Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Đánh giá các mô hình sử dụng đất nông nghiệp cho thu nhập cao tại thị trấn Trâu Quỳ - Gia Lâm - Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.06 KB, 102 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là thành phần quan
trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn bố trí các khu dân cư, xây
dựng các cơ sở kinh tế, an ninh quốc phòng. Do vậy, việc sử dụng đầy đủ và
hợp lý nguồn tài nguyên này nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, đem lại lợi ích
cho con người và cho toàn xã hội là điều hết sức quan trọng và cần thiết.
Đất đai rất quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp. Nó là tư liệu sản
xuất đặc biệt không thể thiếu, cho dù khoa học có phát triển đến đâu thì nó
cũng chỉ có thể tác động và là động lực để sử dụng đất có hiệu quả hơn, nếu
thiếu đất thì không thể tiến hành sản xuất nông nghiệp.
Nước ta là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống ở khu vực
nông thôn và trên 70% lao động sản xuất nông nghiệp, Đảng và Nhà nước ta
đã xác định chiến lược phát triển nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong quá
trình tiến hành CNH-HĐH đất nước, đưa nước ta theo kịp sự phát triển của
thế giới. Nước ta với tổng diện tích đất tự nhiên là 32,9 triệu ha trong đó diện
tích đất nông nghiệp chỉ có 9,34 triệu ha (chiếm 28% tổng diện tích đất tự
nhiên). Bình quân đất tự nhiên cũng như đất nông nghiệp trên đầu người được
xếp vào loại thấp nhất thế giới do vậy việc xây dựng các mô hình sử dụng đất
nông nghiệp đạt hiệu quả cao đang là vấn đề cấp bách đặt ra cho các nhà quản
lý cũng như các nhà khoa học.
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh
tế, tốc độ đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, quỹ đất nông nghiệp ngày càng giảm,
thách thức lớn đặt ra cho ngành nông nghiệp cũng như khu vực nông thôn là
làm thế nào với diện tích ngày càng bị thu hẹp như vậy nhưng vẫn tạo ra được
nhiều sản phẩm cho thu nhập cao đáp ứng được nhu cầu nông sản của xã hội.
1
Sau khi phát động phong trào xây dụng2 cánh đồng 50 triệu 1 ha của Bộ nông
nghiệp và phát triển nông thôn, đã được đẩy lên phong trào xây dựng cánh
đồng thu nhập cao, hộ làm ăn giỏi, nhiều địa phương đã xây dung thành công
những mô hình sử dụng đất nông nghiệp cho thu nhập cao tại các vùng khác


nhau như ở Đông Anh, Từ Liêm, Gia Lâm…
Trâu Quỳ là một xã ngoại thành Hà Nội, thu nhập của người lao động
chủ yếu dựa vào nông nghiệp nhất là snr xuất lúa,trong khi đó diện tích lại eo
hẹp. Hiện nay tại xã quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi đang
diễn ra mạnh mẽ, tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, đặc biệt sau khi xây dựng
mô hình thí điểm về sử dụng đất nông nghiệp cho thu nhập cao được trường
Đại học nông nghiệp I thực hiện vào năm 2004 – 2005 thì hiện nay đã có
nhiều mô hình được phát triển đạt hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên trong quá
trình xây dựng cũng như phát triển các mô hình sử dụng đất nông nghiệp cho
thu nhập cao tại xã Trâu Quỳ còn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Yêu cầu đặt
ra là phảI, có những đánh giá đầy đủ và cụ thể về sự phát triển của các mô
hình sử dụng đất cho thu nhập cao tại xã nhằm thúc đẩy quá trình phát triển.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá các mô
hình sử dụng đất nông nghiệp cho thu nhập cao tại thị trấn Trâu Quỳ - Gia
Lâm - Hà Nội”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả kinh tế sử
dụng đất nông nghiệp.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả kinh tế các mô hình sản xuất điển hình
cho thu nhập cao trên đất nông nghiệp tại xã, từ đó phát hiện các hạn chế cũng
như tiềm năng sử dụng đất nông nghiệp của xã.
2
- Đề xuất các giải pháp phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp
cho thu nhập cao phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế sử dụng đất nông
nghiệp của xã.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các vấn đề kinh tế-kỹ thuật sử dụng đất nông nghiệp, trong
đó tập trung chủ yếu các mô hình sử dụng đất nông nghiệp điển hình cho thu
nhập cao trên địa bàn toàn xã.

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi về nội dung : Điều tra đánh giá hiệu quả kinh tế các mô hình
sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn toàn xã, trong đó tập trung chủ yếu vào
các mô hình sản xuất ở các hộ điển hình của xã.
Phạm vi về không gian: Địa bàn xã Trâu Quỳ- Gia Lâm-Hà Nội
Phạm vi về không gian
+ Thời gian nghiên cứu: Dùng các số liệu và thông tin từ năm 2004 đến
2006
+ Thời gian thực tập: Từ ngày 23/11/2007 đến ngày 20/3/2008
3
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Cơ sở lý luận về mô hình sản xuất
2.1.1.1. Khái niệm về mô hình sản xuất
Để nghiên cứu các hiện tượng, vấn đề kinh tế kinh tế xã hội, chúng ta
phải sử dụng phương pháp gián tiếp, trong đó các đối tượng nghiên cứu trong
hiện thực được thay thế bởi “hình ảnh” của chúng gọi là các mô hình. Đây là
phương pháp tiếp cận mô hình các đối tượng, các vấn đề kinh tế.
Phương pháp mô hình toán kinh tế với việc sử dụng lý thuyết quy hoạch
tuyến tính là phương pháp mang lại tính thuyết phục và hiệu quả trong việc
giải quyết vấn đề tối ưu.
Mô hình của một số đối tượng là sự phản ánh hiện thực khách quan của
đối tượng, sự hình dung, tưởng tượng đối tượng đó bằng những ý nghĩ của
những người nghiên cứu và việc trình bày, thể hiện, diễn đạt những ý nghĩ đó
bằng lời văn, sơ đồ, hình vẽ...
Mô hình của các đối tượng trong lĩnh vực hoạt động kinh tế gọi là mô
hình kinh tế. Những vấn đề liên quan đến đối tượng này là những vấn đề hết
sức phức tạp, đặc biệt là những vấn đề đương đại. Để xây dựng mô hình kinh
tế cần thu thập sử dụng các thông tin về những công trình nghiên cứu có liên
quan, các dữ liệu đã được công bố và thậm chí phải sử dụng kiến thức của các

