Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 12 trang )

Rừng là nguồn tài nguyên quý giá, có ý nghĩa to lớn đốivới môi trường cũng
như cuộc sống của con người. Đó là một thành phần của môi trường địa lí tham gia
vào vòng tuần hoàn vật chất sinh địa-hóa toàn hành tinh, là nguồn tài nguyên thiên
nhiên quý giá và đa diện, bảo đảm nhu cầu nhiều mặt của con người. Ngày nay, do dân
số tăng nhanh, nhu cầu về tài nguyên ngày càng lớn nên đã gây sức ép đối với các loại
tài ngyên nói chung và tài nguyên rừng nói riêng. Tài nguyên rừng đã được huy động
ngày càng nhiều nhằm đáp ứng nhu cầu tăng nhanh về lương thực, thực phẩm, gỗ củi
và các nguyên liệu cho sự phát triển kinh tế xã hội của con người. Vì vậy, vấn đề suy
giảm tài nguyên rừng đã và đang trở thành vấn đề chung, cấp bách của toàn thế giới
đặc biệt là ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Việt Nam là đất nước nhiều đồi núi, dân số lại đông và tăng nhanh nên tài
nguyên rừng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên trong những năm gần đây do
việc khai thác quá mức của con người cùng với thiên tai cháy rừng, tài nguyên rừng
của Việt Nam đã bị suy giảm đến mức báo động cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy,
bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng đang là vấn đề đặt ra hàng đầu đối với nước ta
hiện nay.
1. Vai trò của rừng.
Rừng là nguồn tài nguyên quý giá có vai trò đặc biệt quan trọng đối với môi
trường cũng như phát triển kinh tế xã hội.
- Đối với môi trường:
+ Rừng góp phần quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, đảm bảo cân bằng
sinh thái, làm giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai.
+ Ngăn chặn xói mòn đất, bảo vệ mực nước ngầm.
+ Là nơi lưu giữ các nguồn gien động thực vật quý hiếm.
- Đối với sự phát triển kinh tế xã hội:
+ Rừng là nguồn cung cấp gỗ và lâm sản phục vụ cho nhu cầu đời sống và sản
xuất.
+ Cung cấp các mặt hang lâm sản có giá trị xuất khẩu góp phần thu ngoại tệ
phục vụ qua trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1
+ Cung cấp các dược liệu quý có tác dụng chữa bệnh, nâng cao sức khỏe cho


con người
+ Đối với các vùng núi nước ta, rừng còn là nguồn sống chủ yếu của các đồng
bào dân tộc ít người.
2. Hiện trạng suy giảm tài nguyên rừng Việt Nam.
Việt Nam là đất nước nhiều đồi núi, diện tích đồi núi chiếm tới ¾ diện tích lãnh
thổ nên phần lớn diện tích lãnh thổ được rừng che phủ. Diện tích đất lâm nghiệp nước
ta năm 2005 là 14,43 triệu ha chiếm 43,6% diện tích đất tự nhiên. Đất nước Việt Nam
trải dài trên nhiều vĩ tuyến và đai cao, với địa hình rất đa dạng, hơn 2/3 lãnh thổ là đồi
núi, lại có khí hậu thay đổi từ nhiệt đới ẩm phía Nam, đến á nhiệt đới ở vùng cao phía
Bắc, đã tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái tự nhiên và sự phong phú về các loài sinh
vật. Những hệ sinh thái đó bao gồm nhiều loại rừng như rừng cây lá rộng thường xanh,
rừng nửa rụng lá, rừng rụng lá, rừng trên núi đá vôi, rừng hỗn giao lá rộng và lá kim,
rừng lá kim, rừng tre nứa, rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng ngập nước ngọt,... Tuy
nhiên trong những năm qua, do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ
quan nên rừng của nước ta đã bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng và chất lượng
rừng.
2.1 Về trữ lượng ( diện tích ) rừng.
Sự suy giảm tài nguyên rừng biểu hiện trước hết và rõ nét thông qua việc suy
giảm diện tích. Trước đây phần lớn đất nước Việt Nam có rừng che phủ, nhưng chỉ
khoảng một thế kỷ qua, rừng bị suy thoái nặng nề. Trong thời kỳ Pháp thuộc, nhiều
vùng đất rộng lớn ở phía Nam đã bị khai phá để trồng cà phê, cao su, chè và một số
cây công nghiệp khác. Vào khoảng giữa thế kỷ XX, hầu như các khu rừng thuộc châu
thổ sông Hồng, một phần lớn châu thổ sông Cửu Long cùng với các khu rừng trên đất
thấp ven biển đã bị khai phá để trồng trọt và xây dựng xóm làng. Vào lúc này độ che
phủ của rừng còn lại 43% diện tích đất tự nhiên.
Ba mươi năm chiến tranh tiếp theo là giai đoạn mà rừng Việt Nam bị thu hẹp lại
khá nhanh. Hơn 80 triệu lít chất diệt cỏ cùng 13 triệu tấn bom đạn với hơn 25 triệu hố
2
bom đạn, bom cháy cùng với đội xe ủi đất khổng lồ đã tiêu hủy hơn 2 triệu ha rừng
nhiệt đới các loại.

