Thời kỳ này, quá trình tách
giãn kết thúc, chỉ có các hoạt động yếu ớt của các đứt gãy, các trầm tích
Miocene dưới phủ chờm lên đòa hình Oligocene. Giai đoạn biển tiến khu vực
xuất hiện và biển tiến vào phần Đông Bắc của bồn trũng. Cuối Miocene
sớm, phần lớn diện tích bồn trũng bò chìm sâu, thành tạo tầng sét biển rộng
và chính là tầng chắn khu vực tốt cho cả bồn trũng. Ở Miocene giữa, môi
trường biển ảnh hưởng ít hơn, phần Đông Bắc bồn trũng chủ yếu chòu ảnh
hưởng của các điều kiện ven bờ. Từ Miocene muộn đến nay, bồn trũng Cửu
Long thông với bồn trũng Nam Côn Sơn, và sông Cửu Long trở thành nguồn
cung cấp vật liệu chính cho khu vực này.

Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 24 -
Khoá luận tốt nghiệp GVHD:ThS: Bùi Thò Luận
A) LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN BỒN TRŨNG CỬU LONG
Cho đến nay, quan điểm của đại đa số các nhà nghiên cứu bồn trũng Cửu
Long cho rằng lòch sử phát triển của bồn trũng gắn liền với lòch sử phát triển kiến

tạo và được chia làm ba thời kỳ: thời kỳ tạo móng trước Đệ Tam, thời kỳ đồng tạo
rift Eoxen – Oligoxen – Mioxen sớm và thời kỳ tạo rift từ Mioxen đến hiện nay.
Đa số các nhà nghiên cứu đều chấp nhận sự thành tạo bồn trầm tích chứa dầu khí
này bắt đầu từ Eoxen.
1) Giai đoạn tạo móng
Vào thời kỳ Mezozoi, khu vực bồn trũng Cửu Long bò khống chế bởi hoạt
động hút chìm của mảng vỏ thạch quyển đại dương Kula xuống dưới vỏ lục Đông
Nam . Liên quan đến hoạt động này là các hoạt động magma mà có thể quan sát
thấy trên đất liền cũng như bắt gặp trong các giếng khoan ngoài khơi.
Phổ biến là các loại diorít, granodiorit thành phần kiềm vôi thuộc phức hệ
Đònh Quán, granit giàu kiềm thuộc phức hệ Đèo Cả, Cà Ná và các đai mạch, đá
phun trào andezit, riolit. Hiến hơn là các loại đá cổ như diorit thuộc phức hệ hòn
khoai, các trầm tích núi lửa tương ứng với hệ tầng Bửu Long, Châu Thới trên đất
liền Nam Việt Nam.
Vào cuối kreta đầu Paleogen, có hoạt động nâng lên và bào mòn trên toàn bộ
khu vực, tạo ra phong hoá mạnh mẽ các đágranit có tuổi Mezozoi, một trong những
đối tượng chứa dầu khí chính trong khu vực.
2) Giai đoạn tạo rift
Hoạt động đứt gãy kiến tạo từ Eoxen đến Oligoxen có liên quan đến quá trình
tách giãn đã tạo nên các khối đứt gãy và các trũng và các khối nâng đòa phương có
phương chủ đạo Đông Bắc – Tây Nam trên khắp khu vực bốn trũng. Các đứt gãy
có phương Đông Bắc – Tây Nam, Đông Tây và Bắc Nam, phần lớn là các đứt gãy
thuận cắn về phía Đông Nam. Do đó các khối cánh treo bò phá huỷ mạnh và có
biểu hiện xoay khối với nhau ở đới nâng trung tâm.
Sinh viên: Nguyễn Mai Hùng Trang: - 25 -

×