ngành khoa học khác.
4
Như vậy nói đến mô hình là nói đến 1 hệ thống bao gồm các yếu tố
quan hệ hoà đồng lẫn nhau. Sự bố trí 1 cách hợp lý các yếu tố trong mô hình
giúp cho hệ thống phát triển toàn diện.
Mô hình kinh tế sử dụng đất chính là hệ thống sản xuất trên đất nông
nghiệp gồm các yếu tố như loại đất, cây trồng, vật nuôi được bố trí sản xuất
một cách hợp lý.
Mô hình sản xuất cho thu nhập cao tức là những mô hình đã bố trí được
sản xuất hợp lý để có được hiệu quả kinh tế cao nhất. Đây là mô hình trên cơ
sở thực trạng đất đai và dưới tác động của các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội và thị trường cụ thể, con người đưa ra quyết định về cơ cấu sản xuất, về
các loại mô hình sản xuất cũng như việc đầu tư các yếu tố sản xuất hợp lý cho
được thu nhập cao nhất.
2.1.1.2. Lý thuyết hệ thống trong nghiên cứu và đánh giá mô hình sản xuất
Lý thuyết hệ thống được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong nhiều lĩnh
vực khoa học để phân tích và giải thích các mối quan hệ tương hỗ. Trong thực
tế sản xuất nông nghiệp cho thấy nông nghiệp muốn phát triển nhanh chóng
và có hiệu quả cần phải phát triển một cách toàn diện bằng việc tác động đồng
thời vào nhiều mặt, tức là giải quyết vấn đề theo quan điểm hệ thống.
Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau có quan hệ
và tác động qua lại. Một hệ thống có thể xác định như tập hợp các đối tượng
hoặc các thuộc tính liên kết để tạo thành một chỉnh thể.
Quan điểm hệ thống là phương pháp luận khoa học chung để nghiên
cứu các đối tượng phức tạp gồm nhiều bộ phận có quan hệ mật thiết với
nhau. Khi nghiên cứu một hệ thống không chỉ nghiên cứu riêng rẽ các phần tử
mà phải nghiên cứu mối quan hệ giữa chúng với các phần tử khác.
5
Theo nguyên lý hệ thống, sự tác động đồng bộ, có phối hợp, có tổ chức
của các bộ phận có thể tạo nên hiệu quả khác nhiều so với phép cộng đơn

thuần tác động.
Sản xuất nông nghiệp của mỗi vùng là một hệ thống bao gồm nhiều
ngành sản xuất và nhiều nhân tố kinh tế xã hội tự nhiên và môi trường khác.
Mặt khác trong mỗi ngành lại bao gồm nhiều yếu tố rất phong phú và đa
dạng. Chính những điểm này là yếu tố thúc đẩy hay kìm hãm hệ thống phát
triển bởi vì nó có tác động trực tiếp đến từng nhân tố hệ thống.
Như vậy, mục đích của việc vận dụng quan điểm hệ thống là để nghiên
cứu một cách hệ thống và điều khiển sự hoạt động của nó. Nội dung của việc
điều khiển hệ thống nông nghiệp thực chất là sử dụng các biện pháp kinh tế –
kỹ thuật tác động lên hệ thống nông nghiệp và phát triển một nền nông nghiệp
bền vững.
* Hệ thống nông nghiệp (HTNN)
Khái niệm hệ thống nông nghiệp có từ thế kỷ 19, trải qua một quá trình
triển khai và thực nghiệm, từng bước đúc rút và bổ sung. Cho đến nay có các
định nghĩa sau về HTNN:
- Theo Vissac 1979: HTNN là sự biểu hiện không gian của sự phối hợp
các ngành sản xuất và kỹ thuật do một xã hội thực hiện để thoản mãn các nhu
cầu. Nó biểu hiện sự tác động qua lại giữa một hệ thống sinh học – sinh thái
mà môi trường tự nhiên là đại diện và một hệ thống xã hội – văn hoá, qua các
hoạt động xuất phát từ những thành quả kỹ thuật.
- Theo Mozoyes 1986: HTNN trước hết là một phương thức khai thác
môi trường được hình thành và phát triển trong lịch sử, một hệ thống sản xuất
thích ứng với các điều kiện và nhu cầu của thời điểm ấy.
6
- Theo Touve 1988: HTNN thích ứng với các phương thức khai thác
nông nghiệp của không gian nhất định do một xã hội tiến hành, là kết quả của
sự phối hợp các nhân tố tự nhiên, xã hội – văn hoá kinh tế và kỹ thuật.
Thực tế sự phát triển nông nghiệp trên thế giới cho thấy quá trình thay
đổi cơ bản nhất của HTNN là tiến hoá của hộ nông dân từ tình trạng sản xuất
tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá. Sự thay đổi theo hướng phát triển đó