Bảng 1: Sự biến động diện tích rừng Việt Nam giai đoạn 1943-2009 ( triệu ha )
Năm
Loại rừng
1945 1976 1985 1995 2005 2009
Tổng diện tích 14.3 11.2 9.9 9.3 12.7 13.2
Rừng tự nhiên 14.3 11.1 9.3 8.3 10.2 10.3
Rừng trồng 0 0.1 0.6 1.0 2.5 2.9
Độ che phủ (%) 43.0 33.8 30.0 28.2 38 39.1
( Nguồn: gso.gov)
Qua bảng số liệu 1 ta có thể thấy, từ năm 1945 đến năm 1995 tổng diện tích
rừng của nước ta liên tục giảm xuống ( giảm 5 triệu ha trong vòng 50 năm, trung bình
mỗi năm giảm 0.1 triệu ha), trong đó đặc biệt giảm nhanh ở giai đoạn 1976 – 1985,
trung bình mỗi năm mất khoảng 0.14 triệu ha. Nguyên nhân chính làm mất rừng trong
giai đoạn này là do dân số tăng nhanh, nạn đốt nương làm rẫy tràn lan, quá trình
khai hoang lấy đất trồng các cây công nghiệp như cà phê, chè, cao su…và khai
thác gỗ xuất khẩu. Từ những năm 1990 – 1995, do công tác trồng rừng được
đẩy mạnh đã phần nào làm cho diện tích rừng tăng lên, từ 9.3 triệu ha lên 13.2 triệu
ha ( trung bình mỗi năm tăng 0.21 triệu ha). Tuy nhiên, nhìn chung diện tích rừng vẫn
chưa thể phục hồi.
+ Trong tổng diện tích rừng thì rừng tự nhiên có xu hướng giảm đi rõ rệt và
đang dần bị thay thế bởi rừng trồng. Diện tích rừng tự nhiên liên tục giảm từ năm 1945
đến năm 1995 đặc biệt giảm nhanh trong giai đoạn 1976-1995 (giảm từ 11.1 triệu ha
xuống còn 8.3 triệu ha tức là giảm 2.8 triệu ha trong vòng 19 năm, trung bình mỗi năm
giảm 0.11 triệu ha). Đặc biệt nghiêm trọng ở một số vùng, như Tây Nguyên mất
440.000ha, vùng Đông Nam Bộ mất 308.000ha, vùng Bắc Khu IV cũ mất 243.000ha,
vùng Bắc Bộ mất 242.500ha. Nguyên nhân là do sau thời kỳ chiến tranh, dân địa
phương tranh thủ chặt gỗ làm nhà và lấy đất trồng trọt. Tình trạng đó vẫn còn đang
3
tiếp diễn cho đến ngày nay. Tuy nhiên từ năm 1995 đến nay diện tích rừng tự nhiên
đang có xu hướng tăng trở lại, năm 1995 là 8.3 triệu ha đến năm 2009 đạt 10.3 triệu ha