diễn ra không đều giữa các vùng, các hộ. Vì vậy không thể có giải pháp đồng
nhất cho các hệ thống, thậm chí của mộ hệ thống.
* Hệ thống canh tác (HTCT)
Theo đánh giá của IRRI 1989 : HTCT là hình thức tập hợp của một tổ
hợp đặc thù các tài nguyên trong nông trại ở một môi trường nhất định, bằng
những phương pháp sản xuất ra những sản phẩm nông nghiệp sơ cấp. Định
nghĩa này không bao gồm hoạt động chế biến vốn thường vượt qua hình thức
phổ biến của trang trại cho các sản phẩm chăn nuôi và trồng trọt riêng biệt.
Nhưng nó bao gồm những nguồn lực của nông trại được sử dụng cho việc tiếp
thị sản phẩm đó.
* Hệ thống cây trồng ( HTCTr) :
Khái niệm của GS. TS . Đào thế Tuấn 1984: HTCTr là thành phần các
giống và loại cây được bố trí trong không gian các loại cây trồng trong mọi hệ
sinh thái nông nghiệp, nhằm tận dụng hợp lý nhất các nguồn lợi tự nhiên, kinh
tế, xã hội.
HTCTr là các hình thức đa canh bao gồm: Trồng sen, trồng gối, trồng
luân canh, canh tác phối hợp.
Theo Zandstra 1981: HTCTr là hoạt động sản xuất cây trồng trong
nông trại bao gồm tất cả các hợp phần cần có để sản xuất một tổ hợp các cây
7
trồng và mối quan hệ gữa chúng với môi trường, các hợp phần này bao gồm
tất cả các yếu tố vật lý và sinh học cũng như kỹ thuật, lao động và quản lý.
Từ các khái niệm trên có thể tổng quát lại là: HTTr là một hệ thống
nhất trong mối quan hệ tương tác giữa các loại cây trồng, giống cây trồng
trong từng vụ khác nhau trong một mảnh đất, trong mọi hệ sinh thái.
Như vậy, nghiên cứu HTCTr trong một hệ thống nông nghiệp nhằm bố
trí lại hoặc chuyển đổi chúng để tăng hệ số sử dụng ruộng đất, sử dụng có
hiệu quả tiềm năng đất đai, lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái nông
nghiệp, cũng như có hiệu quả tiền vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật và lao
động...để năng cao năng xuất, giá trị sản xuất, giá trị gia tăng và lợi nhuận

trên một đơn vị diện tích đất canh tác trong một năm. Tóm lại nhằm xây dựng
một HTNN bền vững có hiệu quả kinh tế cao.
2.1.2. Hiệu quả kinh tế
2.1.2.1. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Mỗi nhà sản xuất một loại sản phẩm hàng hoá nào đó trước khi có kế
hoạch sản xuất đều suy nghĩ xem liệu sản xuất hàng hoá đó có tốt không? có
hiệu quả kinh tế hơn các hàng hoá khác không? Về phía người tiêu dùng cũng
vậy họ cũng luôn chọn cho mình loại hàng hoá phù hợp với túi tiền và sở thích
của mình. Mỗi một cách lựa chọn khác nhau đem lại những hiệu quả kinh tế
khác nhau và hiệu quả kinh tế là một vấn đề mà được toàn xã hội quan tâm.
Vậy hiệu quả kinh tế là gì? Có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu
quả kinh tế nhưng nhìn chung chúng ta có thể nói hiệu quả kinh tế là một
phạm trù kinh tế chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới nền sản xuất hàng hoá
dịch vụ và với tất cả phạm trù, quy luật kinh tế khác. Mặt khác hiệu quả kinh
tế cũng là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động
kinh tế nó phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực trong quá trình sản xuất
8
kinh doanh. Trong khi các nguồn lực rất có hạn, nhu cầu hàng hoá của xã hội
ngày càng tăng và đa dạng, nâng cao hiệu quả kinh tế là một xu thế khách
quan của sản xuất.
Cụ thể đối với ngành nông nghiệp, hiệu quả kinh tế được hiểu là mối
tương quan so sánh với lượng hiệu quả thu được và lượng chi phí bỏ ra trong
một thời gian nhất định của một phương án sản xuất nhất định, hay một cây
trồng, một con gia súc nào đó đạt được trong tương quan so sánh tối ưu giữa
đầu vào và đầu ra trong điều kiện sản xuất khác nhau như điều kiện tự nhiên
kinh tế xã hội của ngành sản xuất nào đó. Khi xác định hiệu quả kinh tế chúng
ta cần xem xét và kết hợp chặt chẽ giữa lượng tuyệt đối với tương đối, qua đó
biết được tốc độ và quy mô sản xuất đó. Tuy nhiên trong điều kiện thị trường
hiện nay, mục tiêu hàng đầu của người sản xuất kinh doanh là thu nhập và lợi
nhuận cao, do vậy hiệu quả kinh tế trong sản xuất thiên hướng về mặt kinh tế

nhiều hơn so với mặt xã hội.
Có nhiều quan điểm về khái niệm hiệu quả kinh tế, hiệu quả kinh tế ở mỗi
nơi, mỗi vùng khác nhau thì khác nhau. Nhưng hầu hết các quan điểm đều phản
ánh mối quan hệ giữa kết quả hoạt động sản xuất với chi phí bỏ ra để đạt được
kết quả đó. Theo quan niệm của LN CARIMÔP – Kinh tế chính trị Mác Lê Nin,
cho rằng: “ Hiệu quả của sản xuất xã hội được tính toán và kế hoạch hoá trên cơ
sở những nguyên tắc chung đối với nền kinh tế quốc doanh, bằng cách so sánh
hiệu quả của sản xuất với chi phí hoặc nguồn dự trữ sử dụng”.
Ngày nay người ta đồng nhất giữa hiệu quả kinh tế với hiệu quả sản
xuất mà hiệu quả sản xuất là một hiện tượng bao gồm nhiều mặt như hiệu quả
kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường và trên các cơ sở đó người ta
đưa ra một số quan điểm về hiệu quả kinh tế.
Quan điểm I: Hiệu quả kinh tế được xác định bằng tỷ số giữa kết quả
9
đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Theo quan điểm này cho
phép chúng ta xác định được các chỉ tiêu tương đối của hiệu quả kinh tế bằng
cách so sánh kết quả với chi phí cần thiết để đạt được hiệu quả đó.
H =
K
Q
Trong đó: H là hiệu quả kinh tế
Q là kết quả sản xuất
K là tổng chi phí sản xuất.
Tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi hoạt động sản xuất kinh doanh mà
chúng ta tính toán và nghiên cứu các chỉ tiêu khác nhau. Khi nghiên cứu về
vốn, chúng ta có hiệu suất vốn bằng cách lấy tổng số sản phẩm chia cho vốn
sản xuất. Bằng cách đó sẽ xác định được hiệu suất lao động, với quan điểm
này sẽ không xác định được quy mô sản xuất các đơn vị kinh tế. Trên thực tế
hai cơ sở có quy mô sản xuất rất khác nhau, nhưng lại có hiệu suất sử dụng
vốn như nhau, nghĩa là có hiệu quả kinh tế về sử dụng vốn như nhau.

Quan điểm II: Hiệu quả kinh tế đo bằng hiệu số những giá trị sản xuất
đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
HQKT = KQSX – CPSX ( H = Q – K )
Quan điểm này cho phép xác định được các chỉ tiêu tuyệt đối của hiệu
quả kinh tế. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế theo quan điểm này thì phản ánh rõ nét
về qui mô sản xuất của các đơn vị kinh tế, cơ sở sản xuất nào có qui mô sản xuất
lớn sẽ đạt được tác động của từng yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất kinh
doanh đến hiệu qủa sản xuất. Như vậy, các chỉ tiêu này sẽ không giúp cho người
sản xuất có những tác động cụ thể để nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất kinh
doanh.
10
Quan điểm III: Xem xét hiệu quả kinh tế trong phần biến động giữa chi
phí và kết quả sản xuất. Như vậy, hiệu quả kinh tế biểu hiện ở tỷ lệ giữa phần
tăng thêm của chi phí để đạt được kết quả đó hay quan hệ tỷ lệ giữa kết quả
bổ sung và chi phí bổ sung.
H =
C
K


Trong đó H: Tỷ suất kết quả sản xuất bổ sung


C: Tổng chi phí bổ sung


K: Kết quả bổ sung.
Tỷ suất này giúp cho các nhà sản xuất xác định được điểm tối đa hoá
lợi nhuận. Trên cơ sở đó, các nhà sản xuất sẽ đưa ra những quyết định sản
xuất tối ưu nhất.

Còn trong kinh tế học vĩ mô chú ý tới quan hệ tỷ lệ giữa mức độ tăng
lên của kết quả sản xuất xã hội và chi phí sản xuất xã hội tăng lên.
Ta có: H =

K/

C
Trong đó:
K là phần tăng trưởng của kết quả sản xuất xã hội
C là phần tăng lên của chi phí lao động xã hội
Theo quan điểm này, các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế đã phản ánh được
chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh và nhờ đó người sản xuất sẽ có
biện pháp tác động nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất. Nhưng
trong thực tế kết quả sản xuất đạt được luôn là hệ quả của chi phí sẵn có ( chi
phí nền) và chi phí bổ sung. Tại các mức chi phí nền khác nhau thì hiệu quả
của chi phí bổ sung khác nhau.
11
Ngoài ra còn một số quan điểm tương đồng về hiệu quả kinh tế của quá
trình sản xuất kinh doanh. Theo tác giả Lê Thị Thụ – vũ khí cạnh tranh thị
trường – tạp chí thống kê Hà Nội năm 1992 cho rằng “ Hiệu quả kinh tế là chỉ
tiêu tổng hợp nhất về chất lượng của sản xuất kinh doanh. Nội dung của nó so
sánh kết quả thu được với chi phí bỏ ra”. Bên cạnh đó còn có những quan
điểm nhìn nhận hiệu quả kinh tế trong tổng thể xã hội. Quan điểm này cho
rằng: “ Hiệu quả kinh tế của sản xuất xã hội được tính toán và kế hoạch hoá
trên cơ sở những nguyên tắc chung đối với nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả
kinh tế được xác định bằng so sánh kết quả của nền sản xuất chung với chi phí
hoặc nguồn dự trữ đã sử dụng. Quan điểm này được đưa ra khi đánh giá sự
tiến bộ của nền sản xuất xã hội. Từ đó người ta xác định các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội trong tương lai”.
Nhìn chung quan điểm của các nhà khoa học về hiệu quả kinh tế tuy có

những khía cạnh phân biệt, nhưng đều thống nhất với nhau. Hiệu quả kinh tế
là lợi ích tối ưu mang lại của mỗi quá trình sản xuất kinh doanh.
2.1.2.2. Nội dung và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường ở nước ta
hiện nay đang khuyến khích các doanh nghiệp, các hộ gia đình và các thành
phần kinh tế khác nỗ lực tham gia sản xuất kinh doanh trong các ngành và các
lĩnh vực khác nhau.
Mục đích yêu cầu đặt ra đối với quá trình sản xuất ở các thành phần
kinh tế là khác nhau. Do vậy, việc vận dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
kinh tế cũng rất đa dạng. Các hộ nông dân, công nhân trong nông nghiệp họ
tiến hành sản xuất trước tiên là để đáp ứng nhu cầu việc làm có thu nhập đảm
bảo cuộc sống, sinh hoạt thường ngày sau đó mới tính đến lợi nhuận và tích
luỹ. Còn đối với các doanh nghiệp tư nhân tiến hành sản xuất nhằm tìm kiếm
12
cơ hội đầu tư tiền vốn để có thêm lợi nhuận.
Đối với một quốc gia thì hiệu quả nó còn thể hiện trên nhiều mặt: kinh
tế, xã hội, an ninh quốc phòng,….Điều đó có nghĩa là hiệu quả nó mang tính
chất không gian và thời gian, nó thể hiện ở chỗ: Một hoạt động kinh tế của
một đơn vị sản xuất là công ty hay cá thể có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao,
song so với một quốc gia thì nó lại chưa chắc đã đạt hiệu quả.
Để hiểu rõ vấn đề này, ta có thể xem xét một số vấn đề kinh tế xã hội
như việc chặt phá rừng làm nương rẫy, trên thực tế là đem lợi ích cho một cá
nhân, một tập thể nào đó nhưng điều đó có thể ảnh hưởng tới sinh thái môi
trường, gây lũ lụt, hoả hoạn,… vậy xét trên toàn xã hội thì đó lại là một tổn
thất, một gánh nặng lớn cho toàn xã hội.
Ngoài ra, hiệu quả kinh tế còn có tính chất về mặt thời gian. Nó luôn
luôn có xu hướng thay đổi một hoạt động kinh tế diễn ra ở hôm nay có hiệu
quả kinh tế cao song trong tương lai thì chưa chắc đã có hiệu quả và ngược
lại, bởi vì giá trị sức lao động ngày một tăng. Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả
kinh tế không chỉ là nhiệm vụ của một cá nhân, một đơn vị kinh tế mà còn là