( trung bình mỗi năm tăng 0.5 triệu ha). Điều này được lí giải là chủ yếu do sự phát
triển của rừng tái sinh và rừng tre nứa mặc dù trong một thời gian ngắn các loại rừng
đó chưa thể thành rừng tự nhiên tốt được.
Trong 7 kiểu rừng tự nhiên chủ yếu ở nước ta thì trừ rừng lá rộng rụng lá và
rừng hỗn giao giữa gỗ và tre nứa tất cả các kiểu rừng còn lại đều giảm về diện tích.
Trong số này, rừng lá rộng thường xanh và nửa rụng lá là loại rừng bị giảm nhiều nhất
mà tiêu biểu là Đăc Lắc và Gia Lai ở Tây Nguyên. Cùng với đó, diện tích rừng tre nứa
cũng giảm tương đối nhanh nhất là ở Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ và Đông Bắc do việc
đốt rừng làm rẫy và phá rừng để lấy đất trồng cây công nghiệp. Diện tích rừng ngập
mặn và rừng chua phèn cũng giảm mạnh do phá rừng để nuôi trồng thủy sản đặc biệt ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long.
+ Trong những năm qua diện tích rừng trồng có xu hướng tăng lên rõ rệt đặc
biệt là từ năm 1995 trở lại đây. Năm 1995, diện tích rừng trồng nước ta mới có 1 triệu
ha thì đến năm 2009 đã tăng lên 2.9 triệu ha, trung bình mỗi năm tăng 0.1 triệu ha. Sự
gia tăng diện tích rừng trồng gắn liền với các chính sách khuyến lâm đặc biệt là việc
giao đất giao rừng cho các hộ nông dân. Ngoài ra còn có các chương trình trồng rừng
được sự hỗ trợ về vốn và kĩ thuật nhà nước của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên, trên
thực tế diện tích rừng trồng vẫn chưa bù đắp lại được số diện tích rừng của nước ta đã
bị mất đi trong những năm qua, đặc biệt là về chất lượng rừng.
Cùng với sự biến động của diện tích rừng, độ che phủ rừng cũng biến động thất
thường qua các năm. Từ năm 1945 đến 1995 diện tích rừng liên tục giảm kéo theo sự
suy giảm của độ che phủ rừng từ 43% xuống còn 28.2% (giảm 14.8%). Từ năm 1995
trở lại đây do diện tích rừng trồng tăng lên nên tỉ lệ che phủ rừng cũng tăng đạt 39,1%
năm 2009. Tuy nhiên, vẫn thấp hơn rất nhiều so với mức an toàn sinh thái (45%).
Bảng 2: Bình quân diện tích rừng theo đầu người của Việt Nam giai đoạn 1943-2009
(Đơn vị: ha/người)
4
Năm 1943 1976 1985 1995 1999 2005 2009
Ha/người 0.63 0.23 0.17 0.13 0.14 0.15 0.15
Bình quân diện tích rừng theo đầu người của nước ta vào loại thấp nhất thế giới.

Giai đoạn 1943-1995 diện tích rừng theo đầu người liên tục giảm mạnh từ 0.63
ha/người xuống còn 0.13 ha/người tức giảm tới 0.5 ha/người. Từ năm 1995 đến nay
tuy có tăng lên nhưng không đáng kể. Năm 2009 chỉ số này là 0.15 ha/người thấp hơn
nhiều so với trung bình của thế giới ( Diện tích rừng bình quân đầu người của thế giới
là 0.93 ha/người). Nguyên nhân là dân số nước ta tăng nhanh trong khi diện tích rừng
trồng bổ sung hàng năm là không đáng kể.
Bảng 3: Diện tích rừng bị chặt phá phân theo các vùng giai đoạn 1995-2009
( Đơn vị: ha )
Năm 1995 1998 2001 2004 2007 Sơ bộ 2009
Cả nước
18914.0 7503.4 2819.7 2254.0 1348.1 1563.0
Đồng bằng sông Hồng
115.0 517.5 505.0 393.7 3.2 8.5
Trung du miền núi phía
Bắc
2199.0 2116.1 218.2 208.2 229.0 309.3
Duyên hải miền Trung
2487.0 713.4 199.7 268.6 124.6 84.4
Tây Nguyên
10134.0 3092.7 1305.2 457.2 481.3 714.8
Đông Nam Bộ
1387.0 751.0 481.5 886.7 483.9 428.0
Đồng bằng sông Cửu
Long
2592.0 312.7 110.1 39.6 26.1 18.0
( Nguồn: gso.gov )
Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự suy giảm diện tích rừng là
do nạn chặt phá rừng bừa bãi của người dân. Năm 1995 cả nước mất tới 18 914 ha, từ
đó đến nay tuy đã giảm nhưng trung bình mỗi năm diện tích rừng bị chặt phá vẫn lên
tới 1 239.3 ha. Trong phạm vi cả nước thì Tây Nguyên là vùng có diện tích rừng bị

chặt phá lớn nhất cả nước, năm 1995 là 10134 ha đến năm 2009 có giảm mạnh nhưng
5

×