nhiệm vụ của tất cả các ngành, các cấp và mỗi quốc gia. Việc nỗ lực tìm cách
để nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất hàng hoá là một hoạt động được
coi là quyết định cho mọi nền kinh tế, chỉ có nâng cao hiệu quả sản xuất thì
mới có cơ hội đưa nền kinh tế tồn tại và phát triển.
Nội dung của việc xác định và nâng cao hiệu quả xuất phát từ những
nội dung chủ yếu sau:
+ Mọi quá trình sản xuất liên quan mật thiết đến hai yếu tố cơ bản, đó
là chi phí sản xuất và kết quả sản xuất thu được từ chi phí đó. Mối quan hệ
của hai yếu tố này là nội dung cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế trong sản
xuất.
13
+ Việc nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất, xuất phát từ nhu cầu
phát triển sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Đây là một trong những quy luật
cơ bản của quá trình tái sản xuất xã hội.
+ Mức độ hiệu quả đạt được nó phản ánh trình độ phát triển lực lượng
sản xuất và trình độ phát triển của xã hội. Từ những nội dung trên chúng tôi
cho rằng hiệu quả là một vấn đề trung tâm nhất của mọi quá trình kinh tế và
có liên quan đến tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác. Hiệu quả
kinh tế đi liền với nội dung tiết kiệm chi phí tài nguyên cho sản xuất trên
một đơn vị sảm phẩm tạo ra. Bản chất của hiệu quả kinh tế có nội dung là
tương quan so sánh cả về tuyệt đối và tương đối gữa lượng kết quả thu được
và lượng chi phí bỏ ra.
Đối với nước ta, xuất phát từ một nền kinh tế thị trường, có nhiều vấn
đề kinh tế được đánh giá và xem xét lại. Trong đó, vấn đề hiệu quả được coi
là một nội dung quan trọng nhất, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của
mỗi doanh nghiệp. Việc xem xét hiệu quả trên tất cả các khâu sản xuất, phân
phối và lưu thông sản phẩm có nội dung phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực sẵn có để đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất trong kinh
doanh.
Để làm rõ bản chất của hiệu quả cần phải phân định sự khác nhau giữa “

hiệu quả” và “ kết quả” và mối quan hệ giữa chúng. Trong đó, kết quả là phần
vật chất thu được từ mục đích hoạt động của con người, nó được thể hiện bằng
nhiều chỉ tiêu, nhiều nội dung tuỳ thuộc vào những trường hợp cụ thể. Do tính
mâu thuẫn giữa khả năng hữu hạn về tài nguyên với nhu cầu không ngừng tăng
lên của con người, mà yêu cầu người ta phải xem xét kết quả đạt được tạo ra như
thế nào, chi phí bỏ ra là bao nhiêu… Chính vì vậy, khi đánh giá hoạt động sản
xuất kinh doanh người ta không chỉ dừng lại ở việc đánh giá chất lượng hoạt
14
động sản xuất kinh doanh để tạo ra kết quả đó. Việc đánh giá chất lượng hoạt
động sản xuất kinh doanh là một nội dung đánh giá hiệu quả kinh tế.
Trên phạm vi toàn xã hội các chi phí bỏ ra để thu được kết quả là chi
phí lao động xã hội. Vì vậy, bản chất của hiệu quả chính là hiệu quả của lao
động xã hội. Từ đó ta có thể kết luận rằng: Thước đo hiệu quả là sự tiết kiệm
hao phí lao động xã hội còn tiêu chuẩn của hiệu quả là sự tối đa hoá kết quả
và tối thiểu hoá chi phí trong điều kiện nguồn lực nhất định.
2.1.2.3. Phân loại hiệu quả kinh tế
a) Phân loại hiệu quả kinh tế theo nội dung và bản chất
Hiệu quả kinh tế có thể xem xét theo các góc độ độc lập tương đối như sau:
+ Hiệu quả kinh tế biểu hiện mối tương quan giữa kết quả đạt được về
mặt kinh tế với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, bao gồm: Bảo vệ môi
trường, lợi ích công cộng, trật tự an toàn xã hội,…
+ Hiệu quả kinh tế thể hiện sự phát triển của công ty, của vùng lãnh
thổ, của một quốc gia,… Đây là kết quả của nhiều yếu tố tổng hợp lại như
tình hình đời sống, trình độ dân trí, vấn đề phát triển cơ sở hạ tầng, sự phát
triển sản xuất của cả vùng….
b) Phân loại hiệu quả kinh tế theo phạm vi và đối tượng xem xét
Phạm trù này được đề cập đến mọi đối tượng của nền sản xuất xã hội
như các địa phương, các ngành sản xuất, từng cơ sở, đơn vị sản xuất hay một
quyết định quản lý,… có thể phân loại phạm trù này như sau:
+ Hiệu quả kinh tế quốc dân: Là hiệu quả kinh tế chung trong toàn bộ

nền sản xuất xã hội.
+ Hiệu quả kinh tế ngành: Là hiệu quả tính riêng từng ngành sản xuất
vật chất như ở ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,…. Trong nông
15
nghiệp được chia thành hiệu quả kinh tế của cây nông nghiệp, hiệu quả kinh
tế của cây lương thực, hiệu quả kinh tế chăn nuôi gia súc, gia cầm,…
+ Hiệu quả kinh tế theo vùng lãnh thổ: Là tính riêng đối với từng vùng,
khu vực và địa phương,…
+ Hiệu quả kinh tế của từng quy mô sản xuất – kinh doanh như: Hộ gia
đình, hợp tác xã, nông trường quốc doanh, công ty, tập đoàn sản xuất.
+ Hiệu quả kinh tế của từng biện pháp kỹ thuật, từng yếu tố chi phí đầu tư vào
sản xuất như: biện pháp về giống, chi phí phân bón, chi phí bảo vệ thực vật…
c)
Phân loại hiệu quả kinh tế theo từng các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất
+ Hiệu quả sử dụng đất
+ Hiệu quả sử dụng lao động
+ Hiệu quả sử dụng vốn
+ Hiệu quả ứng dụng công nghệ mới
+ Hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật
2.1.2.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
a) Một số yêu cầu khi sử dụng hệ thống chỉ tiêu
Đánh giá hiệu quả kinh tế là một vấn đề, đòi hỏi phải có một hệ thống
chỉ tiêu để phản ánh đúng đắn chất lượng sản xuất kinh doanh. Hệ thống chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Đảm bảo tính thống nhất với hệ thống chỉ tiêu của nền kinh tế quốc dân.
+ Đảm bảo tính toàn diện, tức là đánh giá đúng đắn vấn đề nghiên cứu,
dễ hiểu, dễ áp dụng.
+ Đảm bảo tính toàn diện, tức là phải có cả chi tiêu tổng quát và chỉ
tiêu bộ phận, chỉ tiêu chủ yếu và chỉ tiêu bổ sung.
+ Các chỉ tiêu sử dụng phải phù hợp với chỉ tiêu đánh giá quốc tế khi so

sánh trong quan hệ đối ngoại.
16
b) Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế
Để xác định các chỉ tiêu hiệu quả trước hết ta cần xác định các chỉ tiêu
của kết quả.
Kết quả kinh tế của nền sản xuất xã hội gồm nhiều chỉ tiêu và đầu vào
của nó cũng có nhiều chỉ tiêu. Vì vậy, hiệu quả kinh tế của nền sản xuất xã
hội được xác định bằng một hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo
các yêu cầu sau:
+ Phải đảm bảo tính toàn diện của hệ thống bao gồm chỉ tiêu tổng quát, chỉ
tiêu bộ phận, chỉ tiêu chính thức và chỉ tiêu bổ sung( tính hệ thống của chỉ tiêu).
+ Phải đảm bảo tính thống nhất nó thể hiện ở nội dung trong phương
pháp xác định tính toán các chỉ tiêu
+ Phải đảm bảo tính thiết thực trong nhận thức đời sống kinh tế xã hội
quản lý nền sản xuất cũng như các bộ phận cấu thành nên nó,
+ Phải phù hợp với chế độ tính toán thống kê, đặc điểm của từng giai
đoạn sản xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng, đảm bảo tính chất
lịch sử cụ thể.
+ Chỉ tiêu phải phù hợp với nội dung, phương pháp tính toán quốc tế để
có thể so sánh hoà nhập với kinh tế thế giới trong phát triển kinh tế mở của
Đảng và Nhà nước.
Trong nền kinh tế vi mô quan điểm kinh doanh tư nhân được xuất phát
từ lợi ích riêng của từng công ty, xí nghiệp nên hiệu quả sản xuất tức là mức
độ lợi nhuận. Phạm vi chi phí để đạt được hiệu quả trong sản xuất không phải
là toàn bộ chi phí lao động xã hội nói chung mà là chi phí cá biệt. Đối với nhà
doanh nghiệp, lợi ích thực tế không phải là kết quả của chi phí xã hội mà chỉ
17
là kết quả của những chi phí cá biệt mà họ bỏ ra.
Trong nền kinh tế vĩ mô, yêu cầu cơ bản đặt ra khi xác định hiệu quả là
phải tính tới kết quả hữu ích của nền kinh tế quốc dân. Phải xuất phát từ lợi

ích xã hội khi xác định hiệu quả phải tính toán tất cả các chi phí lao động xã
hội không chỉ tính hiệu quả của từng cơ sở sản xuất mà điều quan trọng là
hiệu quả vĩ mô của từng ngành, lãnh thổ, địa phương, thậm chí toàn bộ nền
sản xuất xã hội.
* Chỉ tiêu đánh giá kết quả:
+ Tổng giá trị sản xuất: GO
+ Tổng giá trị gia tăng : VA
+ Lợi nhuận : Pr
+ Phần kết quả tăng thêm:

Q
* Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế:
Với chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất và chỉ tiêu phản ánh chi phí ta
có chỉ tiêu tổng quát hiệu quả kinh tế:
H =
CF
Q

→
Max(1a) H =
Q
CF

→
Min(1b)
H =
CF
Q



→ Max(2a) H =
Q
CF


→ Min(2b)
Trong đó :
H: Hiệu quả kinh tế
Q: Kết quả sản xuất
CF: Chi phí sản xuất
* Từ các quan điểm về các chỉ tiêu kết quả thu được từ sản xuất kinh
18
doanh và phí bỏ ra ta có thể đưa ra các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế qua bảng sau:
Bảng 1: Các chỉ tiêu tính hiệu quả kinh tế
Chỉ tiêu
Tổng giá trị
sản xuất
(GO)
Giá trị
tăng(VA)
Lợi
nhuận
( Pr)
Phần tăng
kết quả(

Q)
Tổng chi phí ( TC)
GO/ TC VA/TC Pr/TC
Chi phí vật chất( VC)

GO/VC VA/VC Pr/VC -
Chi phí trung gian( IC)
GO/IC VA/IC Pr/IC -
Chi phí lao động( LC)
GO/LC VA/LC Pr/LC -
Chi phí của từng yếu tố
( YC)
GO/YC VA/YC Pr/YC

Q/YC
Chi phí tăng thêm(

CF)
- - -

Q/

CF
* Một số chỉ tiêu phản ánh nguyên nhân
Như chúng ta đã biết đánh giá hiệu quả kinh tế là một công việc hết sức
khó khăn và phức tạp. Do đó, muốn đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế một
cách đầy đủ và toàn diện chúng ta phải kết hợp bổ sung với những chỉ tiêu
dưới đây:
+ Chỉ tiêu về năng suất lao động
N = M/ T hay N = T/M
Trong đó : N là năng suất lao động
M là khối lượng sản phẩm sản xuất trong khoảng thời gian
nhất định
T là thời gian hao phí để sản xuất ra M sản phẩm
+ Chỉ tiêu về năng suất đất đai

19
N
D
= GO( N)/ D( CT)
Trong đó : GO( N) là giá trị sản xuất nông nghiệp
D (CT) là diện tích canh tác sử dụng trong sản xuất nông nghiệp
+ Thu nhập bình quân đầu người
+ Suất hao phí vật tư nguyên liệu
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Trên thế giới viện nghiên cứu nông nghiệp các nước hàng năm đã đưa
ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới, những công thức luân canh mới,
những mô hình sản xuất mới. Đặc biệt các viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI)
cũng đã đóng góp nhiều thành tựu về giống và hệ thống canh tác trên đất
trồng lúa. Tạp chí “Farming Japan” của Nhật ra hàng tháng đã giới thiệu
nhiều công trình nghiên cứu của Nhật.
Xu hướng chung trên thế giới hiện nay là các nhà khoa học nông
nghiệp đang tập trung mọi nỗ lực nghiên cứu cải tiến hệ thống giống cây
trồng vật nuôi có năng suất cao vào sản xuất nhằm tăng giá trị trên 1 đơn vị
diện tích trong 1 năm. Ví dụ ở Châu âu đã đưa chế độ luân canh 4 năm, 4 khu
với hệ thống cây trồng gồm: khoai tây, cây củ quả, ngũ cốc mùa xuân, cây có
3 lá và ngũ cốc mùa đông vào thay thế chế độ luân canh 3 năm, 3 khu với hệ
thống cây trồng chủ yếu là ngũ cốc – ngũ cốc – bỏ hoá làm cho năng suất ngũ
cốc tăng gấp 2 lần và sản lượng lương thực, thực phẩm trên 1 ha tăng gấp 4
lần. Ở Châu á trong những năm đầu của thập kỷ 70 của thế kỷ trước đã đưa
các cây hoa màu trồng cạn vào hệ thống cây trồng trên đất lúa đạt hiệu quả
cao.
Trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp được phát triển mạnh
mẽ ở các nước trên thế giới, đặc biệt là ở Châu á như Đài loan, Hàn Quốc,
20

Thái Lan...cho hiệu quả kinh tế cao. Các nước này có những điều kiện tự
nhiên cũng như con người khá tương đồng với Việt Nam nên việc nghiên cứu
kỹ các mô hình này sẽ giúp nước ta có kinh nghiệm trong việc xây dựng các
mô hình trang trại cho thu nhập cao phù hợp với những điều kiện cụ thể của
nước ta. Đặc biệt là các trang trại chăn nuôi ở các nước này rất phát triển, đây
sẽ là một thế mạnh rất quan trọng cho những nước đang phát triển đi sau như
nước ta áp dụng vào xây dựng và phát triển.
2.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở nước ta trong những năm gần đây ngành nông nghiệp đang phát triển
mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá. Nhiều giống cây trồng vật nuôi mới đưa
vào sản xuất làm phong phú thêm hệ thống giống về chủng loại và chất lượng,
thích nghi với các vùng sinh thái, góp phần đáng kể đưa năng suất và sản
lượng nông nghiệp cả nước tăng lên.
Khi trình độ nông nghiệp còn thấp thì sản xuất chủ yếu tập trung vào
lương thực. Còn ngày nay khi cuộc sống ngày càng được nâng cao thì các loại
cây trồng, thức ăn cao cấp, các sản phẩm chăn nuôi, cây ăn quả nhu cầu của
thị trường ngày càng lớn, chính vì thế mà nông nghiệp đang có sự chuyển
dịch cơ cấu đáng kể. Với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, các sản phẩm
mang tính hàng hoá cao được đẩy mạnh.
Cùng với việc nghiên cứu đưa ra các giống mới vào sản xuất, các cơ
qaun nghiên cứu đã đưa ra các công thức luân canh mới, các mô hình sản xuất
mới được áp dụng vào xây dựng, sản xuất đã khai thác tốt hiệu quả đất nông
nghiệp, góp phần tăng tổng sản phẩm xã hội và nâng cao thu nhập cho người
nông dân.
Các vấn đề này đã được nhiều tác giả nghiên cứu như Bùi Huy Đáp,
Ngô Thế Dân..
21
Các đề tài nghiên cứu trong chương trình KN01 (1991-1995) do Bộ
nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì cũng nghiên cứu hệ thống cây
trồng vật nuôi trên các vùng sinh thái khác nhau như vùng núi và trung du

phía bắc, vùng đồng bằng sông Cửu Long…
Trong những năm gần đây chương trình quy hoạch tổng thể vùng đồng
bằng sông hồng VIE/89/023 cũng đã nghiên cứu đề xuất dự án phát triển đa
dạng hoá nông nghiệp đồng bằng sông Hồng. Trong đó nội dung quan trọng
là phát triển hệ thống cây trồng, vật nuôi để nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp từ 1993-2010.
Các công trình nghiên cứu của Lê Trọng Cúc (1971), Nguyễn Ngọc
Bình (1987), Lê Duy Thước (1991), Lê Thanh Hà (1993), Lê Đình Sơn
(1993)...đã đề cập tới hệ thống cây trồng trên đất dốc cho phép nâng cao năng
suất cây trồng và bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta. Trong những năm
gần đây, do tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường đã xuất hiện những mô
hình sử dụng đất nông nghiệp mới, những công thức luân canh mới đạt hiệu
quả kinh tế cao trên từng vùng sinh thái.
Trên vùng sinh thái gò đồi đã xuất hiện những mô hình nông lâm kết
hợp, mô hình vườn đồi kết hợp với cây trồng lâu năm với cây trồng ngắn
ngày, mô hình trang trại VAC quy mô lớn, mô hình chăn nuôi lớn. Ở vùng
đồng bằng sông hồng đã xuất hiện nhiều mô hình luân canh cây trồng 3 – 4 vụ
1 năm đạt hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt ở các vùng sinh thái gần ven đô, tưới
tiêu chủ động đã bố trí lại hệ thống cây trồng, vật nuôi và đưa vào các loại cây
trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao như gà thịt, lợn hướng nạc, hoa, rau
sạch... cho giá trị sản lượng bình quân đạt trên 50 triệu đồng/ha trong 1 năm.
Trên những vùng sinh thái không thuận lợi đã lợi dụng những lợi thế so sánh
trên từng chân đất để phát triển mô hình kết hợp giữa trồng trọt và nuôi trồng
22
thuỷ sản, đưa vào những giống cây trồng có khả năng chống chịu chua mặn,
nhằm nâng cao năng suất cây trồng.
Trong những năm gần đây phong trào chuyển đổi diện tích đất nông
nghiệp để chuyển sang làm kinh tế theo kiểu trang trại đang phát triển mạnh
mẽ trên địa bàn toàn quốc. Cùng với sự giúp đỡ của các cơ quan nghiên cứu,
các địa phương trong cả nước đã xây dựng được các trang trại kiểu mẫu có

hiệu quả kinh tế cao giúp các hộ đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng mô hình
có đạt hiệu quả , phát huy tối đa tiềm năng đất nông nghiệp mang lại.
Tại các vùng ven đô Hà Nội như Đông Anh, Từ Liêm, Gia Lâm đã có
nhiều cong thức luân canh mới, các mô hình sử dụng đất nông nghiệp mới
cho hiệu qảu kinh tế cao. Đặc biệt là ngành trồng hoa cây cảnh, sinh vật cảnh,
rau thực phẩm sạch, chăn nuôi lợn hướng nạc, gà thịt...cho thu nhập rất cao so
với các công thức luân canh, các mô hình sử dụng đất nông nghiệp cũ truyền
thống.
Tóm lại, việc nghiên cứu và phát triển kinh tế trên đất nông nghiệp
được nhiều cơ quan và tác giả trong và ngoài nước đề cập đến và đưa ra các
giải pháp phát triển khác nhau. Như vậy đưa ra các giống mới vào hệ thống
cây trồng, vật nuôi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi hệ thống
sản xuất theo hướng hàng hoá... đã phát triển khả quan, đặc biệt ở vùng đồng
bằng sông Hồng và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn rất nhiều so với các mô
hình sản xuất truyền thống. Tuy nhiên thực thực tế áp dụng vẫn còn hạn chế,
chưa phát huy hết tiềm lực kinh tế trong vùng, dẫn đến hiệu quả sản xuất
ngành nông nghiệp ở các địa phương vẫn chưa cao, chưa khai thác tốt tiềm
năng sẵn có của địa phương.
Ở phạm vi đề tài này, với địa điểm nghiên cứu xã Trâu Quỳ, chúng tôi
tiếp tục nghiên cứu, điều tra, đánh giá và phát triển một số mô hình sử dụng
đất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị sản xuất và thu nhập trên một
23
diện tích, đồng thời coi trọng việc nâng cao hiệu quả đầu tư chi phí vật chất
và lao động trên các mô hình sản xuất của các nông hộ.
24
PHẦN III. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
3.1.1. Quá trình phát triển
Xã Trâu Quỳ tiền thân là Quang Trung I, khu đồn điền 16 ấp thuộc Bắc

Ninh ngày xưa. Trước Cách Mạng Tháng 8 – 1945, phần lớn là dân tá điền
nghèo khó làm thuê, cấy mướn cho đồn điền Mácty, chủ yếu là dân Hà Nam,
Hưng Yên và một số tỉnh khác cùng nhau sinh cơ lập nghiệp sống rải rác trên
9 thôn và một phố Trâu Quỳ. Hoà bình lập lại dưới sự lãnh đạo của Đảng và
nhà nước, với chính sách giao đất cho người nông dân, cuộc sống cũng đỡ vất
vả khó khăn hơn. Qua quá trình cải tạo xã, hệ thống sông ngòi mương máng,
thuỷ nông tương đối hoàn chỉnh, đất đai trù phú rất phù hợp cho phát triển cây
nông nghiệp và nuôi trồng các loại cây, con giống. Ngày nay, Trâu Quỳ là
một xã phát triển tương đối toàn diện và là 1 xã điển hình về phát triển kinh tế
của khu vực ngoại thành TP Hà Nội, ngày 01/04/2005 xã Trâu Quỳ đã được
công nhận là một thị trấn và có thể nói Trâu Quỳ sẽ là trung tâm của huyện
Gia Lâm.
3.1.2. Điều kiện tự nhiên
3.1.2.1. Vị trí địa lý
Trâu Quỳ là một xã nằm giữa trung tâm của huyện Gia Lâm cách thủ
đô Hà Nội 3 km về phí đông bắc. Hiện nay xã có tất cả là bảy thôn và hai phố
với vị trí tiếp giáp của xã như sau :
Phía Bắc giáp xã Cổ Bi, Đặng Xá, Phú Thị
Phía Nam giáp xã Đa Tốn, Đông Dư
Phía Tây giáp xã Cự Khối, Thạch Bàn
Phía Đông giáp xã Dương Xá, Kiêu Kỵ
25

×